Tên thật Ngô Hoan, sinh năm 1912, nguyên quán huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Tốt nghiệp trung học ở Hà Nội. Từ những năm 30, Thanh Châu chuyên làm báo, viết văn, cộng tác với nhiều tờ báo ở Hà Nội, đặc biệt với Tiểu thuyết thứ bảy và các cơ sở của nhà Tân Dân. Từ Cách mạng Tháng Tám, Thanh Châu tham gia nhóm tuyên truyền kháng chiến. Năm 1949, ông nhập ngũ, công tác ở Đại đoàn 304, Bộ Tư lệnh quân khu IV và phụ trách báo Vệ quốc quân, rồi thông tin viên báo Quân đội nhân dân. Sau hòa bình, Thanh Châu sống ở Hà Nội, công tác tại các báo Văn, Văn nghệ và Hội Nhà văn Việt Nam. Tác phẩm chính: Sám hối nửa đêm (1940), Bóng người ngày xưa (1941), Tà áo lụa (1942), Cùng một ánh trăng (1942), Trong bóng tối (1936), Người thày thuốc (1938), ông còn viết truyện thiếu nhi, soạn kịch..
Trong bóng tối
Bệnh nhân sực tỉnh giấc, dưới cái chăn dạ xám, để lộ ra một khuôn mặt võ gầy, xanh rớt của những người "ăn phải nước ngược" về. Hai con mắt sâu hoắm nhìn vơ vẩn quanh phòng như mất hết cả tinh thần, hai bàn tay gân guốc đặt hai bên cạnh giường run lẩy bẩy... Trong phòng còn bốn chiếc giường nữa đều có người nằm, người nào cũng chùm kín từ đầu đến chân trong những chiếc chăn dạ xám. Cái im lặng, lạnh lùng, ghê sợ nơi bệnh viện làm cho bệnh nhân phải rùng mình. Có lẽ anh ta thấy lạnh. Có lẽ anh ta đã nghe rõ tiếng đập cánh của tử thần bay lượn quanh mình. Có lẽ anh ta đã nhìn thấy cái bàn tay xương xẩu, nặng nề của thần chết giơ gần đến cổ anh ta để chực bóp... Nhưng chưa! Cái giờ cuối cùng ấy chưa đến được, vì anh ta vừa nghe có tiếng rên la thảm thiết của một người bạn "đồng viện" ở góc phòng. Cái tiếng rên thoát ở miệng một người cũng đương đau đớn như anh, làm cho anh tỉnh táo vì anh ta nghĩ: "Trên đời còn có kẻ cùng chung đau khổ với ta thì ta còn có bạn, ta chưa đến nỗi trơ trọi lắm". Trên đường sinh kế, anh ta là một tên lính cảm tử xông pha mũi tên, hòn đạn đến kỳ cùng. Nhưng, đến nay thì thật hết! Cuộc chiến đấu với đời để cướp miếng ăn, anh đành chịu bại; anh ta cố gắng mãi nhưng quá sức rồi, anh ta đã bị thương. Quanh mình anh, những bệnh nhân khác biết đâu không phải là những tên lính như anh, cũng thua trận, cũng bị thương vì phải xông pha trên đường sinh kế, đến nay mòn mỏi cả xác thịt lẫn linh hồn. Họ chỉ là cái rơm rác, bẩn nhơ đối với xã hội. Ngày mai, ngày kia... sẽ có một ngày, một buổi tối trời, người ta đem hắt những rơm rác đó xuống những cái hố đen chẳng ai biết đến. Thế là xong!
Đến lượt anh? Rồi cũng thế! Nhưng không, anh muốn sống, muốn được sống như mọi người, dù có phải lăn lóc, ê chề, đau đớn, dù có phải bước lại cái quãng đường anh ta vừa bước khỏi, dù đầy những sự thảm khốc, bất công, tàn ác, đầy những sự lo lắng, mệt nhọc, nặng nề, anh ta cũng vui lòng trở lại. Rồi, và không rên, không la, anh ta cũng vui lòng chịu hết mọi thứ cực hình trên cõi thế. Miễn là anh thoát khỏi bàn tay ghê tởm của tử thần, miễn là anh lại kiếm được ngày hai bữa no hay đói, để sống với ngày qua, tháng lại. Mặt trời lên cao, chiếu qua cửa sổ bên cạnh giường bệnh nhân, rải những ánh nắng vàng lên trên tấm chăn dạ xám. Cùng một lúc, phía ngoài cửa sổ, trên hàng rào dâm bụt nở hoa đỏ ối, những con chim sâu buổi sáng đi kiếm mồi ăn, ríu rít kêu những tiếng êm đềm. Ngoài trời đầy ánh sáng, vạn vật như vui mừng, hớn hở, thắm tươi... Bệnh nhân cảm thấy lòng mình như hồi hộp vì một sự gì mới lạ vừa xảy đến. Anh ta biết chỉ hai bước, cách chỗ mình nằm, bên ngoài cửa sổ là cõi thiên đàng của đồng loại, đầy sinh thú. Còn trong phòng, chỗ mình nằm, tối tăm, ẩm thấp là cõi chết hay là quãng giữa của cõi sống và cái chết. Nhưng làm thế nào mà thoát ra được? Bệnh nhân định trở mình để quay mặt ra chỗ có ánh sáng của trời đất, định quay về phía cửa sổ có hoa nở, có chim kêu, nhưng nghe trong mình đau đớn như giần, anh ta không nhúc nhích, không động đậy được một chút nào, toàn thân tê liệt như bị dán xuống mặt giường. Anh ta nằm im, nhắm nghiền mắt, cố ôn lại những thời khắc của buổi đời qua: Anh ta nhớ đến những buổi sáng đầy ánh nắng lúc thiếu thời, quả tim anh đập rộn ràng, vì tình yêu đời vì say mê tạo vật. Anh ta nhớ đến một người thiếu nữ dịu dàng đã làm cho anh biết yêu, biết cảm. Cái gương mặt hiền lành, đôi mắt long lanh thường nhìn anh trong những lúc ân ái, nay lại hiện ra trước mắt, trên quãng không gian, rõ rệt như trên màn ảnh... nhưng xa xôi quá, xa xôi như trong cõi mộng. Anh ta lại nhớ đến buổi anh phải ra đời, chật vật vì mưu sống, khổ sở vì miếng cơm, manh áo, ước vọng không thành, hi vọng không đạt, chí tiến thủ nhụt dần, anh đem mình đến chốn rừng xanh, núi đỏ, nước độc, ma thiêng. Suốt ngày làm việc, làm như một con vật, đổi bát mồ hôi lấy bát cơm... Anh lại nghĩ đến lúc mình bị thương, họ thải, họ chở về xuôi, họ quẳng vào một xó bệnh viện, họ quên... rồi anh nghĩ đến ngày mai, nếu anh sống. Ôi!...! Nếu có thể sống được! Sống được để lại chịu đựng những sự bất công của đồng loại, những sự gian lao, thảm cực của cái đời tôi tớ khốn nạn... nhưng mà được sống, sống với ngày qua tháng lại như tất cả mọi người. Nghĩ đến "sự sống" bệnh nhân lại mỉm một nụ cười... hi vọng. Nhưng cái nụ cười ấy chỉ thoáng qua rất chóng trên bộ mặt gầy hốc hác, xanh xao, vì bệnh nhân đã thấy lạnh trong người. Cố nhích tấm thân tàn cỗi, bệnh nhân định quay mặt về phía cửa sổ đầy ánh sáng, có hoa nở, chim kêu, nhưng vô ích và phí sức! Toàn thân bệnh nhân đã tê liệt như bị dán xuống mặt giường. Cuộc đời của bệnh nhân là phải sống trong xó tối rồi chết trong xó tối; Ngoài ánh sáng, dưới mặt trời không có chỗ cho anh ta... Bệnh nhân biết mình không cưỡng được nữa, đành nằm yên lặng, nhắm nghiền mắt lại, rồi như một kẻ tàn quân bị tử thương, một buổi chiều kia trên bãi chiến trường mà bóng tối lan dần, bệnh nhân thở hắt ra một tiếng thở dài thảm đạm. Có lẽ đó là hơi thở... cuối cùng của người bại trận chịu thua đời. (Septembre 1934) Rút từ tập truyện ngắn Trong bóng tối, Ngô Ngọc Trương xuất bản, Hà Nội, 1936.
Lớp học cuối cùng
La Thôn mở hội đã được năm ngày mà đêm nào cũng như đêm nào, chỉ có đám hát là đông người xem nhất. Vì các cậu trai tơ chỉ để ý đến hai cô "nữ chèo" thường đóng Thúy Vân, Thúy Kiều, vì các cô gái quê mùa mộc mạc chỉ thích những giọng hát lẳng lơ, dễ nhớ. Những đoạn biệt nhau thảm thiết, những đoạn gặp gỡ tình cờ, những hồi tái hợp lâm ly hay những cảnh gian nan mà cô Kiều của cụ Nguyễn Du từng trải đã khiến cho đám người chất phác, hiền lành kia bồi hồi, cảm động, thương vay. Rồi, đám hát tan, trong lòng mỗi cậu trai quê vì thế đã có bóng hình một người yêu dấu, một người đoan trang, nết hạnh, đủ tài, đủ sắc như Kiều; rồi trong những giấc mộng vẩn vơ của các cô gái đương xuân, các cô thường thấy hiện lên "con người mơ tưởng", văn nhân cốt cách, tình tứ, thủy chung giống đúc chàng Kim, giống đúc người gặp gỡ của Kiều nương một buổi thanh minh, ngựa trắng tuyết in, áo pha màu cỏ... Suốt một năm trời ròng rã, một năm chân lấm tay bùn, mồ hôi nước mắt, cặm cụi, cấy cày, gặt hái trong những thửa ruộng nắng chang chang về mùa hạ, gió rét buốt thịt lúc trời đông, họ chỉ trông mau tới ngày ấy, ngày trong làng mở hội. Tháng Giêng ấm áp, trời xuân, mưa bụi... một chiếc áo tứ thân, một vành khăn mới, cái yếm hồng hay trắng, chiếc dây lưng màu cá vàng hay hoa lý... thế thôi, rồi chen chúc nhau bên đám cờ người, rồi la lết bên các hàng quà, hàng kẹo rẻ tiền chỉ có dịp này mới được nếm, nhất là tối đến, bên đám hát chèo có những "ông tướng" quần áo, mặt mày bôi thuốc hò hét om sòm, có những "cô đào" chân đi guốc hay đi... đất, tay múa dẻo, mắt đưa tình, cầm quạt vẽ hoa, hát những điệu, những câu mà họ đã nghe đến trăm bận, họ đã thuộc lòng, họ đã hát cho nhau nghe quanh năm những lúc làm ăn ngoài đồng ruộng, hát để khoe cái giọng trong, cái tài nhớ, hát để cùng nhau quên cái nhọc nhằn, nhưng họ vẫn còn muốn nghe hát lại. Vậy, đêm ấy là đêm cuối cùng mà phường Tư Vinh diễn ở làng nên họ lại diễn lại tích "Kim Kiều tái hợp". Cái đêm cuối cùng của ngày hội bao giờ cũng đông người. Người ta hay nghĩ đến "ngày mai" của cuộc vui, cái ngày mai trống rỗng buồn tẻ mà người ta bắt buộc phải trở lại với cái đời cũ, nặng nề, không thay đổi, vì thế nên ai cũng muốn vui chơi nốt đêm cho bõ lúc làm ăn. Tư Vinh đêm ấy lại sắm vai Từ Hải, vai sở trường của chàng từ buổi mà chàng mới tập nghề. Những dáng điệu oai nghiêm của một tên tướng giặc "chọc trời quấy nước" anh hùng, bạo dũng, những cái "đá giáp" gọn gàng, những cái "quất ngựa" dẻo dang, những câu hét vang lừng làm khiếp vía đàn bà, con trẻ, chàng đã thuộc làu. Nhưng đêm nay, trước khi từ biệt những cô con gái trong làng má đỏ hây hây đương mê mẩn nhìn mình, nhìn đôi lông trĩ dài cắm trên đỉnh mũ phất phơ, uốn éo, nhìn bộ áo thêu rồng, thêu phượng, nhìn cái thắt lưng điều tết hoa giữa ngực - nhìn đôi hia, nhìn ngọn giáo, chàng muốn đem hết bộ điệu, hết khóe tài tình để tả cho đúng hệt anh Từ Hải của chàng, đường đường một đấng anh hào, vẫy vùng quen thói. Ngày mai, trong lúc đưa gánh hát của mình đi tìm một làng khác, một làng sắp mở hội hay đương mở hội, trong lúc lặn lội trên những con đường dài mưa phùn, gió lạnh, Tư Vinh muốn hình ảnh mình còn ở lâu trong các cô con gái thơ ngây, tiếng hát của mình còn văng vẳng bên tai họ luôn luôn, mãi mãi... Nhưng trong lúc Tư Vinh đang trổ tài trước đám đông dân chúng say sưa im lặng, Tư Vinh không ngờ có một đôi con mắt lóng lánh căm hờn. Hai Giò, một kép hát già La Thôn, một anh say rượu suốt đời, một ông thày đã đào tạo ra nhiều Từ Hải, Thúc Sinh, Lưu Bình, Dương Lễ, Phạm Công với nhiều Thúy Kiều, Cúc Hoa, Châu Long... một "ngôi sao sáng" đã lu mờ trong bóng tối. Hơn ba mươi năm lăn lộn với nghề, hết chợ thì quê, Hai Giò đã đặt gót chân khắp chốn. Một bọn con em, một vài đầy tớ quảy dăm cái hòm gỗ sơn vuông đựng mũ mãng, hia, đai, quần áo, Hai Giò lần làng này sang làng khác, trong mấy tháng xuân đem cái vui đi gieo rắc cho khắp mọi người, đến đâu là thấy họ đón mời, hậu đãi. Vài tấm phên che, một cái buồng trò nho nhỏ, một vài cái ghế đẩu vừa là "ngai rồng" "trào đình" "gia đình" của một vị thiên tử, của một phú ông, một viên ngoại, vừa là "vườn hoa", "trướng gấm", "công đường"; dẹp ghế đi là thành ngay "bãi chiến trường" của hai tướng giao phong đọ sức. Dân quê nhiều tưởng tượng; tâm hồn giản dị, hiền lành của họ cho thế là đủ rồi, không cần vẽ vời, trang hoàng, bày biện lôi thôi, phiền phức. Hát! Hát thâu đêm suốt sáng, hát cả ban ngày, hát cho đến lúc tướng tá, vua quan, đào thảm, đào lẳng, đào thương khan cả giọng. Những phút thiên hạ chú ý, lắng tai, há mồm như muốn nuốt hết những câu "Nam", câu "Khách", những phút người cầm chầu khoái chí điểm gần vỡ trống. Hai Giò đã từng hưởng; Hai Giò đã từng biết những ngày oanh liệt mà tài chàng nức tiếng mọi nơi. Hai Giò lại còn từng biết những cuộc ái ân đổi thay chốc lát trong cuộc đời gió bụi, nay đây mai đó; Hai Giò đã được những cô gái non hơ hớ cảm tài chàng, đem trao tặng trái tim vàng; Hai Giò đã chiếm được lòng nhiều cô thiếu nữ đáng yêu, Hai Giò đã khiến bao anh kép khác nghe danh đến phải thèm thuồng, ghen tức.
Nhưng bây giờ? Thân tàn, ma dại, danh vọng về chiều, gánh tuổi trên vai nặng trĩu, không vợ không con. Hai Giò sống khổ sở, điêu linh, cô độc. Còn đâu thời phong lưu dễ dãi ngày xưa. Lẩn quất trong làng cho qua ngày đoạn tháng, kiếm chẳng đủ ăn, Hai Giò lại còn nghiện rượu. Chén rượu đối với Hai Giò lại còn cần hơn cơm gạo, rượu tức là một thứ thuốc để cho anh kép già đỡ khổ, đỡ buồn trong cái cảnh quạnh hiu. Mỗi lúc say sưa, nhớ lại cuộc đời xưa, Hai Giò thường cất tiếng hát huyên thiên, lảm nhảm; trẻ con hễ động nghe anh ta hát là xúm xít lại gần cười, ghẹo, sung sướng như được trêu nghịch một người điên. Thế mà, lạ lùng nhất! Mỗi khi trong làng mở hội, có phường hát, là người ta thấy mất mặt Hai Giò. Không bao giờ người ta gặp Hai Giò đi xem chèo hát. Hình như anh ta cho đi xem như thế tức là mỉa mai thấm thía cái "đời tài tử" của mình. Nhưng, đêm nay, đêm cuối cùng của những ngày hội linh đình, không hiểu tại sao Hai Giò lại lần vào giữa đám người làng, hơi rượu sặc sụa, mặt đỏ bừng, ngồi nghe hát. Trong lúc mọi người đương chăm chú xem Tư Vinh sắm vai Từ Hải, trong lúc Tư Vinh dương dương tự đắc trổ hết tài nghề thì bỗng một người ôm bụng cười lăn ra đất. Trăm miệng cùng kêu một tiếng: - Hai Giò! Phải, Hai Giò say bí tỉ, ngồi thu hình một xó tự nãy đến giờ mà không ai để ý. Tức thì một dịp cười vang cất lên giữa đám dân quê. Con trẻ reo hò, đàn bà bưng miệng: - Hai Giò! Hai Giò! Hai Giò không cười nữa. Hai Giò bỗng nghiêm nét mặt, trịnh trọng đi ra giữa sân khấu, mắt sáng quắc, dữ tợn đến nỗi con hát, người xem chẳng ai dám nói một câu. Họ thì thầm với nhau: - Hai Giò định làm gì vậy? Nghe những tiếng gọi tên mình như tiếng gọi hoan hô, cổ vũ của đám muôn dân đón chào một ông tướng thắng trận khải hoàn, nhớ lại cái thời mình được người yêu chuộng, được người phục tài đọc đến tên mình như tên một bực đáng tôn sùng, Hai Giò lúc này, tưởng đâu như cả đám người chen chúc nhau kia hôm nay đến xem Tư Vinh biểu diễn, vẫn chửa quên mình, vẫn chửa quên anh kép có biệt tài, có thực tài trong buổi đầu xanh đã từng làm rung động, thổn thức tâm can họ. Đời vẫn chưa quên "người tài tử" sống trong bóng tối. Lòng nhớ nghề bỗng sôi nổi, tưng bừng, phút hiển hách ngày xưa như đã trở lại với anh kép già, ốm mòn, tiều tụy. Vẻ tự đắc, dáng khinh người hiện ra nét mặt, Hai Giò đứng phưỡn ngực lườm Tư Vinh: - Tư Vinh! Anh hãy về học vài mươi năm nữa rồi hãy đóng trò! Tiếng cười lại nổi lên bốn phía. Tư Vinh cũng cười góp, cười gằn... - Tư Vinh! Anh làm xấu nghề chèo hát! Trông Hai Giò sắm vai Từ Hải đây này! Trông lão đây này! Rồi lảo đảo xốc quần, vén áo tả tơi, Hai Giò lấy điệu bộ, ra roi, quất ngựa, đá giáp, cười ha hả, trợn mắt, vuốt râu, múa hát một hồi. Như một cái máy, Hai Giò diễn lại cái vai trò xưa kia đã sắm không biết bao nhiêu lần, diễn lại một cách hoàn toàn, khéo léo đến nỗi chính Tư Vinh và con hát cũng phải ngẩn người, cả đám dân làng đi xem đêm ấy cũng bấm nhau thì thầm, không hò reo như trước nữa. Mọi người đương ngạc nhiên, im lặng xem Hai Giò múa hát thì Hai Giò bỗng đứt tiếng đứng trơ trơ... Hai Giò quên mất những câu hát cũ rồi! Anh kép già thẹn thùng dừng lại, cố nhớ mà không ra. Tiếng khúc khích, cười cợt, tiếng con nít hò reo lại bắt đầu nổi dậy. Điên cuồng và tức giận. Hai Giò vung tay hét lớn, lấy hết hơi hết sức hát huyên thiên như những hôm anh ta say rượu đi vơ vẩn trong làng, gân cổ nổi lên bằng chiếc đũa. Bỗng nhiên giữa tiếng dân làng reo gọi ồn ào, anh ta nằm vật xuống như một cái thân cây người ta vừa chặt gốc, mê man, bất tỉnh, thiếp dần... - Hai Giò say rượu! - A ha! Từ Hải chết đứng! Hai Giò đã diễn lớp cuối cùng của đời anh hát bội. Mọi người xúm lại vực Hai Giò. Hai Giò chỉ còn là một cái xác cứng đờ, lạnh ngắt người ta sắp khiêng đi để nhường chỗ cho phường Tư Vinh diễn lại lớp hát đương bắt đầu vui. Rút từ tập truyện ngắn Trong bóng tối, Ngô Ngọc Trương xuất bản, Hà Nội, 1936.