Chỉ mục bài viết |
---|
Thù Chồng |
Trang 2 |
Tất cả các trang |
Thù Chồng
Tác giả: Hải Ngữ
Tặng Cậu Mợ Nghi, Tasmania, Úc
Để nhớ lại một thời niên thiếu ở QN.
Năm đó tôi sửa soạn lên lớp đệ Tam. Trong suốt những năm ở bậc trung học, thường thường năm nào cha mẹ tôi cũng bắt đi học hè, nhưng vì lớp đệ Tam được xem là lớp dưỡng sức nên năm đó tôi tha hồ rong chơi trong suốt ba tháng hè mà không phải học hành gì cả. Được gọi là lớp dưỡng sức là vì vừa qua kỳ thi Trung-học (brevet), nghỉ xả hơi chờ sang năm lên lớp đệ Nhị và chuẩn bị thi Tú-tài.
Khoảng giữa thập niên 60, kỳ thi Trung-học được bãi bỏ nên từ đó về sau lớp đệ Tam lại càng nhàn hạ lắm. Đối với tôi, năm học này rất thoải mái vì tất cả chương trình học đều giống như năm đệ Ngũ, chỉ đào sâu và học thêm một vài khái niệm mới. Tôi còn nhớ thầy dạy Toán đứng gân cổ giảng cho chúng tôi hiểu thế nào là “hàng điểm điều hoà” trong giờ Hình-học. Tôi vốn lơ-tơ-mơ về Toán, thấy khó lại càng không muốn tìm hiểu làm gì. Hơn nữa, năm đó thân xác tôi bắt đầu trổ mã, gọi nôm na là dậy thì. Ở cái tuổi dậy thì, có nhiều thứ khác cần chú ý hơn là tập trung tư tưởng vào môn Toán. Tôi biết chăm chút mái tóc hơn là ngồi trau chuốt cho bài bình luận của giờ Việt văn. Và nhất là có những cuốn sách khác quyến rũ hơn những pho sách giáo khoa; đó là tiểu thuyết. Tiểu thuyết có đủ loại để đọc, loại tình cảm, dã sử, trinh thám…v... v, loại nào cũng hấp dẫn cả. Riêng tôi lại mê kiếm hiệp mặc dù đôi khi cũng thích những chuyện tình ướt át. Tôi bắt đầu làm quen với những nhân vật huyền hoặc trong pho tự điển của Kim Dung. Càng đọc càng say mê. Dĩ nhiên, tôi không thể ngang nhiên mở cuốn Anh Hùng Xạ Điêu hoặc cuốn Vườn Thuý để đọc bất cứ lúc nào, mà phải đọc lén. Làm bậc cha mẹ, ai cũng muốn cho con cái theo đuổi việc học để sau này, trước hết kiếm chút tương lai ấm lấy tấm thân, sau nữa cho các bậc sinh thành hãnh diện với láng giềng nên không thể chấp nhận con cái cầm một cuốn sách nào khác hơn là cuốn sách giáo khoa. Tôi làm sao hiểu hết sự cần thiết của việc học hành. Hơn nữa, những nhân vật trong truyện giúp cho những thằng con trai mới lớn như tôi mơ ước được nhiều thứ, cho dù đó chỉ là không tưởng.
Nhà tôi có căn gác lửng, là nơi cha mẹ tôi để riêng cho tôi đèn sách, kỳ vọng thằng con sẽ giật được mảnh bằng Tú-tài làm nở mày nở mặt với xóm giềng. Cái bàn học tôi được kê sát cửa sổ, nhìn sang những dãy nhà san sát, cũng xây theo một kiểu như nhau trong con hẻm nhỏ. Căn gác mở ra một hàng hiên, có dãy ban-công bằng gỗ. Cả hàng hiên được phủ mát bởi những tàng cây rậm rạp của cây sầu-đông mọc bên cạnh nhà. Thời gian lý tưởng nhất trong ngày là lúc không gian đứng im lìm mệt mỏi, thời khắc trôi chầm chậm uể oải của một buổi trưa hè oi bức, có cơn gió mát thổi hiu hiu qua căn gác, đâu đó có tiếng chim hót trộn lẫn với tiếng ve sầu kêu râm ran trên tàng cây, đó là lúc tôi ngồi tựa lưng vào vách gỗ, say mê hàng giờ với những nhân vật không tưởng được nhào nặn tài tình dưới ngòi bút ma thuật của Kim Dung và Quỳnh Dao.
Vào một buổi trưa, cũng như bao buổi trưa khác, tôi leo lên căn gác, lén cầm theo cuốn Anh Hùng Xạ Điêu, ngồi tựa lưng vào vách, nghiền ngẫm đoạn Quách Tĩnh gặp Hoàng Dung, say mê đến nỗi mà có tiếng gọi bên tai mà vẫn không hay. Tiếng gọi khá to nổi lên giữa buổi trưa hè yên ắng làm tôi giật mình gập vội cuốn sách nhìn lên.
- Em chăm học quá há. Hè rồi mà vẫn còn học hả em?
Tiếng nói phát xuất từ căn gác nhà bên cạnh. Tôi quay đầu và nhận ra một thiếu nữ đang chống tay vào ban-công, mái tóc thật dài, nhìn tôi cười cười. Tôi nghe loáng thoáng học… học gì đó và chợt nhớ ra trong tay đang cầm cuốn sách kiếm hiệp. Mặt đỏ bừng, tôi cười gượng:
- Không… không, em… em đang đọc truyện.
Người thiếu nữ vẫn hồn nhiên:
- Truyện gì vậy? Cho chị xem được không?
Tôi đứng lên, giấu cuốn sách sau lưng:
- Ồ! Truyện… truyện này chị không thích đâu.
Người thiếu nữ đi dọc theo ban-công tiến dần về phía tôi. Khuôn mặt chị hiện ra rõ ràng trong tầm mắt và tôi chợt nhận ra người thiếu nữ có một khuôn mặt thật khả ái, hiền thục. Tính ra đến lúc đó, tôi đã đọc không biết bao nhiêu pho sách, đã thấy những tác giả tả các nhân vật trong truyện như thế nào, trong đó có những nhân vật nữ. Nào là khuôn mặt trái xoan, mũi dọc dừa, mắt bồ câu, đôi mày ngài. Cứ nhắm mắt lại là hình dung được một mẫu người lý tưởng và tôi đã ươm biết bao là mơ ước. Tuổi mới lớn chỉ dám mơ mộng thôi chứ chưa hề nghĩ đến chuyện đối diện với một người con gái. Vậy mà giờ đây có một thiếu nữ đẹp như người trong tranh đang tiến lại gần tôi, hỏi han thì làm sao tôi không cuống lên được. Tôi gần như á khẩu, miệng lắp bắp nói không thành tiếng. May mà có cuốn sách tôi đang cầm sau lưng nên tay chân đỡ luống cuống. Cần nói thêm là bất cứ thằng con trai nào trong lứa tuổi dậy thì đều có giọng nói khàn đục, khuôn mặt đùn lên đám mụn như những cù lao nhỏ rải đều trên bờ vịnh. Khuôn mặt như thế vốn đã khó coi, còn tôi lúc đó chắc càng khó coi hơn nữa vì lúng túng, ngượng ngùng, tay chân thừa thãi. Cũng may, cử chỉ thân thiện và giọng nói dịu dàng của người thiếu nữ giúp tôi lấy lại bình tĩnh thật nhiều. Tiếng người thiếu nữ:
- Thì cứ đưa chị xem thử!
Tôi đành đưa cuốn sách ra:
- Truyện kiếm hiệp mà, chị đâu thích những loại này.
Nụ cười của người thiếu nữ thật tươi:
- Kiếm hiệp hả! Anh Kiệt thích lắm đó.
Tôi thắc mắc:
- Ủa! Chị nói anh Kiệt nào?
- À! Chị quên chưa giới thiệu với em. Chị là Hảo, còn anh Kiệt là chồng chị. Thế còn em?
- Em hả? Hưng. Anh chị mới dọn đến hả?
- Ừ! Anh chị mới thuê căn gác này được mấy ngày.
- Thảo nào, em lên đây đọc truyện hoài mà đâu thấy ai. Lúc nãy, chị hỏi làm em giật mình.
Chị Hảo nghiêng đầu, nheo nheo đôi mắt:
- Lén lên đây đọc truyện phải không?
Tôi làm lơ không trả lời câu hỏi của chị:
- Thế anh Kiệt đâu chị?
Chị Hảo nghiêng đầu hất mái tóc ra phía sau. Tôi chợt để ý đến suối tóc óng ả của chị chảy quá nửa lưng. Phải gọi là suối tóc vì một màu đen nhung thuần chất, mượt và mềm mại như giòng nước uốn mình qua khe. Mái tóc sóng sánh mỗi khi chị hất hất đầu sang bên. Buổi trưa hè, có cơn gió nhẹ thổi bay bay mái tóc huyền làm khung cảnh trở nên thơ mộng. Thuở đó, tôi chưa biết định nghĩa thế nào là đẹp. Tất cả những lối tả ví von của mấy ông nhà văn tôi cũng chưa hình dung được nhưng khi đối diện với khuôn mặt của chị Hảo chỉ cách hơn hai sải tay, tôi đã mường tượng được đây phải là một khuôn mẫu để diễn tả nhan sắc. Tôi không biết khuôn mặt trái xoan như thế nào, cũng không biết mũi dọc dừa ra làm sao, lại càng không biết thế nào là đôi mắt bồ câu – mặc dù mắt mấy con bồ câu nhà tôi nuôi nhìn lờ đờ chứ chẳng thấy gì hấp dẫn – vậy mà buổi trưa hôm đó tôi thấy khuôn mặt của chị Hảo có đủ tất cả những nét tuyệt vời mà trí óc tôi có thể tưởng tượng được. Cả người chị toát ra một sức thu hút kỳ lạ, từ giọng nói đến dáng người, làm tôi cứ ngỡ mình là một thư sinh trong truyện Liêu-trai huyền bí (đúng là lậm tiểu thuyết). Không biết có phải những đốm nắng nhảy múa lung linh trên khuôn mặt chị làm tăng thêm vẻ huyền hoặc hay không nhưng người tôi như ngây ra khi đứng trước dáng người thanh tú của chị. Một vẻ đẹp dịu dàng, tự nhiên không chút son phấn, hiền hoà dễ làm mềm lòng người đối diện.
Nhận xét của tôi là nhận xét của một thằng con trai mới lớn, bắt đầu biết mộng mơ một khuôn mặt, biết rung cảm trước một sắc đẹp và lòng thấy bồi hồi khi trò chuyện với một người khác phái. Đột nhiên tôi buột miệng:
- Chị đẹp quá!
- Chà! Biết nịnh đầm nữa há! Sao em nịnh chị giống anh Kiệt vậy?
Tôi đỏ mặt:
- Không! Em nói thật mà, chị đẹp thì em nói đẹp chớ biết nịnh ra làm sao đâu!
Chị nguýt tôi. Ôi chao ôi! Cái nguýt của chị làm tôi sướng lịm cả người.
- Đàn ông con trai đều giống nhau ở điểm này. Cứ nịnh mà không biết ngượng.
Tôi đánh trống lảng:
- Anh Kiệt đi làm hả chị?
Chị lườm tôi một cái thật dài:
- Hoá ra chị trả lời rồi mà em có nghe gì đâu! Đã bảo là anh Kiệt đóng quân ở Phù-cát, cuối tuần về thăm chị rồi lại đi ngay.
Tôi nghe nói có một căn cứ không quân ở Phù-cát, một tỉnh lỵ cách thành phố Qui-nhơn – nơi tôi đang lớn lên – khoảng 30 cây số về hướng tây bắc. Đây là căn cứ tương đối lớn, gồm đủ loại máy bay hỗ trợ cho toàn Quân khu 2. Loại vận tải cơ C-130 nối liền đường bay huyết mạch chuyển lính và quân trang quân dụng từ Biên-hoà tiếp ứng cho cuộc chiến đang leo thang dữ dội tại miền Trung. Tôi hỏi chị:
- Thế anh Kiệt là phi công hả chị?
- Ừ! Anh ấy lái trực thăng.
Tôi làm ra vẻ hiểu biết:
- Sao chị không dọn ra ở Phù-cát với anh ấy luôn? Ở đây mỗi tuần gặp nhau chỉ có một lần, nhớ chết!
Chị Hảo cười vui vẻ:
- Em nói hay quá! Nhưng em biết gì mà nhung với nhớ. Coi bộ em lậm tiểu thuyết nhiều lắm nha!…
Thấy tôi mặt đỏ lên vì ngượng (không biết tôi đỏ mặt đến mấy lần rồi!), chị đưa tay ra đập đập trong không khí:
- Chị nói đùa cho vui! Từ nãy giờ chị cứ chọc em hoài, em có giận chị không?
Đứng nói chuyện với chị Hảo là một vinh dự đối với thằng con trai mười lăm tuổi như tôi. Giá chị cứ mắng nhiếc tôi mà vẫn được đứng nói chuyện với chị tôi vẫn còn cảm thấy thú vị nữa là vài ba lời chọc ghẹo vô thưởng vô phạt từ nãy giờ. Tôi nói thật với lòng mình:
- Chị có chưởi em vẫn còn được nữa là chọc. Chị đừng lo, em lì lắm.
Chị Hảo lại lườm tôi:
- Chà! Em khéo nói quá! Em lớn lên chắc cũng không vừa gì đâu! Mấy cô gái rồi chết hết với em. Càng nói chuyện chị càng thấy em giống tính anh Kiệt ghê?
Từ nãy giờ chị Hảo nhắc đến tên anh Kiệt đến mấy lần, lần nào cũng so sánh tôi với anh. Khi nhắc đến tên chồng, đôi mắt long lanh của chị ánh lên chút kiêu hãnh, khuôn mặt chị rạng rỡ, giọng nói của chị đầy vẻ trìu mến, thiết tha. Chẳng biết tính tôi có giống anh lắm không nhưng tôi chợt nhận ra chị đang nâng niu một tình yêu đậm đà với người chồng mà tôi chỉ mới nghe giới thiệu. Trong trí óc non nớt của tôi, tình yêu là một trạng thái tình cảm không tưởng, hầu như không có thật. Đọc nhiều đoạn tiểu thuyết diễn tả tình yêu như một loại trái cấm, ăn vào sẽ mắc nghẹn ở cuống họng, tôi cho đó là cường điệu. Còn mẹ tôi, ngay từ khi tôi còn nhỏ, đã ngăn cấm những chuyện liên quan đến phụ nữ chứ đừng nói đến chuyện yêu đương. Những gì có dính dáng đến đàn bà con gái mẹ tôi đều cho đó là điều cấm kỵ. Tôi còn nhớ những lần chạy chơi rượt đuổi mấy đứa bạn chui qua hàng dây phơi quần áo; trên đó có phơi mấy chiếc quần lãnh đen đàn bà và tôi bị gọi về ăn một trận đòn đích đáng kèm theo lời giải thích là muốn nên người thì đừng bao giờ chui qua quần đàn bà. Mẹ tôi còn dí ngón tay vào trán tôi phán rằng việc học của tôi sẽ chẳng đi đến đâu chỉ vì đầu óc đã bị ngu muội nhiều lắm rồi. Không biết đầu óc tôi lúc đó có bị lú lẫn hay chưa nhưng tôi vẫn còn đủ trí khôn suy xét và hiểu rằng mẹ tôi bày chuyện vô lý. Làm gì có chuyện chạy chui qua mấy cái quần đàn bà mà đầu óc lại ngu muội đi! Nghe như chuyện thần thoại. Mãi đến khi ngồi cắn bút vì mấy bài toán động tử ở lớp nhất tôi mới nhận thấy lời răn đe của mẹ tôi là đúng. Quả thật đầu óc tôi đặc sệt, chậm hiểu về toán học không thể tưởng được. Nhiều lúc không tìm được đáp số của bài toán, tôi tự vả vào má trách mình quá ham chơi chui qua mấy cái quần để giờ này ngồi nhăn mày bóp trán vì mấy bài toán. Theo lời mẹ tôi thì chui qua một lần đã thấy dốt rồi, còn tôi chui qua chui lại suốt mấy năm trường thì đến óc bác học cũng còn lú nữa là cái đầu thiếu chất xám của tôi. Lớn lên một chút, mẹ tôi lại càng cấm tiệt những gì dính dáng đến đàn bà con gái. Mẹ tôi răn đe rằng lớn lên là để học, dính vào chuyện yêu đương sớm chỉ có mụ người đi, người sẽ đờ đẫn ra như uống phải sữa người chết. Càng cấm tôi càng háo hức muốn nếm thử và dĩ nhiên chưa bao giờ có cơ hội. Đọc trong tiểu thuyết có những nhân vật chết lên chết xuống chỉ vì yêu, tôi chợt nghĩ sao dại dột thế, yêu nhau không được thì kiếm người khác, tội gì mà phải chuốc lấy cái khổ vào thân! Tôi cũng thèm muốn được yêu nhưng chắc chắn tôi sẽ không bao giờ phải lụy vì tình. Đành rằng tình yêu cần thiết thật nhưng đâu đến nỗi phải hy sinh cả cuộc đời chỉ vì hai chữ tình yêu. Cho đến khi gặp chị Hảo, nghe chị nhắc đến tên anh Kiệt với những lời lẽ trân quý, tôi chợt nhận ra rằng tiểu thuyết và cuộc đời có lẽ giống nhau ở điểm này; quả thật trên đời có những tình yêu bất diệt, cho dù phải đánh đổi ngay chính mạng sống mình để gìn giữ nó. Nói khác đi, cuộc đời sẽ không còn ý nghĩa nữa nếu để vuột mất một mối tình chân như thế.
Đó là lần đầu tiên tôi quen biết chị Hảo và dần dần biết thêm nhiều chi tiết về cuộc tình của chị. Những ngày kế tiếp, tôi không dám lên căn gác đọc truyện vì ngại chị Hảo bắt gặp. Tôi bỗng muốn chị nghĩ rằng tôi là thằng chăm học, lâu lâu đọc vớ vẩn vài ba cuốn tiểu thuyết, thế thôi. Muốn thế nhưng lại gây thế kẹt cho tôi là không còn chỗ nào lý tưởng để đọc lén cả. Chui qua nhà thằng bạn thì cũng không xong vì cha mẹ nó có cùng một mơ uớc về con cái như cha mẹ tôi. Hơn nữa, thằng bạn đọc truyện khổ sở hơn tôi nhiều. Nó lận cuốn sách trong người rồi chui vào cầu tiêu ngồi đọc. Đọc mê mẩn đến độ nó ngồi trong nhà cầu cả tiếng đồng hồ mà vẫn không hay, mãi đến khi bố nó muốn đi tiểu, gõ cửa mới lôi nó ra khỏi thế giới đầy những nhân vật mộng mị. Thế mà cha mẹ lại lo lắng sức khoẻ cho thằng con chỉ vì sợ nó mắc bệnh táo bón. Không còn kiếm được chỗ nào khác, tôi đành quay trở lại căn gác thả hồn theo những trang sách…
Nghỉ hè, ngày dài tháng rộng, tôi tha hồ đọc truyện và bước sang căn gác thăm chị Hảo. Thật sự, tôi không dám đường đột gõ cửa nhà chị nhưng vào một bữa trưa, khoảng hơn hai tuần sau ngày gặp gỡ, chị tất tả chạy lên gác tìm tôi, trong khi tôi đang chúi mũi vào cuốn tiểu thuyết của Quỳnh Dao. Chị vẫy tay:
- Này Hưng, chiều sang nhà chị ăn cơm nghe! Anh Kiệt về.
Tôi gấp sách, ngửng đầu lên:
- Vậy hả…,
Rồi tôi ngập ngừng:
- …Có sao không?
Chị Hảo lại đập tay vào không khí, giọng thân mật:
- Sao là sao? Anh em trong nhà cả chứ xa lạ gì. Để rồi xem, em sẽ mến anh Kiệt liền. Chiều qua chị nha.
Mặc dù gật đầu nhưng trong lòng tôi lại muốn từ chối. Từ chối là vì có cái gì vương vướng trong tâm tư. Anh Kiệt chăng?… hình như vậy. Trong suốt hai tuần, mỗi lần gặp tôi, chị đều say sưa kể chuyện về anh Kiệt; nào là chuyện quen nhau và yêu nhau, đã có những lúc giận nhau, rồi những tật xấu nho nhỏ của anh mà theo lời chị – bây giờ chị đã đâm nghiện, không có là thấy nhớ nhớ thế nào ấy. Khi sôi nổi kể chuyện, chị Hảo miên man và đắm chìm vào một thế giới riêng tư mà trong đó chỉ có chị và anh Kiệt, ngụp lặn trong tình yêu nồng nàn say đắm. Có lúc chị say sưa kể chuyện gần như độc thoại và không còn biết sự hiện diện của tôi nữa. Cứ nghe chị Hảo hễ một chút là nhắc đến tên anh Kiệt khiến tôi bỗng… ghen thầm với anh, một người đàn ông mà tôi chưa hề biết mặt. Không biết người đàn ông đó có gì khác biệt để chị Hảo yêu thương nồng thắm đến thế? Trong thâm tâm tôi không muốn gặp anh Kiệt, một người đàn ông hơn hẳn tôi về mọi mặt, nhất là đã chiếm trọn trái tim của chị Hảo, một người đàn bà mà đối với tôi gần như tuyệt hảo. Chỉ mới biết chị có hai tuần thế mà tôi đã đặt chị vào một vị trí trang trọng nhất trong tâm tư và có lúc tôi đã mơ nghĩ đến sau này phải có một người yêu rập theo khuôn mẫu của chị. Tình cảm của tôi dành cho chị Hảo đặc biệt đến thế nên tôi phải nhận lời và vì tôi không muốn thấy chị buồn. Đời của chị phải là một chuỗi ngày kết hợp những niềm vui. Tôi nghĩ chị sinh ra là để tận hưởng hạnh phúc chứ không phải để u sầu. Chỉ mới tưởng tượng đến khuôn mặt ủ dột của chị tôi đã cảm thấy xốn xang trong lòng chứ đừng nói đến thấy những giọt nước mắt rơi trên gò má đỏ hồng tự nhiên của chị. Tôi còn bị mê hoặc bởi giọng nói của chị trong veo như sương mai đọng trên lá non và nghe du dương như tiếng chim hót mỗi sáng trên đầu ngọn cây. Có lúc tôi đã ngồi lặng yên hàng giờ để tưởng tượng đến khuôn mặt của chị và tin chắc rằng những lời nói trầm bổng phát xuất từ đôi môi chúm chím đó có khả năng sai khiến tôi, thằng con trai mới lớn chớm biết mộng mơ. Ôi! Nếu không một ai có thể từ chối lời mời mang nhiều âm hưởng liêu trai của chị Hảo, thì tôi làm sao có thể từ chối được.
Chiều hôm đó, tôi lững thững bước sang căn gác chị Hảo. Vừa đẩy cửa bước vào, một mùi xào nấu thơm lừng xông thốc vào mũi làm tôi cồn cào cả bụng. Đồ đạc được bày biện sơ sài nhưng trông thật ngăn nắp, gọn gàng. Căn gác khá rộng, gần như được chia làm hai bên. Bên phải tôi là căn bếp, gồm một tủ đựng thức ăn, nồi niêu xoong chảo treo hết trên vách. Hai bếp dầu hôi đỏ rực lửa, đang ra sức thúc chín thức ăn. Ở góc bếp có chắn hai tấm tôn nhỏ bao quanh đề phòng lửa bén vào vách gỗ. Chị Hảo ngồi trên một cái đòn, quay lưng về phía tôi, bàn tay cầm đũa thoăn thoắt đảo qua đảo lại trong nồi. Mái tóc được búi lên cao, chị mải làm bếp nên không biết tôi đang đứng ở ngưỡng cửa căn gác. Ngay sát chỗ tôi đứng là một chiếc bàn nhỏ, bốn chiếc ghế xếp bằng sắt dùng để ăn cơm. Nhìn sang bên phải, tôi thấy một chiếc bàn gỗ lớn hơn, trông khá chắc chắn nhờ bốn cái chân to bản, chung quanh có sáu chiếc ghế đặt ngay ngắn. Xa hơn là tấm màn gió kéo ngang nửa chiều dài của căn gác rồi chạy thẳng sâu vào phía trong làm thành hình thước thợ. Mặc dù không thấy gì ở phía sau tấm màn nhưng tôi biết chắc là cái giường ngủ, tổ ấm của vợ chồng chị Hảo.
Tôi cứ đứng tần ngần ở đó mà không biết làm gì. Nhìn chị bận rộn với công việc bếp núc, tôi nửa muốn gọi chị Hảo, nửa muốn không. Đang ngơ ngơ ngáo ngáo, tôi giật mình khi nghe tiếng từ phía sau:
- Ủa! Sao đứng ngoài này vậy. À! Hưng phải không?
Quay lại, tôi bắt gặp một thanh niên to cao mặc áo thun trắng, quần đùi, mái tóc hớt cao dang nhìn tôi cười cười. Đoán ngay là anh Kiệt, tôi nép người sang bên:
- Dạ phải. Anh là anh Kiệt?
Anh gật đầu nói vào nhà chơi đi em, đến lâu chưa?… rồi đẩy đẩy tôi bước vào nhà. Nghe tiếng động, chị Hảo đang làm cơm quay lại:
- Hưng hả? Vào đây em.
Anh Kiệt đi ra phía sau bức màn:
- Ngồi đi em. Anh ra liền bay giờ.
Khuôn mặt chị Hảo đỏ hồng vì bếp lửa:
- Chờ chị nghe. Cơm sắp xong rồi. Còn món xào nữa là mình ăn cơm.
Tôi rón rén ngồi xuống ghế, hai tay xếp gọn trên đùi. Giọng anh Kiệt ồn ào:
- Uống gì không em? Nước chanh nhé?
Tôi rụt rè:
- Thôi… anh cho em nước lạnh cũng được.
Tiếng chị Hảo từ phía bếp vọng lại:
- Cứ tự nhiên nghe Hưng. Sắp xong rồi đây. Anh em ngồi nói chuyện một chút là có cơm liền.
Thấy ai cũng chú ý săn sóc, tôi càng lúng túng. Có lẽ tôi lúng túng với anh Kiệt thì đúng hơn. Đó là một thanh niên cao lớn, khoẻ mạnh, giọng nói sang sảng. Đôi lông mày rậm chạy gần suốt chiều dài của vầng trán cao và rộng. Mắt to đen, sống mũi thẳng, miệng khá rộng, trên môi lúc nào cũng gần như nở nụ cười. Nhìn chung, khuôn mặt anh dễ nhìn nếu không nói là đẹp trai. Điểm đặc biệt đập vào mắt tôi là cặp lông mày đen rậm chạy nhạt dần về phía sống mũi, gần đụng vào nhau, làm cho khuôn mặt anh trở nên nghiêm nghị hơn. Mới nhìn thoáng, trông như một vệt đen chia hẳn khuôn mặt ra hai phần không đồng đều. Đọc truyện Tam quốc, tôi mường tượng đến cặp lông mày của Quan Công, một dũng sĩ dưới trướng Lưu Bị. Dáng anh Kiệt có lẽ cũng oai hùng như viên tướng chặn đường rút của Tào Tháo ở Hoa Dung, suýt chặt đầu tên thừa tướng làm đảo lộn cái thế chân vạc thời Tam quốc. Cái vệt đen ngăn chia khuôn mặt trở thành nét đặc thù của anh Kiệt. Người ta khó quên được một khuôn mặt như thế. Mãi về sau, khi lớn lên, nhờ đọc ít chút sách tướng theo kinh nghiệm của người xưa, tôi mới chợt hiểu ra định mệnh đã gắn liền với cái vệt đen trên khuôn mặt điển trai của anh.
Anh Kiệt thân mật hỏi tôi nhiều chuyện; đại khái học hành ra sao rồi, lớp mấy, có bồ gì chưa…v..v. Đang bưng đĩa thịt đặt lên bàn, chị Hảo xua tay:
- Trời ơi, cái anh này, hỏi gì mà kỳ vậy. Hưng nó còn nhỏ biết gì mà bồ bịch.
Rồi quay sang tôi:
- Phải không em?
Lắc đầu cho câu hỏi của anh Kiệt và gật đầu cho câu hỏi của chị Hảo, tôi ngồi im lặng không biết nên trả lời ai trước. Anh Kiệt nhái câu nói của chị Hảo:
- Trời ơi, cái “chị” này, chuyện đàn ông con trai chúng tôi “chị” xía vào làm gì.
Chị Hảo làm mặt xấu dọa chồng:
- À! dám cãi lại hả, “chị” lại không cho ăn cơm bi giờ.
Nhìn hai vợ chồng cười đùa tự nhiên, tôi chỉ biết gượng cười. Họ pha trò với nhau xem như không có tôi đang ngồi trước mặt. Tôi bỗng thấy mình thừa thãi, tay chân lại lúng túng như lần chị Hảo bắt gặp ngồi đọc truyện. Có điều tôi không ngờ nếp sống gia đình của chị Hảo lại có những tiếng cười dòn tan đến thế.
Cuối cùng, bữa cơm chiều được bày biện ra bàn. Một đĩa thịt kho với trứng, món đậu chiên và tô canh chua bốc khói. Anh Kiệt ăn rất ngon miệng, còn chị Hảo luôn tay gắp thức ăn cho anh Kiệt và tôi. Chị cứ luôn miệng dục tôi ăn, đừng làm khách. Anh Kiệt ồm oàm:
- Ăn đi nghe Hưng, con trai phải ăn mạnh vào cho to con mà lái trực thăng như anh nè.
Chị Hảo bĩu môi:
- Thôi đi ông tướng. Cứ làm như lái trực thăng là số một không bằng.
Và vội miếng cơm, anh cười cười:
- Em học lớp đệ Tam rồi phải không? Sang năm là thi Tú-tài rồi còn gì. Thế sau khi đậu em tính gì chưa?
Tôi bỏ bát cơm xuống bàn:
- Chưa anh, mà em cũng không biết tính gì nữa. Học thì học vậy thôi chứ em chưa biết phải làm gì. Mà có chắc đậu không nữa. Nếu không thì lại phải đi lính như mọi người.
- Gắng lên, cố mà đậu. Giật cho được mảnh bằng rồi xin đi bay như anh để cho biết cái thú đi mây về gió…
Anh Kiệt ngửa người ra sau, giọng sảng khoái:
- …mà không dễ đâu nghe. Để anh nói cho em hiểu. Trước hết, muốn bay phải có Tú tài, phải to con cao ráo và điều quan trọng nhất là… phải đẹp trai nữa.
Mấy chữ cuối, anh nheo mắt chọc chị Hảo làm chị lúng búng suýt bị sặc. Chị nuốt vội miếng cơm, đưa tay che lấy miệng:
- Chời ơi! Xuống đây mà xem chồng tôi khen mèo dài đuôi nè.
Mặt tôi đỏ bừng khi nghe nói đến đẹp trai. Lứa tuổi trổ mã của tôi hiện rõ trên khuôn mặt đầy mụn, chưa kể đến những vết nám đen mọc lỗ chỗ kết quả của nhiều lần đứng trước gương nặn mụn non. Khuôn mặt như thế chỉ chọc con nít khóc đêm chứ làm sao đẹp trai được. Bởi vậy tôi đâm ngượng với chị Hảo. Khi thấy tôi đỏ mặt chị thật tinh ý hiểu ngay và đỡ lời:
- Để rồi xem, Hưng học bay đi em nhưng đừng thèm lái trực thăng nữa. Cỡ em lái A37 mới xứng.
Tôi cũng chẳng nói gì để phụ họa. Chuyện tương lai đối với tôi lúc đó quá xa vời, biết ra sao mà bàn. Bởi vậy tôi chỉ cười im lặng và cơm. Anh Kiệt rất niềm nở, xem tôi như một người em thật nhưng tôi lại không cảm nhận được hoàn toàn sự hiếu khách của anh. Đây là lần đầu tiên tôi gặp anh chứ không như với chị Hảo, chị em đã nói chuyện cả mấy tuần qua nên đã thân quen. Hơn nữa, anh Kiệt hay pha trò chọc chị Hảo cười, gần như không cần biết sự hiện diện của tôi. Thấy anh âu yếm cười giỡn với chị Hảo, tôi bực tức… ghen thầm. Trong thâm tâm, tôi bỗng có đôi chút ác cảm với anh Kiệt.
Kể từ hôm đó, tôi thường qua thăm chị Hảo, nhất là những ngày thiếu vắng anh Kiệt. Chị em đã thân thiện hơn nhiều lắm. Mỗi lần được ngồi nói chuyện với chị là một hân hạnh mà tôi không bao giờ khước từ. Chị em khi gặp nhau nói đủ chuyện, từ chuyện trường, chuyện học, chuyện mấy thằng bạn dở dở ương ương. Thế mà chị ngồi nghe chuyện chăm chú. Bù lại, chị kể chuyện ngày xưa đi học, chuyện anh Kiệt đi bay về phép gặp chị, chuyện yêu nhau rồi lấy nhau. Theo lời chị, đang học dở dang ở Văn-khoa thì lấy chồng. Khi anh Kiệt đổi ra căn cứ Phù cát chị theo chân chồng cho phải đạo. Thuyền theo lái gái theo chồng, chị Hảo nói vậy. Cũng theo lời chị, nếu chị ở lại Sài-gòn với gia đình thì vợ chồng ít gặp nhau, trừ những ngày nghỉ phép thường niên. Còn nếu chị thuê nhà ở Qui-nhơn thì cứ vài tuần anh Kiệt lái xe về, vợ chồng lại có nhau. Cái gì cũng không bằng ở gần, chị bảo thế. Chị thú nhận những ngày vắng anh Kiệt như thế này, chị nhớ anh quay quắt và nhiều khi nỗi nhớ nhung hành hạ, chỉ biết ngồi thở vắn thở dài chứ không tha thiết một chuyện gì. Thời gian khắc nghiệt vắng chồng trôi qua lừ đừ, chậm rãi như muốn chọc tức kéo dài khoảng không gian cô đơn để chị ngồi ngẩn ngơ bên song cửa. Tôi không mường tượng được cái nhớ nhung da diết của chị và cho rằng đàn bà thường chuyện bé xé ra to. Tôi lại lẩn thẩn nghĩ hay là chị Hảo biết tôi “yêu” chị nên cố ý kể chuyện nhớ nhung anh Kiệt chọc tức tôi. Nếu thế thì chị đã thành công vì rõ ràng “tình địch” hơn hẳn tôi về mọi mặt, kể cả bằng cấp, sức vóc, đẹp trai và nhất là hình ảnh của “hắn” chiếm trọn trái tim của chị. Không biết còn một góc nhỏ đâu đó trong trái tim chị Hảo dành cho tôi hay không? Chị kể những đêm quỳ gối nguyện cầu Thượng Đế gìn giữ chồng và mong đất nước sớm chấm dứt chiến tranh để những chinh phụ như chị đếm thêm những năm hạnh phúc trên bàn tay. Em có thấy ước mơ tầm thường không, chị đặt tay lên vai tôi hỏi. Đến lúc đó tôi lại cảm thấy chị thật tội nghiệp và chỉ mong ngày mai anh Kiệt về ngay với chị để đôi mắt chị Hảo sáng ngời niềm vui, để nghe lại giọng nói hớn hở và tiếng cười dòn tan nở rộ trên căn gác nhỏ. Chị Hảo thở dài nói chị rất hiểu vai trò của người vợ trong thời chinh chiến, nhất là khi làm vợ lính. Chị tâm sự:
- Em biết không, lấy chồng lính là chấp nhận thương đau. Chị có người bạn, mới lấy nhau được vài tháng đã trở thành goá phụ. Con bạn chị mới 17 tuổi, vậy mà đã mang tiếng một đời chồng, em thấy có tội không. Nhìn nó mà chị khóc hết nước mắt. Mà tại duyên số cả em ơi, chị cố tránh mà vẫn vướng phải nợ lấy chồng lính. Khi yêu nhau thì phải chấp nhận tất cả. Chị bằng lòng đánh đổi cả cuộc đời để chỉ sống với người mình yêu vài tháng, may mắn hơn được vài năm. Chị lấy anh Kiệt thế đã được hơn hai năm rồi, cho nên những ngày tháng bây giờ vẫn còn có nhau là ơn Trời Phật ban. Chị không mong muốn gì hơn.
Để khuây khỏa những ngày thiếu vắng chồng, chị Hảo xin dạy lớp mẫu giáo ở một trường tư thục Công giáo. Chị yêu con nít và rất mong có một đứa con với anh Kiệt. Nhưng đi phép thất thường như thế này thì không biết khi nào chị mới được toại nguyện. Tôi chán con nít, nuôi nấng khổ cực chứ sung sướng gì. Cứ nhìn mẹ tôi nuôi mấy đứa em thì hiểu ngay đó là một nỗi khổ. Những gì mong ước của chị Hảo đều là ước mong của tôi vì thế tôi lại cầu nguyện chị sớm có con, để bồng bế cho bõ những lần chép miệng thở dài. Vài ba tuần, anh Kiệt lại về. Tôi lại sang thăm và trong tim lại nhói đau khi nhìn thấy cử chỉ săn sóc âu yếm của anh. Cứ thế, cuộc sống đầy ắp tình yêu nồng cháy của chị Hảo trôi đi lặng lẽ, ba tháng hè của tôi cũng chập chờn biến mau theo ngày tháng.
Mùa hè tuổi dậy thì năm đó mang nhiều kỷ niệm đáng yêu và sự quen biết chị Hảo là kỷ niệm đáng yêu nhất. Trở lại trường, tôi hãnh diện kể lại câu chuyện quen biết chị Hảo, thêm thắt vào đó một vài câu đối thoại tưởng tượng, làm đám bạn há hốc miệng nghe cứ như chuyện thần thoại. Câu chuyện quen chị Hảo đúng ra kể lại chưa đầy năm phút, thế mà tôi tán rộng ra đến gần nửa tiếng, vậy mà mấy thằng bạn cứ ngồi đờ ra nghe chuyện mê mẩn. Đến đoạn diễn tả nhan sắc của chị Hảo, tôi phun ra những từ ngữ đẹp nhất, duyên dáng nhất (học lỏm trong tiểu thuyết) và dĩ nhiên cả bọn nhao nhao đòi leo lên căn gác nhà tôi để xem tận mắt. Có thằng đi nước cờ cao, bĩu môi bảo rằng tôi nói dóc, làm gì có người đẹp như mày kể, có thấy tao mới tin. Tôi phất tay từ chối, nói không cần chúng mày kiểm chứng, tin hay không tin thì tuỳ. Thâm tâm tôi không muốn chị Hảo quen ai ngoài… tôi cả; anh Kiệt là chồng thì không kể, còn ngoài ra chị phải là thần tượng của riêng tôi, một mình tôi thôi. Thì thằng con trai mới lớn nào chẳng ích kỷ như tôi, nhìn đời qua tấm giấy kiếng màu hồng và trong đó tình yêu phải tuyệt đối như những lần hiện ra trong giấc mơ.
Một buổi tối rảnh rỗi, tôi bước chân sang căn gác thăm chị Hảo. Cả tuần bận học thi Tam Cá Nguyệt nên tôi phải bế môn tỏa cảng ôn bài (thì xem tiểu thuyết cũng có lúc, tôi cũng biết lo lắm chứ!), môn cuối cùng vừa thi xong lúc chiều, thế là nhẹ gánh tang bồng, tối nay tha hồ ngồi chuyện trò với chị Hảo. Trời tối mù, bước lên cầu thang dẫn lên căn gác tôi vấp đến mấy lần. Căn gác đêm nay yên ắng lạ thường, tôi gõ nhẹ lên cánh cửa, miệng gọi chị Hảo ơi. Không một tiếng trả lời. Vô lý chị ra Phù-cát thăm anh Kiệt, thường thường khi đi chị hay dặn tôi trông coi nhà dùm chị. Chưa bao giờ chị đi mà quên không nói với tôi một tiếng. Ngày hôm qua tôi còn thấy chị đi chợ về kia mà nhưng sao bây giờ vắng lặng như tờ. Căn gác tối mịt, loáng thoáng có ánh đèn mờ hắt ra từ kẽ hở bức vách. Tôi gọi tên chị Hảo lần nữa, lần này tôi nghe tiếng khóc thút thít vẳng lên đâu đó. Bỗng nhiên tóc tôi dựng đứng như lông nhím. Bóng tối phủ chụp lên tôi đe dọa, tiếng lá cây sầu đông xào xạc trong đêm nghe như ai đang kể lể thở than, và tiếng khóc nỉ non vang lên từ cõi u linh nghe thật não nùng ai oán. Tôi rùng mình. Tôi gọi chị Hảo to hơn và lần này tôi nhận ra tiếng khóc phát xuất từ bên trong. Tôi đẩy nhẹ cửa bước vào.
Căn phòng tối hẳn ở nửa căn bếp, bên phía bàn ăn khoảng ánh sáng lờ mờ phát ra từ ngọn đèn néon trắng đục và tôi thấy chị Hảo ngồi yên như một pho tượng. Mái tóc che nửa khuôn mặt, cằm tựa vào đôi tay chắp lại như nguyện xin. Khi bước đến gần, tôi nhận thấy trên đôi tay chị treo lủng lẳng sợi dây và cuối sợi là một tấm thẻ bài đong đưa theo tiếng nấc. Tiếng khóc nhỏ nhẹ nghe như một lời than van, đầy vẻ ẩn nhẫn, chịu đựng. Hình như chị đang cố nhận chìm nỗi đau khổ xuống tận đáy lòng. Một giọt nước mắt lăn trên gò má, rơi rụng trên tờ giấy đặt trên bàn có ghi hàng chữ. Tôi đoán được phần nào câu chuyện. Nỗi lo sợ của người chinh phụ về một ngày tiễn đưa chồng đến mộ huyệt đã bị định mệnh ác độc âm thầm chọn lựa. Định mệnh hôm nay đã chọn chị – trong số muôn ngàn người vợ chinh phu – để chít khăn tang và khoác vội tấm vải sô lên người. Chị ngồi đó với tiếng nấc, đôi mắt nhìn xuống nỗi đau khổ trải dài trên trang giấy mà tôi đoán có lẽ là lá thư anh Kiệt viết cho chị. Một kỷ vật chăng? hoặc lá thư viết xong chưa gửi đi thì tử thần đổ chụp lên số mạng? Tôi đang đứng trước mặt chị mà chị không hề biết sự hiện diện của tôi. Chị đắm chìm vào một quá khứ như cố níu giữ hình bóng người chồng mà giờ đây đã cách xa diệu vợi. Khi hiểu được sự tàn nhẫn của cuộc đời, tôi đứng ngây người nhìn chị mà không nói được lời nào an ủi. Tôi yên lặng để cố chiêm niệm nỗi đau khổ cùng cực của người vợ mất chồng, những người vợ đã nức nở bóc đi một phần lớn – nếu không nói là tất cả – tâm hồn để dâng hiến cho tổ quốc.
Tôi có cảm nhận được sự đau khổ mà chị Hảo đang gánh chịu không? Có lẽ được nhưng không thể ở mức độ mà chị đang cắn răng cố nuốt lấy cái thực tại đầy nghiệt ngã. Chỉ có những người vợ, nhận được tin dữ, cầm trong tay tấm thẻ bài oan khiên rồi mới thấm thía hết nỗi thương đau của một mất mát không thể nào bù đắp được. Mặc dù không cảm thông hết nỗi khổ của chị Hảo nhưng hình ảnh não nùng của chị ngồi khóc đêm hôm đó đã hằn sâu trong tâm khảm tôi những đường nét vĩnh cửu, bất diệt so với thời gian. Nó đục khắc trong tâm thức tôi những góc cạnh mà mãi sau này khi trôi nổi trên đường đời, trải qua biết bao đắng cay của cuộc sống, tôi vẫn hình dung được một chị Hảo, hai tay ôm lấy tấm thẻ bài, ngồi u sầu bên mối tình vừa chết tức tưởi. Với muôn ngàn hình ảnh thân yêu nằm sâu trong ký ức, tôi chỉ thấy nổi bật hình ảnh chị Hảo, nhất là những khi bị chà đạp dưới bùn đen. Trong mỗi tận cùng của gian truân tôi lại chợt nhớ đến lúc chị ngồi khóc dưới ánh đèn mờ. Và chính hình ảnh đó đã thôi thúc tôi vươn lên để sống, vượt qua được ý nghĩ tuyệt vọng khi tôi bị hành hạ dã man ở đáy địa ngục trần gian, biết cảm nhận một nỗi đau của người dễ dàng hơn, và biết thương xót khi nhìn những người kém may mắn hơn mình. Cũng vì dễ cảm thông với những bất hạnh xảy ra chung quanh, tôi hành xử tự trọng hơn, đối xử với người đại lượng hơn, khoan dung với đời và nhất là dễ dàng chia sẻ những gì đang có với những người xấu số. Tôi thầm cám ơn chị đã ban tặng cho tôi một hình ảnh bi tráng và tôi hằng trân quý gìn giữ qua bao thăng trầm. Sau này khi lớn lên, tôi thấy một tấm hình nổi tiếng của nhiếp ảnh gia Nguyễn ngọc Hạnh, chụp một thiếu nữ có mái tóc che kín nửa khuôn mặt, giọt nước mắt lăn trên gò má, đôi tay khoác tấm thẻ bài. Tất cả giống như hình ảnh chị Hảo đêm hôm đó nhưng đối với tôi tấm ảnh đó vẫn vô hồn, nó không thật vì có thể được dàn dựng và vì tôi không là chứng nhân nỗi thương đau cùng cực mà người thiếu phụ muốn diễn tả. Đành rằng ông Hạnh cũng rung cảm bắt nhận được nỗi khổ đau của người vợ trẻ nhưng đối với tôi hình ảnh sầu muộn của chị Hảo thật quá, rõ quá và chỉ cách tôi có một sải tay.
Tôi vòng qua bàn, tiến đến đứng sát bên chị. Đôi mắt chị vẫn nhìn xuống. Nước mắt đã thấm ướt phần dưới của lá thư. Đúng là lá thư anh Kiệt viết cho chị với dòng chữ nguệch ngọac: Chắc anh không qua được, Hảo ơi! Yêu em mãi. Quá cảm xúc, tôi đặt tay lên vai chị, giọng run run:
- Chị Hảo…
Bàn tay đang ôm tấm thẻ bài thả xuống, chị ngả đầu vào người tôi, giọng nức nở:
- Anh Kiệt mất rồi, Hưng ơi…
Tôi có cảm giác chị cố chống đỡ với số mạng, giữ cho người được thăng bằng. Đến khi biết tôi đứng bên cạnh, chị không còn hơi sức nữa, tựa hết thân hình vào người tôi, đôi bàn tay thả rơi tấm thẻ bài. Tiếng kim khí rơi từ một độ cao vừa phải va chạm mặt bàn nghe khô cứng, sắc nhọn và lạnh lùng như Tử thần vung lưỡi hái hớt đi một mạng người. Một mạng người rơi rụng như hàng ngàn cái chết xảy ra trên mảnh đất khốn khổ này nhưng có những cái chết không bao giờ nguôi ngoai, không thể nào phôi phai trong tâm trí của người thân. Mãi mãi vẫn là một cái gì bất diệt, thiên thu.
Tôi bật khóc. Bàn tay tôi quàng ôm lấy vai đỡ cho chị ngồi thẳng dậy. Người chị mềm nhũn như bún. Tôi quỳ xuống, ôm lấy chị. Một tay tôi nắm lấy thành ghế để giữ thăng bằng, tay kia đỡ lấy bàn tay chị Hảo. Chị lả người, cả thân hình đổ ụp vào vai tôi. Nước mắt chị rơi thấm ướt khoảnh áo trước ngực. Chị khóc nhớ thương anh Kiệt, còn tôi khóc vì thấy chị đau khổ qua cái chết của người chồng. Hai chị em khóc thật tự nhiên. Tôi ôm lấy chị là theo bản năng của một đứa con trai khi thấy một phụ nữ yếu đuối cần nâng đỡ, đến khi ngừng khóc, tôi chợt bàng hoàng khi thấy chị Hảo yếu đuối đang nằm trong vòng tay của tôi. Mặc dù tôi với chị Hảo là tình chị em nhưng khi ôm chị lòng tôi bỗng bồi hồi khôn xiết. Tôi ước mơ giá tôi lớn hơn chị vài tuổi để tôi quàng tay qua eo chị, vỗ về ủi an và vuốt ve suối tóc của chị. Tôi quỳ như thế không biết bao lâu, người như lịm đi trong cảm giác đê mê lần đầu có người con gái khóc trên vai. Lòng tôi ao ước cứ được ôm chị như thế này mãi để an ủi chị, cho dù làm thân trâu ngựa cho chị cũng bằng lòng. Cho đến khi cảm giác tê nhức ở hai đầu gối đánh át cảm giác đê mê khó tả thì tôi mới cắn răng đỡ chị ngồi thẳng dậy. Chị Hảo gắng gượng ngồi lên rồi nửa thân hình lại đổ ập xuống mặt bàn, đầu nghiêng hẳn qua bên. Tôi thấy rõ mắt chị mở trừng trừng, vô hồn. Thân xác chị ở đây nhưng tâm trí chị đang phiêu du ở một nơi chốn nào đó không ai biết; có lẽ đang bay theo mây về nơi anh Kiệt yên nghỉ. Tôi nâng chị dậy, dìu chị đến bên giường, đỡ chị nằm xuống, và lấy tấm khăn mỏng đắp lên người. Chị hoàn toàn thụ động, bước đi như người mộng du, không thốt một lời. Căn gác lại chìm vào một sự yên lặng rợn người, thỉnh thoảng có tiếng con thạch sùng tặc lưỡi đâu đó trên trần nhà. Bóng tối buồn bã đổ tràn trên căn gác. Tôi ngồi xuống chiếc ghế cạnh bàn, hai tay ôm lấy đầu không biết phải làm gì. Trong bóng đêm mông lung, lần đầu tiên tôi chợt thấy thấm thía hai chữ cô đơn.
Tôi giật thót người khi nghe tiếng chị Hảo mơ màng:
- Anh ơi… anh ơi…
Vặn ngọn đèn cho sáng hơn, tôi chạy vội lại phía giường, miệng kêu rối rít:
- Em đây… em đây, chị Hảo.
Chị nằm nghiêng, xoay mặt về phía tôi, nước mắt đoanh tròng. Ôi! Đôi mắt, làm sao tôi có thể diễn tả được đôi mắt của chị. Hình như trong ánh mắt, chị nhận ra tôi. Giọng chị rã rời:
- Hưng hả em…
Tôi lại quỳ xuống bên chị:
- Chị cứ nghỉ cho khoẻ, em ngồi đây với chị.
Chị vói tay đặt lên vai tôi:
- Cám ơn em…
Chưa bao giờ tôi nhìn sát khuôn mặt của chị đến thế. Giọng tôi run run:
- Chuyện làm sao chị kể cho em nghe đi.
Chị ngẩn ngơ một lúc rồi thở dài:
- Hồi chiều có người sĩ quan cùng đơn vị với anh Kiệt đến báo tin cho chị. Anh nói là anh Kiệt tải thương binh, cố đáp xuống vùng địch bao vây để chở cho được mấy người lính bị thương về hậu cứ. Nếu không chở mấy anh đó về được thì chắc chắn họ phải chết vì cần phải tiếp máu. Anh bị trúng đạn bên hông nhưng giấu không cho ai biết. Chở về đến nơi thì… thì… anh ngất xỉu…
Chị bật khóc thành tiếng:
- …chở vào bệnh viện thì không kịp nữa vì đạn trúng chỗ hiểm. Bác sĩ cố đủ mọi cách nhưng anh Kiệt chỉ tỉnh dậy viết vội cho chị… cho chị mấy chữ rồi… rồi ra đi…
Tôi nắm lấy tay chị, nước mắt rưng rưng:
- Chị Hảo ơi, em không biết nói sao nữa… mỗi người có một số mạng… em chỉ xin chị cố giữ sức khoẻ để còn lo ma chay cho anh Kiệt.
Giọng chị nghẹn ngào:
- Cám ơn em. Chị đã chuẩn bị để đón nhận tin dữ từ lâu nhưng đến khi xảy ra vẫn không sao lường trước được lòng mình. Buồn quá Hưng ơi. Cám ơn em ở đây với chị. Có em một bên chị cũng an ủi được một phần. Ngày mai, chị đi Phù-cát nhận xác anh Kiệt rồi có lẽ theo máy bay về Sài-gòn luôn.
Tôi sửng sốt:
- Thế còn nhà cửa đây ai giữ?
- Nhà chị sụp rồi, còn gì mà giữ hả em…
Rồi chị lẩm bẩm cái gì đó tôi nghe không rõ. Và chị lại chìm vào thế giới riêng của chị. Người chị lúc tỉnh lúc mơ. Tôi nghe tiếng chị ú ớ gì đó rồi tất cả lại chìm vào yên lặng. Đêm hôm đó tôi ngồi canh thức cho chị ngủ và mệt mỏi quá tôi thiếp đi trên ghế lúc nào không biết. Trong cơn mơ màng tôi loáng thoáng nghe đâu đó giọng hát của một ca sĩ: ngày mai đi nhận xác chồng, quay đi để thấy mình không là mình…
Đó là lần cuối cùng tôi gặp chị Hảo.