watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
07:38:5126/04/2025
Kho tàng truyện
Chỉ mục bài viết
Rắn Hồng
Trang 2
Tất cả các trang
Trang 1 trong tổng số 2

Rắn Hồng

Tác giả: Nhã Ca

Tháng Bẩy năm Quí Mùi (1883), đời vua Hiệp Hòa, hải quân Pháp do tướng Courbet và Toàn quyền Harmand chỉ huy tiến đánh cửa Thuận An. Trong ba ngày, từ 15 tới 18 tháng 7, thành Trấn Hải vỡ. Quan trấn thành là Lê Sỹ cùng Lê Chuẩn tử trận. Hai ông Lâm Hoành và Trần Thúc Nhẫn thì nhẩy sông tự tử.
Trận chiến thất thủ Trấn Hải Đài đưa tới việc triều đình Huế phải ký hòa ước Quí Mùi 23 tháng 7, dâng trọn nước Nam cho người Pháp, chỉ được sử sách ghi sơ lược như trên. Riêng ngư dân Cửa Thuận, hơn nửa thế kỷ sau, còn bảo nhau: đêm đêm, nhìn lên Trấn Hải Đài, vẫn thấy quan trấn thành Lê Sỹ cưỡi một con "hồng xà" đôn đốc ba quân xáp chiến với giặc trên bờ thành.
Sao ông Lê Sỹ không cưỡi ngựa hồng mà lại cưỡi rắn hồng?
Cô bé Mi Ki, từng sống thời thơ ấu ngay trong khu Trấn Hải Đài, nói:
"Đâu thấy con ngựa nào. Chỉ toàn rắn là rắn. Chính mệ Ủy cũng gọi rắn là ngựa hồng của mệ."
Mệ Ủy từng là "bạn già" của cô bé. Thời ông Lê Sỹ đã có mệ. Thời Pháp, thời Nhật, thời Việt Minh lên rồi lính Tây trở lại, đều có mệ cả. Có hồi cô bé còn nghe người ta nói mệ Uỷ chính là rắn, con rắn biết lột vỏ sống đời, vì mệ sống lâu cả trăm tuổi.
...
Nhà mệ Ủy nằm sát phía bờ ngoài của thành lũy bao quanh Trấn Hải Đài. Ngay cạnh nhà, có cây bồ đề mọc chòi lên bờ thành. Cây cũng cổ thụ lắm, rễ đâm từ trên thân xuống từng chùm, quấn quít, quằn quại, nhìn xa như một ổ rắn khổng lồ.
Căn nhà tuy cũ kỹ, thấp, tối, nhưng có những cột gỗ lim chạm trổ hình rồng phượng. Cột to bằng cả vòng tay người lớn ôm. Bên này câu liễn, bên kia câu đối sơn son thiếp vàng. Bàn thờ lớn, chiếm hết căn giữa, bày chi chít bài vị, trùm một loạt khăn đỏ khăn vàng, lâu đời rồi, cái sờn cái rách. Nhà cửa tối tăm nhưng loại này khi xưa, cũng là hạng giàu có, quan gia chi đây.
Mệ Ủy sống với một người con trai cũng đã già, tóc râu điểm muối tiêu, nhưng dáng người vạm vỡ, mặt vuông, hồng hào, có nét uy nghiêm mà cũng có nét phúc hậu. Có năm, đoàn hát bội về diễn tích Quan Công, dân làng đi coi, chê: Để cho anh Ủy đóng Quan Công mới là hợp. Người con trai tên Ủy, không thấy có vợ con, người trong làng lớn nhỏ gì cũng gọi là anh Ủy, còn bà già, gọi là mệ Ủy. Có phải là dân các Mệ trong nội ra không? Liên hệ gì giòng dõi hoàng tộc mà kêu bằng mệ. Đâu ai biết!
Làng Thuận An là một dải đất bao quanh phá, sông, biển. Cả vùng đất ẩm, chỉ duy nhất một ngọn đồi Trấn Hải Đài cao ráo. Chim chóc cũng nhiều, làm tổ trên các cành cao cành thấp, trứng chim cun cút, thứ chim lủi trong bụi như gà, không bay cao. Các loài chim, trứng chim là thức ăn bỗ dưỡng cho rắn. Thôi thì đủ loại rắn, cắc kè, thằn lằn, làm như hàng trăm ngàn loài bò sát đều dồn lên khu đồi Trấn Hải.
Suốt cả con đường rộng dẫn tới làng, hai bên đều đất đồi hoang soai soải, chỉ duy nhứt có căn nhà của mệ Ủy, không hiểu sao lại lọt vào đây.
Dân làng đồn rằng, ông Lê Sĩ chết vào giờ thiêng nên linh lắm. Dân chài ra biển từ nửa khuya, nhìn lên, thấy trên cửa thành ông Lê Sĩ cưỡi con hồng xà đốc quân xáp chiến, hai bên quân lính đánh nhau, còn nghe cả tiếng binh khí va chạm chát chát. Đó là những đoàn quân đã thành ma, đến giờ thiêng thì sống lại. Có thể vì ông Lê Sĩ cưỡi con Hồng Xà, nên dân làng không dám giết rắn, nhất là rắn trong cổ thành. Nhưng mệ Ủy thì khác. Dân làng kháo nhau là bà ta ăn thịt rắn mà sống!
Mệ Ủy là khắc tinh của loài rắn. Không biết từ bao lâu và bằng cách nào, mệ Ủy bắt rất nhiều rắn, nhốt vào những lồng kín, giao hàng cho một số ghe chài từ các nơi ghé nhận.
Người ta đồn, mệ Ủy đã bắt được một con hồng xà, mình thon, nhỏ mà dài hơn thước, trên lưng, chạy từ cổ tới đuôi một lằn dài đỏ hồng như lửa than cháy sáng. Đúng là loại rắn quí ông Lê Sỹ cưỡi thay chiến mã. Vậy mà mệ Uỷ vẫn lột da, bằm thịt, nấu nướng bằng được. Dọn lên, hai mẹ con cùng ăn. Mệ Uỷ ăn thì không sao, nhưng anh Ủy ăn xong, trợn trắng mắt, ngã vật xuống. Lúc cứu tỉnh thì anh méo miệng, đơ lưỡi, ú ớ mà không phát ra tiếng người được nữa. Càng ngày người anh càng rút nhỏ lại, và nằm liệt một chỗ.
Từ đó, vào những đêm trăng sáng, có bóng người cao lêu khêu, trắng toát, xõa tóc cầm chiếc thanh la đi quanh bờ thành mà gõ. Đó là mệ Ủy, bà gõ thanh la cho con hồng xà đực có vồng lửa than hồng trên lưng phải ngóc đầu lên, bò ra cho bà bắt. Mệ Ủy quả quyết hồng xà có cặp. Máu thịt con mái trong người anh Uỷ đang... động đực. Chỉ cần lấy máu con hồng xà đực là Mệ sẽ cứu được anh Ủy. Rắn thì vẫn vô số đó. Nhưng không thấy con hồng xà đực. Phải làm cho nó bà trở nên điên loạn, giữa đêm trăng bà thường kêu la:
"Ngựa hồng ta đâu. Bớ ngựa hồng..."
Vậy là con rắn hồng đã biến thành ngựa hồng. Chiếc thanh la cùng gào lên với mệ Uỷ. Nhưng đêm thì vẫn đui vẫn điếc.
. . .
Trấn Hải Đài nằm trên ngọn đồi cao, phía trước nhìn xuống cái vịnh nhỏ, phía sau, đồi trườn soai soải dẫn tới một khúc sông cụt. Tiếp nữa là bãi cát và rừng đương xanh rì, nối liền hai làng Thái Dương Thượng, Thái Dương Hạ, xuống tận làng Eo, làng Hà, làng Trài, chạy dọc song song với con đê cao ngăn sóng mùa bão lụt. Qua con đê, là bãi cát trắng phau, soải dài đón những đợt sóng liếm láp ngày đêm.

Pháp đi, Nhật tới. Trấn Hải Đài không còn là đồn binh mà thành Sở Công Chánh. Có hồi chiến tranh lộn xộn, sở công chánh rút về thành phố Huế. Cả một Trấn Hải Đài mênh mông, chỉ còn để lại gia đình một nhân viên ở lại trông coi. Ông chồng được gọi là thầy Thông, vì ông ta làm thông ngôn thời Pháp, cả thời Nhật, và là một trắc họa viên của Sở Công Chánh. Ông bà Thông có hai con, một trai, một gái. Mi Ki chính là đứa con gái, hồi đó mới chừng năm sáu tuổi. Cả nhà, chỉ có bốn mạng kể trên, hàng ngày sống trong khu thành Trấn Hải đầy rắn.
Cả làng không có lấy một trường tiểu học, đa số người già, có chút đỉnh chữ Nôm cũng không dùng làm gì giữa lúc giao thời này. Cho nên đơn trương, khai sanh, khai tử, các thứ giấy cho thủ tục hành chánh, dân làng Thuận An thời đó đều nhờ thầy Thông giúp. Dứt liên lạc với Sở một thời gian lâu, gia đình thầy Thông vẫn sống khá sung túc. Giúp dân làng nay giấy mai tờ, tuy thầy Thông không chịu nhận thù lao, nhưng dân làng biết ơn lắm. Đi chài về có con cá ngon, đem "kỉnh" thầy Thông, lưới được mớ tôm cá còn nhảy nhảy, cũng nhớ tới ơn nghĩa.
Đất đai trong Trấn Hải Đài mênh mông, có khu dùng trồng bắp, có khu trồng khoai lang, khoai mì, rau cải. Quanh bờ thành, ngoài những cổ thụ rậm ri, còn chen vào những cây ăn trái, nhãn, thanh trà, ổi, cây hồng quân nên hoa lợi quanh năm.
Vậy là trong bờ thành, chỉ có gia đình thầy Thông. Ngoài thành, chỉ có nhà Mệ Ủy. Năm con bé Mi Ki lên sáu thì mệ Ủy đã ngót chín mươi.
Sống trong Trấn Hải Đài, con bé gần như cách biệt với thế giới bên ngoài. Bước ra khỏi nhà, là con bé thấy rắn. Có rắn hổ, rắn mai, rắn đeo kính, rắn học trò, rắn lồng, rắn màu xanh, màu vàng, màu lục. Leo lên lầu, mở cửa ra phía sau có một rừng thông, xuống bực cấp, đôi khi trợt chân vì đạp phải một con rắn đang khoanh tròn, ngóc đầu nhìn. Leo lên một ngáng cây muốn coi trộm tổ chim, đã thấy tổ chim còn toàn vỏ và lúc nhúc trong ổ không biết bao nhiêu rắn con.
Có bữa, rắn khoanh tròn chắn trước cửa, không ai dám đi ra, người nhìn rắn, rắn nhìn người, có khi rắn bò đi, có khi nằm ỳ tỉnh queo. Riết rồi người với rắn như đã quen hơi nhau, con bé Mi Ki bắt cả rắn con chơi, cho đeo qua vòng tay, nựng nịu, trìu mến. Những con rắn con màu hồng, non nẻo, miệng nhỏ chút xíu chưa biết mổ, cũng quấn quít hơi người. Lần nào con bé đùa giỡn với rắn con chán cũng thả xuống bậc thang cho rắn con nằm. Quay đi một lát, trở lại không thấy, rắn mẹ đã tha con về ổ. Người không hại rắn, rắn không thù người. Con bé đạp nhằm rắn hoài nhưng chưa bao giờ bị rắn cắn.
Ngược lại, có một vài người dân làng bạo gan, men theo đường hào dưới thành, bám rễ cây leo lên trộm cắt tranh, hái trái, đào củ, có người đã bị rắn cắn mà bỏ mạng.
Con đường dẫn ra cửa thành hai bên trồng toàn cây bạc hà cao vút, lúp xúp phía dưới là hai hàng cây sả. Sả vừa bán có tiền, mọc như cỏ dại, không phải chăm sóc mà còn kỵ rắn, coi như là một ranh giới đường đi giữa người với rắn không bên nào phạm bên nào. Thiệt vậy, đi trên con đường dẫn ra cửa Đài, con bé Mi Ki chưa bao giờ thấy một con rắn nào nằm chặn đường như ở các nơi khác.
Con bé thường một mình cố chạy cho hết con đường, tới hai cánh cửa sắt. Đu lên cửa, có thể nhìn thấy con đường dài dẫn tới làng. Dưới đó, có người ta, có nhà cửa, có chợ, có đình làng, và trẻ con, nhiều trẻ con lắm. Con bé cứ đu trên cánh cửa, nhìn ra mà thòm thèm, mơ ước. Đồ chơi của con bé là cái bong bóng lợn không bao giờ dám thổi căng vì sợ nứt bể và da rắn lột lượm ở bờ bụi, khi rắn lột da để lại, con bé hay quấn vài vòng nơi cổ và thả lòng thòng trước ngực.
Thình lình một vật gì trơn ướt, lành lạnh quấn sau cổ con bé. Rắn. Con bé la lên, vùng vẫy. Vòng da rắn lột bị bứt ra, rơi nằm ụ dưới đất. Con bé ngoái cổ lại. Không phải rắn mà là một bà già. Chính là mệ Ủy.
Chưa bao giờ con bé mặt đối mặt với bà già này. Ba má thường dặn khi gặp mệ Ủy thì phải tránh đi. Con bé hỏi tại sao, người lớn nói tại vì bà điên, nguy hiểm lắm.
Bà có dễ sợ như người lớn nói không? Có, coi mặt mũi bà nhăn nhúm, tóc tai rũ rượi mà cặp mắt dài, nhỏ, nhìn hiêng hiếng, coi giống như mắt một loài rắn nào mà con bé đã gặp qua. Móng tay mệ để dài, cong quắp lại như móng con diều hâu mà anh trai của con bé đang tập vẽ, hay vẽ trên giấy.
Có nên bỏ chạy không? Chạy cũng không kịp nữa. Bà già điên đã đứng sát bên cạnh, đôi mắt nhìn con bé như loài rắn biết thôi miên người. Con bé đơ người lại, muốn kêu, muốn la, làm như cái lưỡi bị trụt rồi, không kêu ra tiếng.
"Đừng sợ. Mệ không mần chi con mô."
Chết cha. Bàn tay có những ngón nhọn hoắt đưa ra, có móc vô cổ con bé không? Con bé nhảy xuống khỏi bậc cửa đang đu. Mấy cái móng tay lùa nhẹ lên mái tóc tơ mịn, đỏ hoe vì dang nắng của con bé.
"Con dễ thương chi lạ. Có phải con Mi Ki không?"
Con bé mặt tái xanh như tàu lá chuối, cố gắng gật đầu. Bà già lấy trong túi áo ra mấy cái kẹo đập gói trong miếng giấy súc đen điu.
"Mệ cho con nì."
Ba dặn, không được lấy gì của ai cho nếu không được ba má cho phép. Con bé thích thứ kẹo đập này lắm, nó làm bằng đường với bột, trộn gừng. Ngậm trong miệng lâu tan lắm, vừa ngọt vừa thơm mùi gừng quyện với mùi đường vừa cháy tới, ngon rít cả răng. Bà già điên vẫn nhét vô tay con bé.
"Cầm đi, mệ thương."
Lưỡi con bé đã trở lại bình thường, nó nói:
"Con sợ ba má con đập chết. Ba má con chưa gật đầu, con không dám mô."
Mấy cái móng tay nhọn lại lùa vô mái tóc con bé.
"Con giỏi. Mệ cho thì lấy, mệ cho ba má con không la mô. Ba má con nể mệ lắm, con hỏi coi thì biết."
Mi Ki có biết rồi. Ba bị bịnh suyển, người ta nói ăn cháo nấu hột đủ đủ tía một vài lần thì hết. Ba nói mệ Ủy nói không dứt hết được, nếu mệ Ủy không cho thêm một thứ lá gì đó. Ba nghe theo, bệnh suyển dứt hẳn.
Không biết học nghề thuốc hồi nào mà mệ Ủy có tài chữa bệnh. Con nít sài đẹn, ghẻ lở, người lớn bị đinh râu hay mụt nhọt, hoặc bịnh thúi tai, thúi mũi, mệ Ủy chỉ có một thứ thuốc là thứ bột màu xám tro. Ghẻ lở thì xức, đau bụng thì hòa với nước uống, thúi tai thì bỏ thuốc vô tờ giấy bản quấn như loa kèn, một đầu nhọn nhét vô lỗ tai, một đầu miệng loa thì đốt, khói theo ống loa chui vô trong lỗ tai. Anh con bé bị đau má chàm bàm, mệ Ủy cũng thoa thứ bột đó lên giấy, quấn lại và đốt xông lỗ tai, bịnh lành lẹ lắm. Người ta nói thứ thuốc của mệ Ủy chỉ là mấy cái vỏ rắn lột xác bỏ lại, đem sao chín, tán thành bột cùng với những lọai lá gì không ai biết. Mệ cũng có một thứ thuốc gia truyền gì đó, bằng lá, giã nhỏ xoa vào người, nên mới bắt rắn dễ dàng.
Có người nói mệ Ủy có tà trong người, biết thôi miên rắn. Nhưng từ ngày anh Ủy bị nằm liệt giường, mệ Ủy không thèm chữa bịnh cho ai nữa. Hồi trước chưa bị bịnh nằm một chỗ, anh Ủy cũng hay vô Đài giúp ba má đốn cái cây, sửa khoảng tường vôi bị vỡ... Hồi đó, mệ Ủy cũng chưa thấy dễ sợ như bây giờ.
Nhưng cửa khóa, móc cài phía trong, làm sao người đàn bà này vào bên trong được. Con bé thắc mắc mà không dám hỏi.
Tối hôm đó con bé đem hai cái kẹo đập đưa cho má coi. Hỏi ai cho, con bé nói là của mệ Ủy. Má nói, hai kẹo này ăn được, còn nếu mệ cho thứ khác thì phải hỏi người lớn, chớ không tự tiện ăn.
Nhưng mấy lần sau, cũng chỉ là kẹo đập. Con bé thấy không cần hỏi má nữa, coi như đã được phép. Nó ăn ngon lành. Đôi khi bà già điên còn lấy lá dừa thắt cho con bé những con vật như con châu chấu, con bọ dừa, con chim, và thắt được cả con rắn dài chừng hai gang tay rất đẹp. Mấy thứ này chỉ chơi, không ăn, con bé cũng không phải hỏi má.
Một già một trẻ, dần dà thân thiết. Người ngoài cửa thành, người trong cửa thành, chơi với nhau như đôi bạn.
"Bữa nay mình chơi chi."
"Đánh thẻ. Nẻ ô làng".

Bữa nào, mệ Ủy vô được trong cửa Đài bằng ngả nào không biết thì kéo nhau lên trên cửa thành. Chỗ này có bàn thờ ông Tướng giữ thành, có khoảng đất lát gạch bằng phẳng, đẹp đẽ thì chơi "căn cù u chịu, thượng hạ cấm câu, bể đầu ráng chịu." Mệ Ủy cũng chưa bể đầu, con bé Miki cũng không. Nhưng căn rớt xuống hào thì mất nhiều lắm. Lâu lâu, con bé thấy mệ Ủy, cũng không biết xuống dưới bằng cách nào, lượm đem lên trả lại một đống để chơi tiếp.
Nhưng rồi, không chỉ một già một trẻ bày trò chơi để qua thì giờ, mà dần dà, mụ Ủy rủ con bé đi lòng vòng quanh thành. Thường ngày, khi chơi đùa với con bé, mệ Uỷ hiền lành, có khi cười đùa tung tăng giống con bé. Nhưng có một lần mệ làm nó kinh hoảng.
Lần đó đang đi, mệ Uỷ dưa con bé tới cửa cái hầm dê. Đây là nơi con bé sợ nhất. Ba có lần kể khi quân Pháp chiếm thành, quân Nam và trai tráng trong làng bị lùa hết vào cái hầm dê đó để giết. Máu từ trong hầm chẩy ra đọng vũng ở cửa, lụt tới mắt cá chân. Chỉ nghe vậy thôi là con bé hết hồn, chưa bao giờ dám bén mảng tới đó.
Lôi con bé lại hầm dê, chẳng thèm chơi đùa gì, mệ Uỷ ngồi xụp xuống ngay khoảnh đất bên cửa hầm. Mệ ngồi lâu lắm, bất động. Rồi bỗng mệ quì lết trên nền đất, hướng vào trong hầm lạy lấy lạy để. Vừa lạy vừa la:
"Tui lạy ôn. Tui lạy ôn. Nó thật là con của ôn mà. Ôn sống khôn thác thiêng phù hộ tui cứu nó, chỉ đường cho tui đi bắt con hồng xà. Tui lạy ôn trăm lạy, ngàn lạy...
Mệ Uỷ lạy mãi, lạy mãi. Bỗng thình lình mệ bật dậy, túm lấy cổ tay con bé lôi nó chạy như bay. Khi con bé được mệ Uỷ buông ra, cả hai đã trở về cây bồ đề gần nhà mệ Uỷ. Nhìn gốc cổ thụ rễ cây lòng thòng, quấn quít như ổ rắn, mệ Uỷ lầm bầm:
"Ở đây. Nhứt định nó ở đây."
Con bé sợ hãi lùi ra xa mà ngó. Còn mệ Ủy, mệ lao tới gốc cây, rút trong người ra một cây sắt nhọn, mệ đâm loạn xạ vào mớ rễ cây quấn chùm chằng chịt. Mệ già rồi mà sao mạnh quá vậy, mệ đâm hoài, đâm không biết mệt.
"Rắn hồng. Rắn hồng. Rắn hồng..."
Rắn hồng ở đâu? Con bé chỉ thấy những rễ cây màu xám đất buông xuống từ thân cây, từ các cành nhánh lơ lửng trên cao. Không biết ở bên trong những chùm rễ kia, có ổ rắn nào không? Con bé sợ quá, chỉ muốn quay đầu chạy.
Sau này, nghe con bé kể lại chuyện hôm ấy, ba trầm ngâm giây lát rồi bảo:
"Mụ lạy "ông dôn" đó. Dôn mụ là Cai binh của quan trấn thành, bị Tây lùa giết trong hầm dê. Nghe kể hồi nớ mụ còn tuổi đôi hai, đang mang thai anh Uỷ."
"Ông dôn" tiếng địa phương có nghĩa là ông chồng.
Từ mùa thu năm đó, con bé không còn ở gần mệ Ủy nữa. Tháng Tám 45, Việt Minh về làng. Uỷ Ban Cách Mạng tiếp thu Trấn Hải Đài làm trụ sở. Gia đình thầy Thông bị đuổi ra ngoài, đi ở thuê một căn nhà nhỏ gần cầu Thương Cuộc, cây cầu gẫy bỏ không nằm ở khúc sông sâu nhất. Nhe nói nhiều cô gái thất tình hay chửa hoang đã nhảy sông tự tử ở đây, biến thành ma ra, mỗi đêm trăng thường hiện lên xõa tóc ngồi khóc.
Cầu nằm gần con đường làng, có cây đa rất lớn, xung quanh chất đầy bình vôi cũ. Các bà già ăn trầu cau, khi chết, con cháu thường đem bình vôi của người quá cố đặt dưới cây đa dâng tặng thần cây.
Nhờ cách mạng Mùa Thu, con bé Mi Ki không còn bị quản thúc chặt chẽ với cái thế giới đầy rắn rít bên trong Trấn Hải Đài. Nhà ra ngoài ở, con bé phải vào đội thiếu nhi, phải đi học hát, học múa, cả ngày, cả đêm, vui lắm.
Bọn con nít như Mi Ki được tập họp thành đội thiếu nhi cứu quốc. Thanh niên phụ nữ được hội họp suốt đêm, nhảy sôn-đố-mì. Tối nào dân làng cũng tụ tập ở bãi đất trống của khu chợ gần Phá Tam Giang để coi Hội Phụ Nữ diễn kịch, kịch nào cũng riễu mấy thằng Tây thực dân khát máu.

Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 227
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com