| Chỉ mục bài viết | 
|---|
| Sen Trắng | 
| Trang 2 | 
| Tất cả các trang | 
Sen Trắng
Tác giả: Huỳnh Trung Chánh
Nếu Los Angeles, Nam California, thường được dí dỏm so sánh  như Saigon, thủ đô của Việt kiều tại Hoa Kỳ, thì thung lũng điện tử  Santa Clara, miền Bắc Cali có thể mường tượng như Cần Thơ, một thứ Tây  đô mầu mỡ, đầy ăm ắp xí nghiệp điện tử, sẵn sàng mở rộng cửa đón nhận  làn sóng thuyền nhân đang khát khao tìm chốn định cư lập nghiệp. 
Từ  tiểu bang Iowa, lạnh lẽo cô đơn, thiếu vắng đồng hương, Tùng trốn chạy  về San Jose, lòng chỉ cầu mong được sống gần gũi với cộng đồng người  Việt, được nghe tiếng mẹ đẻ, được nhìn thấy màu da vàng, và nhứt là được  ăn cơm, húp nước mắm... một cách tầm thường là hạnh phúc tuyệt vời rồi.  May mắn hơn nữa là mới tròm trèm sáu tháng học điện tử lem nhem, tiếng  Anh còn điếc lác câm ngọng, nhờ bạn bè hướng dẫn bày vẽ kê khai kinh  nghiệm, rồi giới thiệu nâng đỡ, Tùng đã "vớ" ngay được một chân chuyên  viên điện tử thơm phức tại công ty F.P.S Inc. 
Ngành điện tử đang  trên đà hưng thịnh, xí nghiệp mọc như nấm, tranh nhau thuê tuyển nhân  viên nên điều kiện tuyển dụng dễ dãi, mà việc quản trị cũng cảm thông  cởi mở. 
Do đó mà Việt kiều đùm túm dắt díu nhau về xin việc, rồi lần lần hãng xưởng nào, cũng đầy nhóc thợ Việt Nam. 
Phân  xưởng của Tùng, thợ Việt Nam chiếm đa số, ngồi đối diện chàng là Sơn,  bên phải là Vĩnh. Anh em đùm bọc chỉ dẫn nhau công việc, hàn huyên tâm  sự đều bằng tiếng mẹ đẻ..., thoải mái như đang sống tại nước nhà. 
Bữa  ăn trưa nhộn nhịp và thích thú đặc biệt, anh em lỉnh kỉnh mang theo  toàn thức ăn Việt, để chia xẻ nhau thưởng thức tài nghệ nội trợ của quí  bà. 
Hai thời nghỉ giải lao thì anh em lại tu tập nhau từng nhóm để  bàn bạc đủ mọi đề tài, từ chuyện tào lao không đầu đuôi đến chuyện  nghiêm trang đạo đức, chuyện quê cha đất tổ gầy gò thương đau ở chân  trời xa vắng... 
Tình đồng bào ruột thịt là chất liệu nuôi dưỡng Tùng giữ vững niềm tin để gắng gượng sống kiếp tha hương lạc lõng xứ người. 
Tuy  nhiên tình đồng bào đôi khi cũng khiến chàng chua xót trước cảnh "một  con sâu làm rầu nồi canh". Thật ra, không phải người Việt nào cũng giữ  tư cách và đối xử với nhau chí tình. 
Trong cộng đồng thỉnh thoảng  vẫn xuất hiện những phần tử bỉ ổi, lố bịch... gây tai tiếng chung, hoặc  tệ hơn nữa, đã không ngần ngại "đâm sau lưng" đồng bào ruột thịt. 
Tình  trạng đó lại càng tệ hại khi xí nghiệp bắt đầu xuống dốc, việc làm bấp  bênh, nhân công có thể bị sa thải bất cứ lúc nào. Viễn ảnh mất việc, mà  hậu quả có thể kéo lôi thêm nạn mất nhà cửa, mất xe cộ... khiến cho lắm  kẻ tranh đua nhau tâng công, bợ đỡ thượng cấp bằng nhiều kiểu cách ly  kỳ. Tuy nhiên, đối với phái nữ, vũ khí "cổ điển" mà hữu hiệu muôn đời  vẫn là nhan sắc mỹ nhân.
Đang cặm cụi làm việc, chợt nghe tiếng nàng  Mỹ Lý cười giỡn hinh hích với người trưởng phân xưởng trong phòng, Sơn  bực bội cằn nhằn:
- Chúng nó ngày càng lộng hành, bốc hốt công khai không biết xấu hổ là gì cả?
- Đúng là hạng "gái điếm" vậy mà khi mới vào làm việc, màu mè giả dạng gái nhà lành, trâm anh thế phiệt chớ! - Vĩnh góp ý.
Tùng  là kẻ ba phải, nghĩ rằng người đẹp tuy có phần lố lăng, nhưng dùng lời  lẽ nặng nề như hai bạn cũng hơi quá đáng, nên có ý dí dỏm đẩy đưa câu  chuyện sang hướng khác:
- Ừa! thì thân tha phương cầu thực của chúng mình cũng tròm trèm với hạng gái điếm, chớ có cao quí gì đâu?
Thấy hai bạn tròn xoe mắt trước lời phát biểu lạ lùng của mình, Tùng giải thích thêm:
-  Ngày xưa Nguyễn Du vì phải buộc lòng làm quan cho trào vua khác mà đã  tự so sánh mình là nàng Kiều, một thứ gái điếm bán thân nuôi miệng rồi.  Bây giờ bọn mình lại phải đem thân phục vụ nước ngoài, chẳng lý tưởng,  chẳng hứng thú... thì còn tệ hơn nhiều. Vậy thì nếu ví von phận mình  cũng là một hạng với kẻ bán thân nuôi miệng thì cũng không có gì là quá  đáng!
Vĩnh trẻ trung vui nhộn, thấm ý cười ngất tán rộng:
- Kể ra,  nếu hành nghề mãi dâm mình cũng thuộc vào hạng sang, thù lao rộng rãi,  vui làm mệt nghỉ, tức chửi cũng được, phong lưu chán.
- Đúng vậy!, Tùng tiếp lời, đồng bào mình trong nước và ở Đông Âu phải nai lưng ra bán thân mà có được gì đâu?
Vĩnh cười hềnh hệnh bổ túc:
-  Thì họ là thứ gái mãi dâm bị chơi lường, đã bị bè đảng tú bà bốc lột  chận tiền đầu tiền đuôi, lại bị bọn ma cô áo vàng áo đỏ rình rập kềm kẹp  khủng bố... nữa.
Ngừng một lúc lâu, để đè nén cơn đau buồn trong lòng, Vĩnh ấm ức văng tục:
-  Mẹ nó! đã bị chơi lường, ăn chận mà còn bị buộc phải hồ hởi hoan hô  "vui sướng quá! lao động vinh quang quá!". Thế mới đau chớ!
Sơn vốn  là một nhà mô phạm, nghiêm trang đạo mạo mà nay bỗng nghe hai bạn đồng  nghiệp, một già một trẻ, đua nhau đùa giai so sánh thân phận mình chung  chung với gái mãi dâm hèn hạ, đâm ra bực bội, nhăn nhó càm ràm:
- Anh Tùng cứ bày đầu cho thằng Vĩnh nói bậy không hà!
Tùng  lặng yên tủm tỉm cười nhận lỗi. Đối với chàng thì những bậc chân đạo  đức cũng có thể hiện thân hành nghề hèn hạ ti tiện, ngược lại, kẻ tồi  bại, lưu manh bon chen danh lợi cũng dễ chiếm đoạt một nghề nghiệp cao  sang, vậy thì có nghề nào đáng kính, nghề nào đáng khinh đâu? 
Do đó,  Tùng chẳng hề có mặc cảm gì với giới mãi dâm, huống chi, ấn tượng về  đóa sen trắng mà chàng đã có duyên phát hiện từ hai mươi lăm năm về  trước, vẫn chưa hề phai lạt.
Sau những giờ phút nhức đầu bởi  đống hồ sơ dầy cộm, chứa đầy những tranh luận hơn thua, Tùng lái xe lang  thang ra ngoại ô, về hướng nhà Vàm Cống, rồi ghé thăm chùa Phước Thạnh,  ngôi chùa quê xinh xắn nằm ven rạch Gòi Bé, xã Mỹ Thới. Xe vừa ngừng  trước cổng, thì dì Diệu Hạnh, đang nhổ cỏ trước sân ngẩng mặt nhìn, rồi  đon đả lên tiếng:
- A! cháu Tùng! sao lâu quá mới đến vậy cháu!
- Thưa mấy ngày nay cháu bận việc quá! Ơ! mà cháu cũng mới ăn cơm chay tại đây ba hôm trước mà đi!
- Ậy! dì có thể dành cho cháu mấy cái bánh ích nhưn đậu. Cháu mà đến trễ thì hư hết trơn hà!
Tùng  xá chào dì rồi lên chánh điện lễ Phật. Lễ Phật xong, chàng đã thấy dì  chờ sẵn dúi cho chàng hai cái bánh ích, cử chỉ đậm đà thương yêu như một  bà ngoại dành quà cho cháu nhỏ. Tùng tủm tỉm cười, bóc lá ăn ngay:
- Ngon lắm dì ạ!
Dì  cười hể hả, vui sướng trở ra sân trước tiếp tục chấp tác. Tùng đi vòng  ra đám rẫy khu vườn sau chùa tìm thầy. Hai thầy trò thường vừa săn sóc  vườn tược, vừa trò chuyện trồng cây, chiết nhánh, ươm hoa..., những mẩu  chuyện không "ăn nhập" gì đến việc tu hành, nhưng dường như lại mênh  mang đạo vị. Vừa thấy Tùng, thầy chỉ đống bắp vừa hái, rồi bảo:
- Con gom nhánh cây khô đốt lửa, nướng mớ bắp đầu mùa thưởng thức chút hương vị đồng quê đi!
- Chà! bắp ăn tại rẫy thì ngon ngọt nhứt hạng rồi! Tội nghiệp dì Diệu Hạnh quá! không biết dì có thể cạp nỗi bắp nướng không?
- Răng dì sún hết trơn thì làm sao cạp thứ nầy được!
Dì  Diệu Hạnh móm sọm không còn một cái răng, lụm cụm lắm rồi, thế nhưng dì  vẫn bền bỉ công quả, tận lực hộ trì tam bảo không biết mỏi mệt. Thân  thể già yếu, mà dì vẫn giữ được sắc thái tươi mát, mộc mạc mà hồn  nhiên..., dì tu mà dường như không cần phải cố gắng gò gẫm gì cả. Lúc  nào, dì cũng hoan hỉ đón mừng thiện tín viếng chùa nhiệt tình như bà mẹ  già dang rộng cánh tay đón những đứa con thân yêu quay trở về nhà. Tùng  lên tiếng:
- Hình ảnh của dì Diệu Hạnh thật đẹp! Con cảm giác như lúc  nào dì cũng an lạc. Đôi khi con bỗng ước mơ mình trở nên hồn nhiên chơn  chất như dì thì quí giá vô cùng!
- Đúng vậy! chính cái chơn chất, tự  nhiên, càng bình thường càng gần gũi với đạo. Ngược lại, cái vốn trí  thức: khôn khéo, so đo, suy luận thiệt hơn lại làm trở ngại việc tu  hành. Ngày xưa, bổn sư thầy thường kể câu chuyện của bà cư sĩ chùa Giác  Lâm thuở trước, để nhắc nhở chúng đệ tử tâm niệm điều đó. Vị nữ cư sĩ  tục danh là Lê Thị Tốt, vốn là người đàn bà quê mùa dốt nát, xấu xí vì  gương mặt rỗ chằng, sống với nghề gánh nước thuê tại chợ Cây Mai. Cảm ân  đức của tổ sư Giác Lâm, tức thiền sư Viên Quang, dì xin quy y rồi phát  nguyện trải thân công quả trọn kiếp. Tổ ban cho dì pháp danh là Tế Dung,  nhưng không ai chịu nhớ, người ta cứ xúm nhau xách mé gọi dì là "tư  Rỗ", mà dì cũng dễ dãi nhận chịu bí danh xấu xí đó. Tánh dì hiền lành,  chơn chất và đặc biệt rất hoan hỷ. Đối với bất cứ ai trong chúng, dì  cũng thành khẩn tôn kính là bậc thiện căn, đại trí, xứng đáng nhận sự  cúng dường phục vụ. Do đó, dì hoan hỉ nhận lãnh mọi công việc nặng nhọc,  khó khăn, hi sinh cho mọi người rảnh rang tu tập, còn dì, mặc cảm phận  mình ngu dốt, hèn kém chỉ lủi thủi công quả "bòn" chút duyên lành mà  thôi. Chùa Giác Lâm thuộc thiền tông, nhưng xét căn cơ dì tư, tổ Viên  Quang dạy dì hành trì pháp môn niệm Phật... Tuy nhiên, để tránh trường  hợp hành giả miệng niệm Phật như con két, mà tâm lại rong ruổi theo trần  cảnh, quay cuồng với tham, sân, si, mạn... không chút tương ưng với câu  niệm Phật, tổ khuyến cáo trong bốn oai nghi vẫn phải quán niệm những  bài kệ trong quyển Tì ni nhật dụng thiết yếu, như các thiền sinh. Dì tư  tối dạ, học trước quên sau không thuộc nỗi bài kệ nào, thành thử sư dặn  dì "khi đi đứng nằm ngồi, hay trong bất cứ động tác nào cũng chỉ cần  thầm nghĩ đến một niệm thiện là đủ". Lối luyện tâm sơ cơ của dì: ăn cơm  mong người người được no, mặc áo mong người được ấm, tắm rửa mong người  được mát mẻ..., có vẻ trẻ con, nhưng đối với dì tư lại có giá trị vô  song. Tánh dì chơn chất giản dị, cứ tuân lời thầy thành tâm thực hành,  không hề thắc mắc, so đo, suy luận hơn thiệt, cứ dõng mãnh tinh tấn  trong mấy mươi năm không thối chuyển, nhờ vậy tâm địa ngày càng thanh  tịnh, rồi đạt đến chỗ niệm Phật nhất tâm bất loạn mà chẳng ai ngờ. Một  hôm, trong khi đang nấu cơm, nghe tiếng nước sôi dì quán niệm mong chúng  sanh nghe được pháp mầu, thì bỗng nhiên thế giới cực lạc hiện bày, tất  cả thanh âm dì nghe: tiếng suối chảy, gió reo, chim ca cùng hòa điệu  thành những bài thuyết pháp vang lừng. Thời gian sau, biết trước giờ  tịch diệt mà dì vẫn lo hoàn tất việc cơm nước hầu hạ đại chúng, nhiên  hậu mới tắm rửa, rồi quì lạy từ tạ tổ Viên Quang, đoạn vào bếp lần chuỗi  niệm Phật mà thị tịch. Sau đó, tổ Viên Quang họp chúng tán dương đạo  hạnh của dì, khiến cho lắm người trước kia tệ bạc khinh khi dì, đã phải  dập đầu sám hối.
Câu chuyện hào hứng vừa kết thúc thì Tùng đã vội từ  giã để kịp trở về Tòa án trước giờ tan sở, hầu giải quyết kịp thời những  hồ sơ dẫn giải can phạm trong ngày. Từ ngày được bổ nhiệm giữ chức vụ  Chánh án Tòa án An Giang, Tùng mới khám phá ra là dường như chàng không  mấy phù hợp với nghề nghiệp của mình. Chàng lè phè, không câu nệ lễ nghi  hình thức, mà nay lại phải ra vẻ nghiêm nghị đạo mạo giữ gìn thật là  phiền toái. Ra ngồi xử án phải xúng xính áo thụng đen, tua cầu vai lông  thỏ... chàng đã ngao ngán lắm rồi. Đã vậy, lại còn phải gượng gạo tham  gia bao nhiêu lễ lạc, tiếp tân mà lúc nào cũng ra vẻ long trọng, đường  hoàng, cân nhắc từng lời, từng cử chỉ... bực bội vô cùng. Ngay những bữa  ăn gọi là thân hữu cũng vẫn phải dè dặt, khách sáo, màu mè... chớ đâu  được thoải mái, thong dong.
Vừa tan sở, Tòa Tỉnh đã đưa xe đến rước  Tùng dự bữa cơm thân mật do Đại Tá Tỉnh Trưởng khoản đãi. Ngồi chung  trên xe lái ra vùng ngoại ô mát mẻ, vị đầu tỉnh thân mật lên tiếng:
- Mình sẽ dùng cơm ở một địa điểm đặc biệt, thiên nhiên và thơ mộng. Tôi chắc chắn Ông Chánh án sẽ thích thú!
- Thế Đại Tá cho tổ chức tại một công viên sao?
-  Không! tại một khu vườn cây trái của tư nhân, có hồ sen thả cá vàng, có  hồ bơi dưới bóng cây râm mát, lại yên tỉnh kín đáo mà đầy đủ tiện nghi  nữa!
- Ô! như vậy có lẽ mình làm phiền lòng gia chủ quá đi!
-  Chẳng phiền hà chi đâu Ông Chánh án! đây là nơi nghỉ mát dành cho thân  hữu, vả lại chính gia chủ, thầu khoán Văn Thành vẫn thiết tha mong được  quen biết với Ông Chánh án kia mà!
Tùng thoáng giựt mình vì không ngờ  bữa cơm nhân danh thân mật dường như có hậu ý quanh co, chớ không đơn  giản bình thường nữa. Thầu khoán Văn Thành là một nhà đại doanh thương  tại tỉnh nầy, ai mà chẳng biết, và dĩ nhiên Tùng cũng phải nghe danh.  Ông ta là chủ nhân một nhà thuốc tây đồ sộ, nhưng lợi tức cơ sở thương  mãi chính thức nầy chẳng thấm tháp gì nếu so sánh mức thu hoạch vô kể  bằng lối làm ăn luồn lõi thậm thục. Lão thương gia cáo già nầy chẳng  những nắm vững được nghệ thuật “móc nối ăn chia”, mà lại biết tận dụng  nhan sắc mặn mà của hai cô con gái đang xuân sẵn sàng chiều chuộng, òn  ỉ… giới chức cao cấp trong chánh quyền, để tạo dựng nên một ưu thế vô  song trên thương trường. Thương gia muốn làm ăn suôn sẻ phải nhờ lão làm  trung gian điều đình trả giá với giới chức thẩm quyền, và giới chức  muốn liếm láp an toàn kín đáo cũng phải trông cậy lão dàn xếp. Do đó,  lão nắm trọn quyền phân phối phân bón, đường, xi măng, thuốc lá…, là  những thứ hàng đắc như tôm tươi, vừa xuất hiện đã đột ngột khan hiếm, để  rồi người ta mặc tình cắt cổ giới tiêu thụ một cách công khai, chẳng úy  kị gì cái gọi là “ủy ban vật giá tỉnh”. Bàn tay lông lá của lão cũng  bảo trợ cho đám thầu số đuôi, đám buôn lậu xì ke, ma túy…, làm ăn ồ ạt  với sự bao che của các quan trong ban bài trừ tứ đổ tường. Tùng chẳng  thích giao du với hạng người nầy, nhưng kẹt cứng đã vô tình hứa với viên  Tỉnh Trưởng, nên đành bức rức ngồi yên.
Chiếc xe lướt êm ru trên con  đường ra ngoại ô, vượt khỏi ngôi chùa Phước Thạnh quen thuộc chừng năm  trăm thước thì rẽ vào cửa ngõ rộng mở đi vào một khu vườn to lớn. Xe lăn  bánh rào rạo trên lối đi trải sỏi đá nhỏ, giữa hai hàng cây kiểng xanh  um, dẫn đến ngôi biệt thự kiến trúc tân kỳ. Tùng mê mẩn ngắm khu phong  lan sân trước, những chậu hoa kiều diễm, kiêu kỳ quí giá đong đưa khoe  sắc. Khách vừa bước xuống xe thì đã thấy hai mỹ nhân lộng lẫy với loại  trang phục sang trọng tíu tít đón rước.
- Xin giới thiệu Ông Chánh án: cô Mộng Kiều và cô Mộng Ngọc, con cưng của bác Văn Thành!, viên Tỉnh Trưởng lịch sự lên tiếng.
- Chào hai anh! xin lỗi hôm nay ba bị chóng mặt, tụi em xin thay mặt ba tiếp đãi hai anh vậy!
Thế rồi hai cô thật tự nhiên, cô chị choàng vai viên Tỉnh Trưởng, cô em níu tay Tùng dìu đưa vào nhà.
Tùng  và vị đầu tỉnh tuy vồn vã thân mật nhau, nhưng đó chỉ là lề lối khách  sáo xã giao, đâu có thâm tình để đưa nhau vào chỗ thơ mộng lả lướt như  thế nầy. Tùng ngượng ngập cứng người, khiến viên Tỉnh Trưởng phải lên  tiếng trấn an:
- Ở đây chỉ có chúng mình thôi, xin Ông Chánh án tự nhiên đừng ngại. Nè Mộng Ngọc! chăm sóc cưng chiều bạn của anh nhé!
- Như để khuyến khích Tùng nhập cuộc, vị đầu tỉnh lơi lả nựng mông nàng Mộng Kiều, cười rúc rích, rồi nháy mắt với Tùng.
Thật  ra Tùng cũng bàng hoàng ngây ngất trước thân thể nồng nàn khêu gợi của  Mộng Ngọc, nhưng chàng chủ trương “kẻ làm đĩ chính phương cũng còn chừa  một phương lấy chồng”, chàng có thể ăn chơi xả láng nơi nào cũng được,  nhưng ở tỉnh nầy thì quả thật không dám.
- Ơ! anh dùng loại rượu chi? để nguyên chất hay pha soda?, nàng Mộng Ngọc thỏ thẻ.
- Ô! tửu lượng tôi kém cõi lắm! cô cho tôi chai xá xị được rồi!
- Uống rượu mạnh ăn ngon cơm anh ạ! say thì đã có em săn sóc ngại gì! nhà có sẵn hai phòng đầy đủ tiện nghi mà!
- Nè hai anh!, nàng Mộng Kiều lên tiếng, em đề nghị mở nhạc nhảy vài bản cho yêu đời nhé!
- Xin lỗi! Tôi nhà quê nên vụ đó mù tịt!, Tùng lại ngượng ngập giải thích.
Thấy  mình cứ trả lời tréo ngoe làm mất cuộc vui người khác, vả lại, Tùng  cũng muốn tránh làm kỳ đà cản mũi ông bạn đang khao khát vui thú lả lướt  mộng mơ với người đẹp, nên Tùng viện cớ thích nhìn cây lá thiên nhiên,  để bước ra ngoài thong dong rảo bước trong khu vườn tươi mát. Vườn gồm  đủ loại cây ăn trái, phân chia vị trí cân xứng theo nhu cầu trang trí  hơn là để thu hái trái, nên rất trang nhã, khoảng khoát. Tùng đi tắt  ngang hàng mận hồng đào, nhìn chùm trái bầu bỉnh nổi gân đỏ đong đưa  theo gió, rồi mon men đi đến cái hồ sen hình bầu dục. Chàng ngồi dưới  góc dừa, rễ đâm tua tủa, thảnh thơi lặng ngắm những đóa sen thanh khiết,  rồi lơ đảng theo dõi đàn cá chép vàng đỏ tung tăng bơi lội.
- Anh  lại mơ mộng cô nào rồi? Mình vào nhà thủy tạ bóng mát thì mới thanh nhã  anh ạ!, Mộng Ngọc lẽo đẽo bám theo sau chàng, nũng nịu lên tiếng.