Sau gần hai tiếng đồng hồ chạy khật khưỡng qua những vùng đất đầy ắp những kỷ niệm của tuổi học trò, con tàu dừng bánh, thả ông Kỳ xuống ga Truông Bàn, một cái ga xép, rất xép nằm lọt giữa lòng thung. Có đúng ba người khách xuống, kể cả ông. Hỏi thăm một bà nạ dòng, chắc là dân buôn chuyến, ông được trả lời: - Bác về bên làng Hạ à, rứa thì bác đi theo lối ni. Bà ta chỉ về bên tay trái. Nhờ ánh trăng cuối tháng đã mọc ở chân trời, ông nhìn thấy một vệt trăng trắng, ngoằn ngoèo, chắc là con đường mòn. - Đi bộ vài trăm thước tây, bác sẽ gặp một cái đền, kêu bằng đền Voi ngựa... - Ơ... vậy thì cảm ơn bà, tôi biết rồi. - Ông Kỳ hấp tấp nói với người đàn bà tốt bụng và xốc ba-lô lên vai. Thế là ông sắp đi lại con đường của tuổi thơ. Đền Voi ngựa nằm cách nhà ông chỉ bốn cây số. Hồi ông học lớp Tư - cũng như lớp Một, lớp Hai bây giờ, không ngày nào không phải đi qua đó để đến trường hàng tổng nằm trên một đồi thông. Đền có tên chữ, nhưng dân trong vùng vẫn gọi nôm na như vậy, vì trước đền có đắp nổi hai con voi, hai con ngựa, bốn ông tướng cầm giáo đứng canh. Đền vẫn còn, nhưng trơ trọi, vì cánh rừng rậm rạp bao quanh đã bị cạo trọc. Voi, ngựa, bốn ông tướng vừa được sơn phết lại, trông nhỏ bé, còm cõi và lòe loẹt đến nực cười. Qua đền, qua một quãng dốc ngắn là đến cánh đồng. Con đường, vẫn là đường đất, nhưng hình như thẳng và to hơn. Nằm kề bên mép đường là con mương thủy lợi, tối thẫm dưới bóng rợp hai hàng cây đã khép tán. Gió thổi ngược, vẫn là gió "tây cào", nhưng về đêm, không còn lửa mặt trời nung đốt và được hơi nước của đồng lúa bốc lên làm dịu bớt, gió cũng mát và cũng mơn man được da thịt. Ông Kỳ cởi phanh áo, bước nhanh, cảm thấy như mình đang lấy lại được phần nào phong độ tuổi thanh xuân. Chẳng mấy chốc ông đã đứng trước con sông quê hương, có tên là Rào Đá, lấp loáng ánh trăng. "Đò ơi!". Ông Kỳ gọi hú họa. Đã hơn mười giờ đêm, không chắc người lái đò còn ở lại. Chợt có ánh lửa lóe lên trong một vùng tối của mép sông phía bên kia. Rồi một tiếng nói cũng từ đấy vọng sang "chờ nghe". Nhìn kỹ hơn vào vùng tối, ông nhận ra có một chiếc thuyền lớn, loại có mui cao, sức chở nặng hàng tấn, người dân quê ông xưa kia vẫn gọi là "đò choèn". Nhưng không phải chiếc thuyền ấy, mà một chiếc đò nhỏ, không mui, đang từ đó tách ra, quay mũi về phía ông. - Chào bác! - Ông Kỳ nói to khi đò cập bến. - Cảm ơn bác nhiều lắm! Ông có thể gọi bác, vì biết chắc đó là một ông già, lưng trần, mặc quần xà lỏn, mái tóc bạc và chòm râu rậm bay phơ phất trong làn gió thổi ngược dòng sông. - Có chi đâu mà phải cảm ơn. - Ông già đáp. Giọng có hơi khàn nhưng các âm thanh vẫn tròn, khỏe khoắn. - Chớ bác đi đâu mà qua đò khuya dậy? Ông Kỳ ngạc nhiên. Không phải giọng quê ông. - Tôi về thăm nhà bên làng Hạ này thôi. Ông Kỳ trả lời. - Thế xin lỗi... bác dề nhà ai bên làng ta đấy ạ? - Tôi về nhà ông Lạc, ông ấy là chú ruột tôi mà. Lúc đó đò đã đến giữa sông. Ông lão đang uốn cong người để chống thuyền bỗng bật thẳng dậy. Trong chừng vài tích tắc, ông Kỳ thấy cả con người ông lão bất động, im phắc, hệt bức tượng Phật Tuyết Sơn ở chùa Tây Phương. Cả con sào cầm ngang trong tay ông cũng không hề động đậy. - Trời. - Một tiếng kêu đường đột, như thể có cái gì ở ông lão bỗng vỡ tung. Rồi sau một khoảng lặng đến vài giây, ông lão mới có thể nói tiếp, giọng trở nên lắp bắp. - Thế... bác là... là... cậu Kỳ à? - Vâng... Thế bác là...? - Tôi là Tốn đây cậu ạ... chắt Tốn, người dưới An Thổ, có hồi làm cấp dưỡng ở cơ quan huyện, cậu nhớ ra chưa nào?
Năm đó ông Kỳ mới mười ba tuổi, đang học lớp Đệ Nhị ở trường Trung học trên huyện. Nhiều người gọi "cậu Kỳ". Vì cậu bé, cậu là học trò, nhưng chắc cũng vì một lý do khác, cậu được nể trọng. Cha cậu là Chủ tịch tỉnh, chú ruột cậu... ông Lạc, có bằng đíp-lôm, đang là Chánh văn phòng ủy ban huyện. Cậu sống với chú tại xóm Mít, nơi cơ quan huyện tản cư đến, cách trường Trung học chỉ hơn một cây số. Tốn, chắt Tốn lúc bấy giờ cũng có mặt ở đấy, và cũng gọi cậu là "cậu Kỳ". Nhưng hắn không phải là cán bộ, cũng không phải là dân thường, hắn là tù bị giam ở nhà lao Thạch Bàn. Ông quản đốc trại giam, sau một thời gian theo dõi, thấy hắn "cải tạo tốt", đã có nhã ý cho ủy ban mượn tạm, để hắn giúp vào việc "cải thiện" bữa ăn. Theo ông Lạc, người nhận Tốn và trực tiếp quản lý hắn, năm đó hắn vừa đúng ba mươi tuổi. Không biết trong nhà lao hắn thế nào, còn khi "cậu Kỳ" gặp ở cơ quan, trông hắn cũng "coi được". Hắn cao chừng một mét sáu lăm, không béo, không gầy, tầm vóc như vậy là vừa phải. Tốn nói hắn chẳng tập tành gì, nhưng ngực hắn rất nở, cùng với cái bụng thon, và hai cánh tay rắn chắc, tạo cho hắn chút dáng vẻ lực sĩ. Người ta đồn Tốn có "bộ mặt tướng cướp", nhưng "cậu Kỳ" khi nhìn hắn từ một khoảng cách rất gần, lại không đọc được chút gì như vậy cả. Mặt hắn hơi vuông về phía dưới, có bộ xương quai hàm chắc khỏe, bạnh ra, bộ ria mép lún phún. Nếu có gì làm cậu thấy trờn trợn chính là đôi mắt hắn. Đôi mắt sắc một cách hoang dã. Khi cái nhìn của hắn chiếu thẳng vào mắt ta, ta có thể nghĩ rằng nó đủ sức xuyên qua hộp sọ, đi đến tận nơi hình thành ý nghĩ của ta. Tốn sinh ra ở làng An Thổ, một làng đạo toàn tòng. Cha hắn, nghe nói đã chấm hắn, đứa con trai thứ hai trong sáu đứa, được coi là có trí lự, mặt mũi sáng sủa hơn cả, để sau này gửi đi học trường dòng. May ra được đủ bảy chức Thánh, ra làm Cha, làm Cụ, để trước lo phụng sự Chúa, sau mát mặt gia đình, giòng họ. Nếu không, cũng kiếm cho hắn chức Thầy, để đỡ chân lấm tay bùn. Nhưng không hiểu bị quỷ Sa tăng cám dỗ hay sao đó, mà mới học đến lớp Ba, chưa kịp thi yếu lược, Tốn đã phá bĩnh. Bị cha đánh cho một trận nhừ tử, Tốn bỏ nhà đi luôn. Hai năm sau, hắn gửi thư về, bảo đang làm thằng nhỏ cho một ông chủ gánh hát ngoài Hà Nội. Cha hắn tức tốc bổ đi tìm. Ông không chỉ lo hắn hư hỏng mà còn lo hắn bỏ đạo. Cũng may, ông chủ là người thuộc bổn đạo không chỉ cho hắn đủ cái ăn, cái mặc mà còn luôn nhắc hắn đọc kinh, xem lễ. Ông còn hứa sẽ dạy hắn, để mai kia, may ra làm được chân kép phụ. Cha mẹ hắn hoàn toàn yên tâm. Không làm được Cha, được Thầy, thôi thì làm kép hát cũng tốt. Nhưng chỉ tử tế được vài năm, rồi con ngựa chứng lại quay về lối cũ. Không chỉ bỏ bê công việc, Tốn còn tằng tịu với một cô đào trẻ mà ông chủ đã mất nhiều công rèn cặp, hy vọng sẽ nâng lên thành đào chính. Bị đuổi và bị dọa sẽ "báo bốt", Tốn dông thẳng về quê. Cha mẹ hắn thấy chỉ còn cách bắt hắn phải lấy vợ. Tốn đồng ý, và một năm sau cô vợ đã sinh được mụn con gái. Vì thế, theo tập quán địa phương, trước tên hắn mới có thêm từ Chắt. Nhưng rồi vợ con cũng không níu buộc nổi hắn. Vài năm trước Cách mạng Tháng Tám, Tốn sống bằng nghề xảm thuyền (1). Không ai biết hắn học nghề này từ bao giờ. Chỉ thấy hắn ngày ngày quảy đồ nghề đi lang thang dọc các xóm ven sông để tìm việc. Và trong những năm đó, số con gái dở dang, số đôi vợ chồng trẻ lục đục vì hắn cũng tăng tỷ lệ thuận với số thuyền nát được hắn chữa lành. Vợ hắn, tuy đã thề trước Chúa sẽ yêu thương hắn trọn đời, nhưng không còn chịu nổi, đành phải bồng con về sống với cha mẹ đẻ. Uy lực của Cách mạng lúc mới thành công có lúc đã khép được Tốn vào vòng trật tự. Hắn vẫn làm nghề xảm thuyền, và trong một hai năm đầu, không nghe có điều tiếng gì. Cho đến một đêm mùa đông mưa to, rét dữ, Tốn bị "tóm dính", khi đột nhập vào nhà thờ Xứ. Động cơ thực sự, theo lời khai của hắn, không ngoài việc mò gái, nhưng Cha xứ, ông bõ và các Thầy, các Chú trong nhà thờ lại quả quyết rằng hắn vào đó để ăn trộm. Dù là gì đi nữa thì kẻ có tội phải bị trừng trị đích đáng. Huyện mở phiên tòa, khép hắn vào hai tội: "trộm cắp và xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng", kêu án sáu năm tù ở. Tốn lập tức bị tống vào trại Thạch Bàn, nơi giam giữ đủ loại tội phạm, từ Việt gian, phản động đến lưu manh, côn đồ... của cả tỉnh. Không ít cán bộ trong cơ quan huyện hồi đó vẫn giữ nguyên cái nhìn cũ đối với Tốn. Cái nhìn đầy khinh ghét, nghi kỵ. Nhưng chẳng bao lâu, thái độ của họ phải thay đổi, thậm chí bị lật ngược. Tốn nấu ăn rất giỏi. Nếu gọi hắn là "đầu bếp kỳ tài", chưa chắc đã là ngoa. Vẫn với ngần ấy gạo, ngần ấy tiền chi cho thức ăn, củi đuốc, mà món ăn lại nhiều hơn, ngon hơn. Hắn đem vào bảng thực đơn vốn đơn điệu, "chém to kho mặn", rất nhiều món ăn lạ thu góp từ nơi hắn từng đặt chân đến. Hắn còn "nâng" các món ăn có thể gọi là "truyền thống lâu đời" của vùng quê Nghệ Tĩnh như cà, dưa, nhút... thành các món dễ ăn hơn. Ngay cả cơm thổi bằng thứ gạo địa phương vừa đen, vừa cứng, có người gọi đùa là "gạo bọc thép", một khi qua tay Tốn vẫn thấy mềm, thấy dẻo hơn. Tốn còn xin cơ quan cho hắn được mổ lợn để bán. Không phải đi đâu xa, chỉ mua ngay, bán ngay trong xã. Ba giờ sáng hắn dậy mổ lợn; năm giờ sáng đã có thịt bán cho người mua; bảy giờ sáng cất dao, dọn phản. Hắn chỉ bán ba phần tư con lợn, vừa đủ lấy lại vốn, còn một phần tư thịt và cỗ lòng, dành cho cơ quan làm một "bữa tươi". Mỗi tuần, Tốn mổ một hoặc hai con lợn, mỗi tháng cơ quan có bốn "bữa tươi" mà chẳng phải đóng thêm một đồng nào.
Không chỉ thế. Tốn còn làm cơ quan vui hẳn lên bằng những "món ăn tinh thần" mà sau này nhớ lại, ông Kỳ thấy không thể gọi gì khác hơn là "sinh hoạt văn hóa". Ông chủ gánh hát ở Hà Nội cho Tốn rất nhiều, và bây giờ đến lượt hắn hào phóng trao lại cho cơ quan. Tối tối, sau khi dọn dẹp xong, hắn kê bàn ghế ra khoảng sân gạch trước nhà, mời mọi người chung quanh sang uống nước chè xanh, hút thuốc lào và nghe hắn kể chuyện. Phải công nhận Tốn có trí nhớ tốt. Bao nhiêu tích tuồng đã xem, bao nhiêu sách đã đọc, hắn lần lượt kể lại vanh vách, không bỏ sót một chi tiết nào. Phần lớn là chuyện Tàu: Chinh đông chinh tây, Hán Sở tranh hùng, Tam quốc, Thủy hử... Đôi khi cũng có một số truyện kiếm hiệp Việt Nam như Dao bay, Người nhạn trắng... Giọng Tốn ấm. Hắn lại biết cách lên bổng xuống trầm, biết tạo hồi hộp cho người nghe ở những đoạn nhiều kịch tính. Tốn còn diễn tuồng. Một mình hắn đóng luôn năm, sáu vai, từ vua đến quan, hoàng tử, công chúa, hề, đủ cả trung, cả nịnh... có lần phởn lên, hắn vớ một tàu lá khô để làm ngựa, vừa hát điệu tẩu mã vừa "phi ngựa" quanh sân. "Khán giả" không đông, chỉ dăm người, đông nhất độ chục người, hầu hết là nhân viên văn phòng, những người ít phải xuống xã. Đó là những "khán giả" hết sức trung thành, mà trung thành nhất phải kể đến "cậu Kỳ". Cho đến mùa đông năm 1948, có thể nói, Tốn đã chinh phục được tình cảm của hết thảy mọi người trong cơ quan. Nhiều người mời hắn về nhà chơi, dự đám cưới, ăn giỗ. Ông Chủ tịch huyện thỉnh thoảng cho hắn mượn con ngựa dành riêng cho ông đi công tác, để hắn mua thức ăn ở các chợ xa. Các bà trong làng đi chợ về, kể rằng Tốn "oai phong như một ông tướng". Hắn mặc áo dạ kiểu ba-đơ-xuy, có hai hàng cúc đồng sáng loáng trước ngực, đội mũ bê-rê, ngồi trên lưng ngựa phóng thẳng vào chợ. Vẫn không thèm xuống ngựa, hắn đưa mũi cây roi thúc ngựa, chỉ từng miếng thịt, mớ cá, mớ rau định mua. Mặc cả xong, hắn trả tiền, bảo người bán bỏ hàng vào chiếc bị đeo trước yên, nháy mắt với các cô gái trẻ rồi ung dung ra khỏi chợ, quất ngựa phóng thẳng. Lần nào đi chợ về như vậy, Tốn cũng không quên sang nhà Chánh văn phòng bấm "cậu Kỳ". Trước lúc giao ngựa cho Giám mã, cậu có thể sử dụng nó trong vòng nửa tiếng, đủ thời gian để phóng một vòng lên phố huyện và trở về xóm Mít. "Cậu Kỳ" thường gọi Tốn bằng anh, nhưng vào những lúc quá thân mật như vậy, cậu hay gọi đùa hắn là "se-ca-ma-rát". (2) Nghe đâu Huyện ủy đã có bàn qua về Tốn, định sang đầu năm sau, ủy ban sẽ thảo công văn xin giảm án cho hắn. Có người còn đề xuất việc giúp hắn tái hợp với người vợ cũ, cho đến lúc này vẫn ở vậy nuôi con. Đúng vào lúc đó Tốn biến mất. Một bất ngờ lớn. Nhưng dẫu sao, với một con người có quá khứ đen thui như Tốn, việc đó rồi cũng hiểu được, cắt nghĩa được. Còn bất ngờ hơn nhiều, khó hiểu hơn nhiều là việc có một người cùng trốn đi với Tốn vào đêm hôm đó: chị Hiền Lương, thư ký ở văn phòng ủy ban huyện. Chị cùng quê với "cậu Kỳ". Và cũng như cậu, chị thuộc về một gia đình "cốt cán" của cách mạng. Ông nội chị từng là nghĩa quân Phan Đình Phùng. Cha chị và cha cậu là bạn tù Lao Bảo. Cha cậu cuối cùng đã trở về để được hưởng vinh quang của thắng lợi, còn cha chị, hy sinh trong một lần mạo hiểm vượt ngục. Mẹ chị đi bước nữa, để con gái cho bà ngoại nuôi. Nhờ có ông cậu là công chức đưa xuống thị xã cho ăn học, chị đã qua hết sáu năm tiểu học và có bằng Séc (3). Phụ nữ thôn quê thời đó, mù chữ đến gần trăm phần trăm, học được đến đó đã là ghê gớm lắm. Ngay khi Cách mạng Tháng Tám vừa thành công, các đồng chí của cha chị, không quên đứa cháu mồ côi, đã đưa chị ra làm việc ở huyện. Thoạt đầu chỉ làm chân thư ký văn phòng. Nhưng chị đã được kết nạp vào Đảng, chẳng bao lâu sau nữa sẽ về tỉnh học trường chính trị, để sau này giữ một vị trí xứng đáng hơn, xứng đáng với năng lực của bản thân chị và sự hy sinh của cha chị. Năm đó, chị Hiền Lương mới hai mươi mốt tuổi. Người chị mảnh mai, da rất trắng, đôi mắt buồn, có lẽ do cảnh đời côi cút tạo nên. Từ dáng vẻ và tâm hồn chị, luôn tỏa ra một cái gì êm ái, nhẹ nhàng, gợi ta nghĩ đến các cô tiểu thư trong truyện ngắn, tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn. Những tác phẩm như vậy, chị có nhiều và thường hay dấm dúi cho "cậu Kỳ" mượn đọc. Chị coi cậu như em, và ngược lại, vì cậu là con một, cho nên cậu cũng coi chị không khác gì chị ruột mình. Người ta mở một cuộc săn lùng ráo riết. Thông báo truy nã được gửi đến khắp mọi nơi trong phạm vi ba tỉnh thuộc vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh. Nhưng hai kẻ tội phạm như hai hòn cuội nhỏ bé rơi xuống đại dương, không để lại mảy may dấu vết. Rồi năm tháng qua đi, họ cũng như tất cả mọi vinh, nhục lớn, bé trên đời, bị đẩy vào quên lãng. Riêng ông Lạc, chắc chắn ông không quên. Vì sau vụ "đào thoát", ông mắc tội nặng. Có người, thậm chí, nói rằng ông phải ngồi tù thay cho Tốn. Tất nhiên cấp trên biết suy xét, cân nhắc. Cuối cùng, ông bị cảnh cáo về mặt Đảng, cách chức Chánh văn phòng, được điều động ra cơ quan Khu ủy, làm việc trong bộ phận Thư ký đoàn. Vài năm sau ông vào bộ đội, và ở mãi cho đến lúc về hưu với quân hàm đại tá. Với cháu ông, có phần phức tạp hơn. Cậu vốn là người hay nhớ. Cậu không thể nào quên những đêm kể chuyện, diễn tuồng của Tốn, dẫu vẫn biết rằng đó là sản phẩm của một thằng tù, một thằng ăn trộm, một thằng "chó dái". Cậu vẫn thương chị Hiền Lương. Chị mảnh mai quá, hiền dịu quá, mà cuộc đời thì đầy rẫy những hung bạo, đểu cáng. Chị sống làm sao nổi khi dấn thân vào cõi đó cùng với một người như Tốn! Khi đã trở thành người lớn, cậu không còn quá kinh ngạc như sau cái đêm tai họa ấy. Cậu hiểu con người hơn. Con người có thể rất khôn ngoan, mà cũng có thể buông thả mình đến mức rồ dại. Tuy thế cậu vẫn nuôi chút hy vọng rất mong manh rằng chị Hiền Lương không trốn đi cùng với Tốn. Hoặc giả, chị bị Tốn cưỡng ép, bắt đi theo, và đến một lúc nào đó, hắn đã thủ tiêu chị. Thà như thế còn hơn là chị phải lòng hắn, đồng mưu với hắn. Vì như thế, quả là một sự điếm nhục, điếm nhục cho cả chị, và... cho cả cậu nữa...