Sau khi bị bao vây, toàn bộ lương thực đạn dược đều dựa vào thả dù. Hễ máy bay xuất hiện ở trên trời, thì toàn quân ở dưới cứ nhao nhao chen nhau như kiến cỏ đi cướp gạo. Hễ máy bay bay đi là toàn quân lại chia thành từng tốp kéo về các ngôi nhà và cây cối trơ trụi, vừa dỡ nhà vừa chặt cây, đâu có giống đánh nhau. Những tiếng kêu loạn xị gần như át cả tiếng súng tiếng pháo ở phía trước. Chẳng bao lâu, những nhà ở và cây cối mắt nhìn thấy đều mất sạch, chỗ nào cũng có khói nấu cơm bốc lên bay lơ lửng trên bầu trời. Lúc bấy giờ đạn nhiều hơn cả, ngả lưng xuống chỗ nào cũng đè lên đau nhói. Chưa được một ngày, các ngôi nhà ở chung quanh đã bị dỡ sạch, cây cối cũng bị chặt sạch, chỗ nào cũng có lính cầm lưỡi lê đi cắt cỏ khô, trông chẳng khác gì cảnh vào vụ gặt hái, có những người đánh gốc cây mồ hôi nhễ nhại. Vào những lúc này, người đi cướp gạo đã ít đi, chúng tôi ra khiêng ba bao tải gạo rõ to về hầm rải ra làm giường ngủ, nằm lên bao gạo không sợ đạn chọc vào lưng đau đớn khó chịu nữa. Đến khi không còn kiếm ra thứ gì để làm củi nấu cơm nữa, mà Ủy viên Tưởng Giới Thạch vẫn chưa cứu được chúng tôi đi, được cái máy bay không còn thả gạo nữa, mà thay bằng thả bánh bích qui, bánh nướng. Từng bao từng bao bánh nướng thả xuống, những người anh em như bầy súc vật lao tới tranh cướp loạn xạ, xếp thành từng lớp từng tầng y như đế giày của mẹ tôi xếp đống, bọn họ kêu gào hò hét om sòm chẳng khác gì sói rừng. Lão Toàn bảo: - Chúng ta chia nhau đi cướp. Lúc này chỉ có thể chia nhau đi cướp, mới cướp được nhiều bánh nướng đem về. Chúng tôi bò ra khỏi hầm, tự chọn hướng mà đi. Lúc này đạn đã bay đi bay lại ở gần đó, thường có những viên đạn bay sượt qua. Một lần tôi đang đi, đang đi, một người bên cạnh đột nhiên ngã xuống, tôi cứ tưởng anh ta bị ngất, quay lại nhìn thì nửa bên đầu của anh ta không còn, tôi sợ bủn rủn cả chân tay, suýt nữa cũng ngã. Cướp bánh nướng còn khó hơn cướp gạo, nghe nói quân ta ngày nào cũng có người chết do liều mạng. Khi có máy bay từ đằng xa bay đến, tất cả quân lính đều từ đất bật dậy chạy theo máy bay; cứ tưởng mặt đất trơ trụi đột nhiên mọc lên những vạt cỏ, hễ bao bánh nướng thả xuống là mọi người tản ra, đuổi theo từng cái dù mà mình đã nhìn sẵn. Bao bánh nướng gói không chắc, hễ rơi xuống đất là rơi vãi, hàng chục hàng trăm người xông vào vồ, có những người còn chưa chạm đất đã bị xô ngất xỉu.
Mỗi lần tôi lao vào cướp bánh là toàn thân đau đớn như bị người ta treo lên lấy thắt lưng da đánh cho một trận. Rút cuộc thì cũng chỉ cướp được mấy cái bánh nướng. Về đến hầm thì Lão Toàn đã ngồi ở đó, mặt anh ta sây sát chỗ tím chỗ đỏ, anh ta cũng chẳng cướp được nhiều hơn so với tôi. Lão Toàn đã tám năm đi lính nhưng lòng dạ vẫn lương thiện. Anh ta để bánh của mình lên trên bánh của tôi, bảo chờ Xuân Sinh về cùng ăn. Hai chúng tôi ngồi trong hầm thò đầu ra nhìn ngó Xuân Sinh. Một lúc sau, chúng tôi nhìn thấy Xuân Sinh ôm một đống giày cao su lom khom chạy về. Anh chàng ta hớn hở mặt đỏ bừng, cậu ta quăng người một phát lăn vào trong, chỉ giày cao su rơi đầy đất, hỏi chúng tôi: - Nhiều không? Lão Toàn nhìn tôi, hỏi Xuân Sinh: - Thứ này ăn được à? Xuân Sinh đáp: - Có thể nấu cơm chứ. Chúng tôi nghĩ cũng đúng lắm. Nhìn mặt Xuân Sinh không hề sây sát gì, Lão Toàn bảo tôi: - Tay này tinh khôn hơn tất cả mọi người. Sau đó, chúng tôi không đi cướp bánh nướng nữa, áp dụng luôn cách làm của Xuân Sinh. Khi cướp bánh nướng, người nọ đè lên người kia, thì chúng tôi liên tụt luôn giày cao su trên chân họ đem về đốt, dù sao thì gạo đã có sẵn, như thế còn tránh được thịt da khỏi ăn đòn. Ba đứa chúng tôi ôm vách chiến hào nhìn những người để chân trần vừa đi vừa nhảy lò cò trong mùa đông, cứ cười hì hì suốt. Tiếng súng tiếng pháo ở phía trước mỗi lúc một gấp, không kể ban ngày hay ban đêm, ở trong hầm chúng tôi nghe cũng đã quen; thường xuyên có đạn pháo nổ ở gần, đại bác của chúng tôi đều bị phá nát. Những cỗ pháo lớn ấy không hề bắn một phát, như thế chúng tôi càng rỗi rãi. Nhưng ngày này, Xuân Sinh cũng chẳng sợ gì nữa, lúc này có sợ cũng vô ích. Tiếng súng tiếng pháo mỗi lúc một gần, chúng tôi cứ tưởng hãy còn xa. Khó chịu nhất là thời tiết càng ngày càng lạnh, ngủ được vài phút thì lạnh cóng lại thức dậy. Khi đạn phảo nổ ở ngoài đất rung chuyển, tai chúng tôi ù tịt. Nói gì thì nói, Xuân Sinh cũng chỉ là thằng nhóc, nó đang nhắm mắt mơ mơ màng màng, thì một quả rốc két nổ gần đó hất bổng nó lên. Bị đánh thức, nó giận dữ xông ra đứng ở đường hào quát to với tiếng pháo tiếng súng ở phía trước: - Mẹ kiếp, khẽ một chút, cứ ầm ầm lên bố mày ngủ sao được! Tôi vội vàng kéo nó vào, lúc này đạn bay chiu chiu trên chiến hào. Trận địa của quân ta mỗi ngày một thu hẹp, chúng tôi không dám ra khỏi hầm hào, trừ khi đói mềm mới bò đi kiếm ăn. Ngày nào cũng có mấy ngàn thương binh được khiêng tới, trận địa của đại đội chúng tôi ở tuyến sau đã trở thành gầm trời của thương binh. Mấy hôm liền tôi, Lão Toàn và Xuân Sinh bám vào đường hào, thò đầu lên nhìn những chiếc băng ca chở thương binh cụt chân gẫy tay đi qua. Chẳng bao lâu có hàng xâu băng ca đi tới, những người khiêng cáng ai ai cũng khom lưng chạy đến trước gần chỗ chúng tôi tìm một vạt đất trống, hô một hai ba, hô đến số ba, thì hất băng ca một cái vứt thương binh xuống đất như hất rác, chẳng nhòm ngó gì đến. Thương binh đau đớn gào khóc ầm ĩ. Tiếng kêu trời kêu đất cứ vang lên hết chuỗi này đến chuỗi khác. Nhìn bọn chở băng ca bỏ đi, Lão Toàn chửi một câu: - Những đồ súc vật! Thương binh càng ngày càng nhiều, chỉ cần ở phía trước còn có tiếng súng thì còn có băng cáng khiêng đến đây, hô một hai ba vất thương binh xuống. Mới đầu chỉ có từng đống từng đống thương binh, về sau thành một bãi lớn, thương binh cứ kêu oai oái ở đó. Suốt đời, tôi không quên được những tiếng kêu đau đớn ấy. Tôi và Xuân Sinh chứng kiến cảnh tượng đó, cứ rùng mình dựng tóc gáy liên tục, ngay cả đến Lão Toàn cũng phải chau mày. Tôi nghĩ đánh nhau kiểu gì thế không biết. Trời vừa tối, lại mưa tuyết, có một khoảng thời gian dài im tiếng súng, chúng tôi liền nghe thấy tiếng hu hu của mấy ngàn thương binh chưa chết nằm ở ngoài chiến hào, lúc thì giống như là đang khóc, lúc lại giống như đang cười. Đó là những tiếng kêu đau đớn chịu không nổi, cả đời tôi chưa bao giờ nghe thấy những tiếng kêu khủng khiếp như thế, cứ từng đợt từng cơn như nước thủy triều à à ập qua người chúng tôi. Tuyết rơi xuống, trời tối quá, chúng tôi không nhìn thấy hoa tuyết, chỉ cảm thấy vừa lạnh vừa ướt, từng cánh mềm mại trên tay tan dần, chẳng mấy chốc lại đọng lại một lớp tuyết dày khác. Ba người chúng tôi co quắp nhau mà ngủ, vừa đói vừa lanh. Lúc này máy bay cũng ít đến, tìm được cái ăn đã khó khăn lắm, chẳng còn ai mong ngóng Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch đến cứu nữa, tiếp theo là cũng chẳng ai biết mình sống hay chết. Xuân Sinh hích hích vào tôi hỏi: - Phú Quí ngủ rồi hả? Tôi đáp: - Chưa. Hắn lại hích hích Lão Toàn. Lão Toàn không trả lời. Xuân Sinh khịt mũi hai cái, bảo tôi: - Phen này thì chết mất thôi. Tôi nghe vậy cũng cay cay trong mũi. Lúc này Lão Toàn mới lên tiếng, anh ấy duỗi duỗi hai cánh tay bảo: - Đừng nói gở thế. – Anh ấy ngồi dậy, lại bảo – Ta cũng đánh mấy chục trận to nhỏ, lần nào cũng bụng bảo dạ: Ta có chết cũng phải sống, đạn sạt qua đủ mọi chỗ trên người ta, chỉ có điều không găm vào thân ta. Xuân Sinh này, chỉ cần nghĩ mình không chết sẽ không chết. Sau đó,chẳng ai nói gì thêm,anh nào nghĩ đến việc của anh nấy. Tôi luôn luôn nghĩ đến nhà mình,nghĩ đến Phượng Hà đang bế Hữu Khánh đứng ở cửa,nghĩ đến mẹ tôi và Gia Trân…Cứ nghĩ,cứ nghĩ miên man,trong lòng y như bị đút nút chặt,thở không nổi,y như bị ai đó bịt chặt mồm chặt mũi. Vào khoảng nửa đêm, tiếng gào khóc của thương binh ở ngoài hầm đã nhỏ dần; tôi nghĩ phần đông bọn họ đã ngủ, chỉ còn vài ba người đang kêu rên. Những tiếng kêu rên ấy đứt đoạn, cứ văng vẳng, y như đang nói chuyện, người này hỏi một câu, người kia đáp một lời, tiếng kêu thảm thương tới mức không giống người sống nói ra. Được một lúc nữa thì chỉ còn lại một tiếng đang nức nở, nghe nhỏ như tiếng muỗi kêu vo ve qua lại trên mặt tôi. Tôi cứ nghe cứ nghe, đã không giống đang kêu rên, mà trái lại như đang hát điệu gì đó, bốn chung quanh im phăng phắc, chỉ có một tiếng này cứ quanh đi quẩn lại mãi ở đó. Tôi nghe đến nỗi phát khóc, tuyết trên mặt tan ra chảy vào cổ, y như gió lạnh thổi đến. Lúc trời sáng, chẳng còn tiếng gì nữa. Chúng tôi thò đầu ra xem, mấy ngàn thương binh hôm qua còn gào khóc, giờ đã chết hết, nằm ngổn ngang ra đó không nhúc nhích, một lớp tuyết mỏng phủ lên người. Bọn người nằm trong chiến hào vẫn còn sống chúng tôi cứ ngây người ra mà nhìn. Chẳng ai nói một lời, ngay đến Lão Toàn là lính cũ đã nhìn thấy không biết cơ man nào là người chết cũng thừ người ra rất lâu, cuối cùng anh ấy thở dài, lắc lắc đầu nói với chúng tôi: - Thảm quá! Nói rồi, anh Toàn bò ra đường hào đi vào giữa đám người chết rộng mông mênh, lật người này nhấc người kia. Anh Toàn lom khom bước qua bước lại giữa đống xác, thỉnh thoảng ngồi xổm lấy tuyết xoa xoa mặt cho ai đó. Lúc này tiếng súng tiếng pháo lại rộ lên, một số viên đạn bay về phía này. Tôi và Xuân Sinh sực tỉnh, vội vàng gọi Lão Toàn: - Mau mau quay về, anh Toàn ơi! Lão Toàn tỉnh bơ, cứ tiếp tục xem đi xem lại. Một lúc sau, anh ấy đứng lên, nhìn ngó qua lại mấy lần nữa, rồi mới đi về phía chúng tôi. Khi đến gần, anh ấy giơ ra bốn ngón tay, lắc lắc đầu bảo chúng tôi: - Mình nhận ra bốn người. Vừa nói xong, anh Toàn đột nhiên trợn tròn mắt với chúng tôi, hai chân anh đứng tại chỗ như đông cứng, sau đó cả người quỳ sụp xuống. Chúng tôi không biết tại sao anh lại thế, chỉ nhìn thấy có đạn pháo bay đến liền hét toáng lên: -Anh Toàn, mau mau lên! Gọi mấy lần mà anh Toàn vẫn cứ thế, chúng tôi mới nghĩ ra: Hỏng rồi, anh Toàn có chuyện rồi. Tôi vội vàng bò khỏi đường hào, chạy đến chỗ Lão Toàn, chạy đến trước mặt nhìn thì lưng anh Toàn đã đẫm máu. Mắt tôi nảy đom đóm, rối rít gọi Xuân Sinh. Sau khi Xuân Sinh đến nơi, hai chúng tôi khiêng anh Toàn xuống hào, mảnh đạn bay vèo vèo sát ngay bên chúng tôi. Chúng tôi đặt anh Toàn nằm xuống. Tôi lấy tay bịt chỗ chảy máu trên lưng anh ấy, vết thương vừa ướt vừa mỏng, máu vẫn đang chảy lọt qua kẽ tay tôi. Mắt anh Toàn từ từ mở ra, có lẽ là để nhìn chúng tôi một lát, sau đó động đậy mồm, giọng khản đặc hỏi chúng tôi: - Đây là đâu nhỉ? Tôi và Xuân Sinh ngẩng lên nhìn chung quanh, chúng tôi làm sao biết được đây là đâu, đành phải nhìn lại anh Toàn. Anh Toàn nhắm chặt mắt lại, rồi từ từ mở ra, càng mở càng to, mồm anh đã méo xệch trông y như nhăn nhó. Chúng tôi nghe thấy giọng anh khàn khàn: - Ngay đến chết ở đâu ta cũng không biết nữa. Nói xong câu này được một lúc thì anh tắt thở. Anh Toàn chết, đầu ngoẹo sang một bên. Tôi và Xuân Sinh biết anh đã chết, chúng tôi đang nhìn nhau thì Xuân Sinh khóc trước, Xuân Sinh đã khóc thì tôi cũng không cầm được nước mắt. Sau đó, chúng tôi nhìn thấy đại đội trưởng, ông ta đã thay áo lính mặc quần áo dân thường, trong thắt lưng buộc toàn tiền là tiền, xách một cái túi đi về hướng Tây. Chúng tôi biết là ông ta định bỏ chạy. Buộc tiền trong quần áo, nên khi ông ta đi người cứ vặn vọ như bà ba béo. Có một người lính họ Oa gọi ông ta: -Thưa đại đội trưởng, Ủy viên trưởng Tưởng Giới Thạch có còn cứu chúng ta không? Đại đội trưởng quay lại bảo: -Thằng ngốc, mẹ cậu lúc này cũng chẳng đến cứu cậu đâu, vẫn là mình tự cứu lấy mình thôi. Một lính cũ bắn ông ta một phát, đạn không trúng, đại đội trưởng vừa nghe thấy tiếng đạn bay về hướng mình, liền co cẳng chạy thục mạng, mất hế vẻ oai phong ngày trước. Mấy người lính đều giơ súng bắn ông ta, ông ta kêu oai oái, chạy qua chạy lại trông cánh đồng tuyết rồi mất hút. Tiếng súng tiếng pháo đã nổ đến trước mặt chúng tôi. Chúng tôi đều đã nhìn thấy bóng người bắn súng ở phía trước, trong khói đạn cứ từng người từng người ngã xuống. Tôi tính toán thấy mình không sống nổi đến tuổi trung niên, chưa bước sang tuổi trung niên đã đến lượt mình bị chết. Một tháng nay quần đảo trong bom đạn, tôi không còn sợ chết cho lắm, chỉ có điều cảm thấy mình chết không rõ ràng minh bạch. Thế này quả thật là oan uổng. Mẹ tôi và Gia Trân đều không biết tôi chết ở đâu. Tôi nhìn Xuân Sinh, một tay cậu ta còn gác lên người anh Toàn, cũng nhìn tôi và nét mặt buồn rười rượi. Chúng tôi đã ăn gạo sống mấy hôm, mặt Xuân Sinh bị phù, cậu ấy thè lưỡi liếm liếm môi bảo tôi: - Em muốn ăn bánh nướng. Đến bây giờ thì chết chóc đã không quan trọng nữa. Trước khi chết được ăn bánh nướng là cũng biết đủ rồi. Xuân Sinh đứng lên, tôi cũng không bảo cậu ấy cẩn thận với tiếng súng đạn. Cậu ấy nhìn rồi bảo: - Có lẽ ở ngoài còn bánh nướng. Em đi tìm thử xem. Xuân Sinh bò ra chiến hào, tôi không ngăn cậu ấy. Dù sao thì chẳng đến trưa nay đâu, chúng tôi sẽ đều phải chết, nếu cậu ấy được ăn bánh nướng thật thì tốt quá. Tôi nhìn cậu ấy uể oải bước qua các xác chết, đi được vài bước còn quay lại bảo tôi: - Anh đừng đi đâu nhé! Tìm được bánh em sẽ quay về. Cậu ta buông thõng hai tay, cúi đầu đi vào chỗ khói lửa mù mịt ở phía trước. Lúc này trong không khí đầy mùi khét lẹt và bụi bẩn, hít thở vào họng đều cảm thấy có từng viên từng hạt như đá nhỏ. Chưa đến trưa, thì những người còn sống trong đường hào đều bị bắt làm tù binh. Khi quân Giải phóng cầm súng xông đến, có một lính cũ bảo chúng tôi giơ hai tay lên. Anh ta căng thẳng đến mức tái mặt đi, hò hét bảo chúng tôi chớ có động vào khẩu súng ở bên cạnh. Anh ta sợ đến lúc ấy ngay cả anh ta cũng xúi quẩy. Một người lính Giải phóng trạc tuổi Xuân Sinh chĩa thẳng nòng súng đen ngòm vào tôi; tôi sững sờ, nghĩ thầm lần này thì chết thật. Nhưng anh ta không nổ súng, nói với tôi câu gì đó, tôi nghe thấy tiếng bảo tôi bò ra, trong lòng bỗng hồi hộp, tôi lại có ý mong được sống. Sau khi tôi bò ra khỏi hầm, anh ta bảo: - Bỏ tay xuống.
Tôi bỏ hai tay xuống, cũng hết hồi hộp. Một hàng hơn mười hai tù binh chúng tôi do anh ta áp giải đi về hướng Nam, đi được một quãng thì nhập vào một đội tù binh lớn hơn. Khắp nơi chỗ nào cũng có những cột khói cao vút, đổ nghiêng về một phía. Trên mặt đất chi chít hố bom, xác chết ngổn ngang, những cỗ xe quân sự cháy đen vẫn còn đang nổ lép bép. Sau khi chúng tôi đi được một chặng, thì hơn hai mươi bộ đội giải phóng gánh bánh bao từ hướng Bắc đi thẳng đến; bánh bao nóng hôi hổi, tôi nhìn thấy thèm rỏ cả nước dãi. Một sĩ quan áp giải chúng tôi bảo: - Các anh tự xếp hàng vào tử tế. Không ngờ họ đã đem bánh bao đến cho chúng tôi ăn. Nếu Xuân Sinh còn ở đây thì hay quá. Tôi nhìn ra xa xa, không biết thằng bé này còn sống hay đã chết. Chúng tôi tự động xếp thành đội hình hơn mười hai hàng dọc, cứ lần lượt mỗi người nhận hai cái bánh bao. Tôi chưa bao giờ nghe thấy tiếng ăn rào rào to đến thế, còn to hơn vài trăm con lợn ăn xốc. Người nào cũng ăn rất nhanh, có một số người cứ ho thục mạng, tiếng ho sau cao hơn tiếng ho trước. Một người ở cạnh tôi ho dữ hơn ai hết, anh ta cứ ôm lưng, ho chảy cả nước mắt. Nhiều người đã bị nghẹn, ai cũng ngẩng mặt trợn mắt, không nhúc nhích. Sáng hôm sau, chúng tôi được tập hợp trên một bãi trống, ngồi thành từng hàng ngay ngắn. Ở trước mặt có hai cái bàn, một người có dáng sĩ quan nói chuyện với chúng tôi. Ông ta nói một thôi một hồi về lí lẽ giải phóng Trung Quốc, cuối cùng tuyên bố: - Ai tự nguyện tham gia quân Giải phóng thì tiếp tục ngồi, còn ai muốn về nhà thì đứng lên, đi lĩnh lệ phí về quê. Vừa nghe có thể về nhà, tim tôi đập thình thịch. Nhưng tôi nhìn thấy người sĩ quan kia đeo súng lục ở lưng thì lại đâm sợ. Tôi nghĩ, làm gì có chuyện tử tế như thế. Rất nhiều người ngồi im lặng, cũng có một số người đi ra, họ đã đến trước bàn lĩnh lộ phí thật. Ông sĩ quan kia luôn nhìn họ. Sau khi nhận tiền đi đường, còn lĩnh cả giấy thông hành, tiếp đó là lên đường. Tôi hồi hộp vô cùng, viên sĩ quan kia dứt khoát sẽ rút súng ra bắn họ, giống như đại đội trưởng của chúng tôi đã bắn. Nhưng sau khi họ đã đi rất xa, ông ta vẫn không bắn. Lúc này tôi hồi hộp căng thẳng, tôi biết quân Giải phóng bằng lòng tha chúng tôi về nhà thật, tôi biết qua chiến trận vừa rồi, thế nào gọi là đánh nhau, tôi đã thầm nhủ không bao giờ đi đánh nhau nữa, tôi phải về nhà. Tôi liền đứng lên, bước thẳng tới trước mặt viên sĩ quan, quỳ sụp xuống khóc thút thít. Tôi vốn định nói xin về nhà, song vừa há mồm lại thay đổi, tôi cứ thưa rối rít: -Thưa đại đội trưởng, thưa đại đội trưởng, thưa đại đội trưởng…. Tôi không nói được gì khác. Viên sĩ quan kia dìu tôi đứng dậy, hỏi tôi định nói gì. Tôi vẫn gọi ông ấy là đại đội trưởng, vẫn khóc. Một người giải phóng quân đứng cạnh nói với tôi: - Đây là trung đoàn trưởng. Nghe nói vậy tôi hết hồn,nghĩ bụng hỏng bét rồi, nhưng nghe thấy tiếng cười rộ lên của đám tù binh đang ngồi, lại nhìn thấy trung đoàn trưởng mỉm cười hỏi tôi: - Anh định nói gì? Tôi lúc này mới vững tâm, nói với trung đoàn trưởng: - Tôi xin về nhà. Quân Giải phóng đã cho tôi về nhà, còn cho cả tiền đi đường. Tôi hấp ta hấp tấp đi về hướng nam, đói thì lấy tiền quân Giải phóng cho mua bánh nướng ăn, mệt thì tìm một nơi bằng phẳng đánh một giấc. Tôi nhớ nhà lắm rồi, cứ nghĩ đời này kiếp này được đoàn tụ với mẹ, Gia Trân và hai đứa con, tôi lại vừa cười vừa khóc, hối hả chạy về phía Nam. Khi tôi đến bến sông Trường, miền Nam còn chưa giải phóng, quân Giải phóng đang chuẩn bị vượt sông. Tôi không qua được, phải ở đấy mất mấy tháng; tôi tìm việc làm ở khắp nơi để khỏi chết đói. Tôi biết quân Giải phóng thiếu người chở thuyền. Ngày trước sẵn tiền ham chơi, tôi đã từng học chở thuyền; đã mấy lần tôi định gia nhập quân Giải phóng, chở thuyền cho họ qua sông Trường. Tôi nghĩ, quân Giải phóng tốt với mình, mình phải đáp lại ơn đó. Nhưng quả thật tôi sợ đánh nhau, sợ không được gặp người ruột thịt. Vì mẹ con Gia Trân, tôi đã thầm nhủ: - Mình không đền ơn nữa, mình sẽ ghi nhớ việc đối xử tử tế của quân Giải phóng. Tôi đã bám sau lưng quân Giải phóng về đến nhà. Tính thời gian tôi xa gia đình đã sắp được hai năm. Lúc đi là giữa thu, khi về là đầu thu. Bụi đất đầy người, tôi bước đi trên đường quê hương, tôi nhận thấy thôn mình chẳng thay đổi chút nào hết, cứ nhìn vào là thấy, tôi sốt ruột xồng xộc đi lên trước. Tôi nhìn thấy trước tiên ngôi nhà ngói ngày nào là của gia đình tôi, rồi lại nhìn thấy mái lều tranh bây giờ. Vừa nhìn thấy lều tranh ấy, tôi không còn nhịn được chạy phứa lên. Đến chỗ cách đầu thôn không xa, có một bé gái bảy tám tuổi dắt theo một cậu bé ba tuổi đang cắt cỏ. Vừa nhìn thấy con bé ăn mặc rách rưới, tôi đã nhận ra ngay đó là Phượng Hà của tôi. Phượng Hà đang dắt tay Hữu Khánh, Hữu Khánh bước đi còn chập chững. Tôi liền gọi Phượng Hà và Hữu Khánh: - Phượng Hà ơi!Hữu Khánh ơi! Phượng Hà như không nghe thấy, song Hữu Khánh quay người lại nó vẫn đang bị chị dắt đi nên chỉ ngoẹo đầu lại. Tôi gọi tiếp: - Phượng Hà ơi!Hữu Khánh ơi! Lúc này Hữu Khánh kéo chị lại. Phượng Hà quay về phía tôi. Tôi chạy đến ngồi xổm trước mặt Phượng Hà : - Phượng Hà ơi, có biết ai đây không? Phượng hà tròn mắt nhìn tôi một lúc, cái mồm động đậy không thành tiếng. Tôi bảo Phượng Hà: - Ta là bố con đây. Phượng Hà nhoẻn cười, mồm nó cứ há ra há ra nhưng không nói tiếng nào. Lúc ấy, tôi đã cảm thấy ngờ ngợ cái gì, chỉ có điều tôi không nghĩ kĩ. Tôi biết Phượng Hà đã nhận ra bố, nó há mồm cười với tôi, răng cửa nó đã rụng hết. Tôi đưa tay âu yếm ờ mặt nó, mắt cháu sáng lên úp mặt vào tay tôi. Tôi lại nhìn Hữu Khánh, đương nhiên Hữu Khánh không nhận ra tôi, nó sợ cứ nép vào người chị. Tôi kéo nó, nó liền tránh tôi. Tôi bảo nó: - Con trai ơi, ta là bố con đây. Hữu Khánh liền nấp sau lưng chị, đẩy Phượng Hà bảo: - Chúng ta mau về đi. Lúc này, có một người đàn bà chạy đến chổ chúng tôi, rối rít gọi tên tôi, tôi nhận ra vợ mình.Gia Trâm chạy lảo đà lảo đảo, chạy đến trước mặt tôi gọi một tiếng: - Anh Phú Quí!-Rồi ngồi bệt xuống đất khóc hu hu. Tôi nói với Gia Trân: - Khóc cái gì, khóc cái gì. Nói xong, tôi cũng khóc hu hu. Coi như tôi đã về nhà. Nhìn thấy Gia Trân và hai đứa con đều khỏe mạnh, tôi cũng yên tâm. Cả ba mẹ con theo bố về nhà. Đi gần lều tranh nhà mình, tôi rối rít gọi: - Mẹ ơi, mẹ! Gọi xong, tôi chạy vượt lên, chạy vào trong lều tranh không nhìn thấy mẹ đâu, mắt tôi tối sầm lại, quay ra hỏi Gia Trân: - Mẹ đâu…em? Gia Trân không nói gì, nước mắt giàn giụa nhìn tôi. Tôi biết mẹ đi xa rồi. Tôi đứng ở cửa cúi đầu lau nước mắt. Tôi xa nhà được hơn hai tháng thì mẹ tôi mất. Gia Trân nói với tôi, trước khi chết, mẹ cứ nhắc đi nhắc lại mãi: “Phú Quí không đi đánh bạc đâu”. Gia Trân đã lên tỉnh dò hỏi về tôi bao nhiêu lần, nhưng không có ai bảo với cô ấy tôi đã bị bắt đi lính, nên mẹ tôi mới nói như vậy. Thương cho mẹ tôi quá, lúc chết mẹ tôi vẫn không biết tôi ở đâu. Phuợng Hà của tôi cũng đáng thương, một năm trước đây, sau một trận sốt cao nó không nói được nữa. Khi Gia Trân khóc nức nở nói với tôi những chuyện này thì Phượng Hà ngồi ngay trước mặt tôi. Nó biết bố mẹ đang nói về nó, liền khe khẽ cười với tôi. Nhìn con gái cười, tôi như đứt từng khúc ruột. Hữu Khánh cũng đã nhận ra bố, chỉ có điều nó còn sờ sợ tôi; tôi bế nó, nó cứ cố giãy ra nhìn chị. Dù sao thì tôi cũng đã về đến nhà. Đêm đầu tiên tôi không sao ngủ được. Hai vợ chồng cùng hai đứa con chen vào nhau; nghe gió thổi cỏ tranh phần phật trên nóc nhà, nhìn ánh trăng sáng vằng vặc ở bên ngoài, trong lòng tôi vừa cảm thấy yên tâm vừa cảm thấy ấm áp. Tôi hết sờ Gia Trân lại sờ hai đứa con tôi. Tôi cứ thầm nói hết lần này đến lần khác: - Mình đã về nhà. Khi tôi về nhà thì trong làng bắt đầu thực hiện cải cách ruộng đất. Tôi về được chia năm mẫu ruộng, tức năm mẫu cấy rẽ của Long Nhị ngày đầu. Long Nhị xúi quẩy lớn, hắn làm địa chủ, lên mặt chưa được ba năm, giải phóng một cái liền đi toi. Đảng Cộng sản tịch thu ruộng đất của hắn, chia cho nông dân ngày trước. Hắn còn cố sống cố chết không chịu, đi dọa những gia đình nông dân ấy, có người không nghe, hắn liền giơ tay đánh người ta. Thế là Long Nhị tự chuốc lấy rủi ro, chính quyền nhân dân đã bắt hắn, qui hắn là địa chủ ác bá, tống hắn vào nhà giam ở tỉnh. Long Nhị vẫn không thức thời, cái mồm cứ cứng như đá, cuối cùng bị xử bắn. Hôm xử tử Long Nhị, tôi cũng đi xem. Đứng trước cái chết, Long Nhị mới nản lòng. Nghe nói khi bị giả ra khỏi nhà tù, nước mắt cứ lưng tròng, mồm chảy nước dãi nói với một người quen: - Có nằm mơ cũng không nghĩ đến ngày mình bị xử bắn. Long Nhị cũng hồ đồ qua. Hắn cứ tưởng bị giam vài hôm sẽ thả ra, hoàn toàn không tin sẽ bị bắn. Hôm đó vào buổi chiều, xử bắn Long Nhị ở thôn cạnh chúng tôi, đã có người đào huyệt sẵn. Hôm đó, dân chúng ở mấy thôn đều đến xem. Long Nhị bị trói giật cánh khỉ áp giải đến, gần như hắn bị lôi xềnh xệch, mồm nửa há, thở hồng hộc. Khi đi qua cạnh tôi, Long Nhị đưa mắt nhìn tôi một cái, tôi cảm thấy anh ta không nhận ra tôi, nhưng đi qua mấy bước anh ta liền cố tình quay đầu lại, sụt sịt nói với tôi: - Phú Quí ơi, tao chết thay mày đấy. Nghe hắn nói vậy, tôi đâm hoảng, nghĩ bụng rời khỏi đây vẫn hơn, đừng có xem anh ta chết như thế nào nữa. Tôi chen khỏi đám đông, lủi thủi đi ra ngoài. Đi được chừng mười bước thì nghe “đoàng” một tiếng, nghĩ bụng Long Nhị đi đời hẵn rồi; nhưng lại nghe thấy “đoàng” một phát nữa, tiếp theo là ba phát liền, cả thảy bắn năm viên đạn. Tôi thầm nghĩ hay là còn những người khác cũng bị xử bắn. Trên đường về, tôi hỏi một người cùng làng: - Bắn mấy người? - Chỉ có một mình Long Nhị.-Anh ta đáp. Long Nhị xúi quẩy hết mức, anh ta đã ăn năm phát súng, cho dù anh ta có năm mạng sống cũng rồi đời. Sau khi Long Nhị chết, trên đường về nhà, cổ tôi cứ lạnh toát, tôi càng nghĩ càng sợ, nếu hồi đó bố tôi và tôi không là hai đứa con hư hỏng, thì biết đâu kẻ bị xử tử hôm nay sẽ là tôi. Tôi vuốt vuốt mặt mình, lại nắn nắn bóp bóp cánh tay của mình, tất cả vẫn còn nguyên. Tôi nghĩ, kẻ đáng chết là tôi lại không chết, từ chiến trường tôi đã sống sót trở về; về đến nhà, Long Nhị lại trở thành kẻ chết thay tôi. Mồ mả nhà tôi đã chôn đúng chỗ. Tôi nhắc nhở bản thân : “Phen này phải sống cho tử tế”. Khi tôi về nhà, Gia Trâm đang bện đế giày cho tôi. Nhìn sắc mặt tôi, cô ấy giật nảy người, cứ tưởng tôi ốm. Tôi nói lại, những điều vừa nghĩ với vợ, cô ấy sợ tím tái mặt mày mồm lẩm bẩm: - Nguy hiểm quá! Sau đó tôi đã nghĩ ra, cảm thấy khỏi cần tự dọa mình, đây là số phận cả thôi. Thường nghe nói: Nạn lớn không chết tất sẽ có hạnh phúc về sau. Tôi nghĩ, nửa đời về cuối của mình sẽ mỗi ngày một khấm khá. Tôi đã nói với Gia Trân như thế. Gia Trân lấy răng cắn đứt sợi chỉ, nhìn tôi nói: - Em cũng không muốn phải có hạnh phúc gì, chỉ cầu năm nào cũng làm được cho anh một đôi giày mới. Tôi hiểu lời của vợ, cô ấy đang cầu mong chúng tôi từ nay trở đi không bao giờ phải sống xa nhau. Nhìn khuôn mặt già đi nhiều của Gia Trân, tôi cay đắng trong lòng, Gia Trân nói đúng đấy, chỉ cần người trong nhà ngày nào cũng sống bên nhau, thì chẳng bận tâm đến hạnh phúc làm gì nữa…
Ông già kể đến đây thì dừng lại. Tôi nhận ra chúng tôi đã ngồi dưới ánh nắng. Mặt trời di chuyển khiến bóng cây từ từ rời xa chúng tôi, chuyển sang chỗ khác. Ông già vặn mình mấy cái rồi mới đứng lên. Ông vỗ vỗ vào đầu gối, nói với tôi: - Toàn thân tôi đều càng ngày càng cứng, chỉ có mỗi một chỗ càng ngày càng mềm. Nghe xong, tôi tự dưng cười phá lên, nhìn vào chỗ đũng quần thõng xuống của ông già, ở đó có dính mấy sợi cỏ non. Ông già cũng cười hì hì, tỏ ra rất vui bởi tôi đã hiểu ý của ông. Sau đó ông quay người gọi con trâu: - Phú Quí! Con trâu đã lên khỏi ao nước, đang gặm cỏ non ở bờ ao. Con trâu đứng ở dưới hai cây liễu, cành liễu trên lưng trâu đã mất dáng rủ xuống, bị cong vênh đi, cọ sát trên lưng trâu, mấy chiếc lá liễu chậm chạp rơi xuống. Ông già lại gọi một tiếng: - Phú Quí! Mông con trâu giống như một hòn đá to từ từ quay về hướng ao, sau đó đầu nó chui ra khỏi cành liễu, hai con mắt tròn xoe nhìn chúng tôi, nó đủng đỉnh bước đến. Ông già bảo con trâu: - Bọn Gia Trân đã đi làm từ đời nảo đời nào, mày cũng nghĩ đủ rồi. Ta biết mày còn đói, ai bảo mày ngâm ở ao lâu thế hả? Ông già dắt trâu ra ruộng, lắp vạy cày vào vai. Ông nói với tôi: - Trâu già cũng như người già, đói bụng hãy nghĩ một lúc mới ăn được. Tôi ngồi trở lại chỗ bóng râm, lấy ba lô đệm vào lưng dựa vào gốc cây, dùng mũ lá làm quạt. Da bụng con trâu già sệ hẳn xuống hẳn một vệt dài. Khi nó kéo cày, chỗ da bụng ấy y như cái túi nước to cứ quăng đi quăng lại. Tôi lại để ý đến chỗ đũng quần thõng xuống của ông già, đũng quần của ông ấy cũng đang lắc qua lắc lại, giống da bụng con trâu lắm. Ngày hôm ấy, tôi ngồi dưới bóng cây cho đến mãi chiều tối. Tôi không đi bởi vì câu chuyện ông già kể chưa kết thúc. Mùa hè năm ấy, tôi lăng quăng đây đó trong ánh nắng và bụi đất. Tôi đã được nghe các bài ca dao và truyền thuyết, đồng thời cũng được chứng kiến nhiều chuyện khác. Tôi đã từng gặp một người già như ông Phú Quí, mắt sưng mũi tím ngồi ở bờ ruộng. Tôi hỏi ai đánh ông thế này, ông nói sang sảng: “Thằng con trai tôi nó đánh đấy”. Khi tôi hỏi cụ thể hơn vì sao nó đánh ông, thì ông cứ ấp a ấp úng nói không rõ. Tôi biết ngay đích thị ông này chim chuột vụng trộm với con dâu. Còn một buổi tối, tôi cầm đèn pin đi đường, soi thấy hai tấm thân lõa lồ ở cạnh một bờ ao, cái này đè lên cái kia. Khi tôi rọi đèn vào, thì cả hai nằm im thin thít không động đậy, chỉ có một tay đang gãi nhẹ vào đùi. Tôi vội vàng tắt đèn pin đi thẳng. Một buổi trưa vụ gặt, tôi đi vào một ngôi nhà mở toang cửa tìm nước uống; kết quả, một người đàn ông mặt quần đùi hốt ha hốt hoảng dẫn tôi ra cạnh giếng nước, rất ân cần múc cho tôi một xô nước, sau đó lại lủi vào trong nhà như một con chuột… Những chuyện tương tự như thế nhiều lắm, nhiều gần bằng những bài ca dao tôi nghe được, thế là khi tôi nhìn mảnh đất đâu đâu cũng mượt mà màu xanh này, tôi cũng rõ hơn vì sao hoa màu cây cối ở đây tốt tươi như vậy. Buổi chiều hôm đó tôi cứ ngồi nhìn ông Phú Quí cày ruộng. Ngay từ đầu tôi đã biết mình khó mà quên được người đàn ông này. Lúc ấy, trên cánh đồng ở chung quanh, tiếng nói chuyện của bà con nông dân cứ vang qua vang lại. Ồn ào nhất là trên bờ ruộng gần đó, hai người đàn ông lực lưỡng đưa thùng nước trà lên thì uống nước, một đám thanh niên ở bên vừa kêu vừa hét, họ vui vẻ bởi họ đứng ngoài cuộc. Còn chỗ ông Phú Quí ở bên này tỏ ra vắng vẻ hơn nhiều. Trong ruộng nước ở ben cạnh ông có hai người dàn bà đầu chít khăn đang cấy lúa. Họ nói chuyện về một người đàn ông tôi hoàn toàn không quen biết, người đàn ông này hình như là một người rất khỏe mạnh, có thể anh ta là người kiếm được nhiều tiền nhất trong thôn. Qua câu chuyện của họ, tôi biết anh ta làm công việc bốc vác vận chuyển ở trên tỉnh. Một người đàn bà đứng thẳng lưng lên, giơ tay đấm đấm vào lưng;tôi nghe thấy chị ta bảo: - Tiền anh ta kiếm được dùng trên người vợ một nửa, còn nửa kia dùng trên thân người đàn bà khác. Lúc này,ông Phú Quí vịn cày đi đến cạnh họ, nói chen vào: - Làm người không được quên bốn điều: Không nói lời sai, không ngủ nhầm giường, không bước nhầm ngưỡng cửa, không được sờ nhầm túi. Vịn cày đi qua rồi,ông còn quay đầu lại nói: - Anh chàng ấy đã quên điều thứ hai, ngủ nhầm giường. Hai người đàn bà cười hì hì. Tôi nhìn thấy nét mặt ông già tỏ ra đắc ý, ông quát to một tiếng với con trâu. Thấy tôi cũng cười, ông nói với tôi: - Đấy đều là những đạo lí làm người. Sau đó, chúng tôi lại ngồi dưới bóng cây. Tôi đề nghị ông tiếp tục kể về mình, ông nhìn tôi có phần cảm động, phảng phất như thể tôi đang làm việc gì đó vì ông, bởi vì thân thế của ông được người khác coi trọng nên ông tỏ ra vui vẻ.