Email của Hạnh từ Sài-Gòn gửi lên “Chúng em cần gặp anh và có chuyện cần anh giúp. Mike muốn tìm kiếm một người quê quán ở Đông Hà nhưng chúng em không biết gì về địa phương này. Nếu được anh đi cùng với chúng em thì công việc sẽ dễ dàng hơn.” Tôi trả lời “Tìm người ở Đông Hà? Anh cũng không biết nhiều về tỉnh miền Trung xa xôi này. Tháng tới anh sẽ xuống Sài-Gòn, và sẽ tìm gặp các em nói chuyện nhiều hơn.” Tôi nghĩ là tôi có thể giúp Hạnh được vì niên học đã gần tàn. Tôi thông báo cho Thắng biết là tôi sẽ về Mỹ nghỉ hè với gia-đình và sẽ trở lại Đà-Lạt lại tiếp tục dạy niên khoá tới. Tôi thấy hơi bâng khuâng, nhớ Trinh, nhớ California, muốn trở về sớm nhưng đồng thời cũng quyến luyến đám sinh viên đã cùng tôi quây quần mấy tháng vừa qua. Gần ngày chia tay tôi nói với các em “Đây là bài thi mãn khoá, các em là hãy dùng tất cả những gì các em học được từ lớp vi-tính do tôi hướng dẫn, viết cho tôi một lá thư bằng ‘MS Word’, nói cho tôi biết cảm nghĩ của các em về lớp học này, gửi cho tôi bằng email, và đính kèm một tấm hình để tôi dù mai này dù không gặp lại tôi cũng vẫn luôn luôn nhớ tới các em. Tuy chỉ chấm điểm kỹ thuật, nhưng tôi cũng rất mong biết được cảm tưởng của các em về khoá học này vì quả thực tôi đã mang hết chân tình, yêu người và yêu thương cuộc đời, về đây với các em.” Nhiều sinh viên như lơ đãng, không để ý nhiều đến những gì tôi nói có lẽ còn đang lo lắng cho những ngày sắp tới, nhưng cũng có vài cặp mắt long lanh như muốn khóc. Tôi thấy Tùng dụi mắt, Thuỷ cúi đầu như suy nghĩ, và Loan hướng mắt nhìn xa xôi. Một tuần sau tôi nhận được các email "nộp bài". Nhiều lá thư làm tôi xốn xang, nhưng cũng có lá thư rất ngắn, làm tôi thật bùi ngùi “Em ghi tên học môn vi-tính vì lý-do rất giản dị. Công việc nào bây giờ người ta cũng đòi hỏi Anh văn và vi-tính. Trước đây em tưởng như mất lòng tin với học đường, không ngờ em tìm lại được chút tình thầy trò đúng nghĩa. Em không biết nói gì hơn là cám ơn thầy.” Khi chia tay ngày cuối tôi cố vui đùa “Các em biết địa chỉ email của tôi rồi nên dù ở góc biển chân trời nào các em có gọi là tôi nghe thấy liền. Với lại tôi sẽ trở về đây vì Đà Lạt là quê hương thứ hai của tôi. Căn nhà các em thường tới thăm tôi sẽ còn đó, cửa lúc nào cũng rộng mở. Loan này, và Thuỷ nữa, đừng khóc nhè! Vài tháng nữa tôi sẽ trở lại, rất mong nghe tin vui!” Tôi không mang theo gì nhiều xuống Sài Gòn gặp Hạnh, ngoài vài bộ quần áo và chiếc laptop chứa đầy email. Tôi muốn đọc lại từng chữ, từng dòng để biết chắc rằng những việc tôi đang làm có mang lại kết quả và ý-nghĩa tôi mong muốn. Tôi tới nhà Hạnh khi trời đã tối. Hạnh và Mike hình như đang rất nóng lòng gặp tôi, và như có vẻ buồn. Mike xách chiếc valise nhỏ vào căn phòng trống dành cho tôi trong lúc Hạnh kéo tôi vào phòng khách, hỏi tôi ngay khi tôi vừa ngồi xuống chiếc sofa dài: “Anh mệt không?” Tôi lắc đầu “Không em. Tải từ phi-trường về nhà em cũng gần.” Hạnh như trách móc “Đáng lẽ anh phải báo trước cho em đi đón.” Tôi cười “Anh đi khắp thế giới và chẳng có ai đưa đón bao giờ. Em và Mike có chuyện gì buồn phải không.” Hạnh gật đầu “Louis, ba của Mike, mới vừa phát hiện ung thư phổi, và chỉ sống được vài tháng nữa là nhiều. Mike khóc quá trời, muốn trở về Mỹ ngay, nhưng Louis còn nhờ Mike đi kiếm một người. Để em đưa thư của Louis cho anh xem.” Hạnh chạy vào nhà trong, trở ra trao cho tôi lon bia lạnh và lá thư đánh máy rõ ràng “Louis nhờ em dịch ra tiếng Việt vì thư này không phải chỉ viết cho Mike mà còn cho bà Nguyễn Thị Bé mà Louis nhờ chúng ta đi tìm. Anh cứ đọc thư rồi sẽ rõ.” Lá thư khá dài, tôi đọc chậm trải, vì nhiều chỗ Louis hoặc đã quên, hoặc quá xúc động nên không được rõ ràng. “Mike, ba biết là con sẽ đau buồn và có thể sẽ không mấy hài lòng vì ba sẽ nói cho con câu chuyện mà ba đã dấu diếm mãi trong lòng. Ba cũng xin lỗi mẹ con nữa, dù bà đã qua đời và đang được Chúa che chở. Mike, con không phải là đứa con độc nhất của ba. Con còn một đứa em mà ba chưa bao giờ biết mặt. Ba không rõ nó là trai hay gái, còn sống hay đã chết, và mẹ nó, người đàn bà Việt Nam đau khổ đó bây giờ ra sao. Ba đã hèn nhát, dấu diếm sự thật cho tới lúc này, lúc ba không còn sống được bao lâu. Năm 1972 ba được gửi qua Nam. Như con biết gia đình chúng ta là gia đình quân đội. Ông nội của con và ba đều là thuỷ quân lục chiến, và cả con nữa, con cũng đã phục vụ vài năm như y-sĩ Hải Quân trước khi giải ngũ, nên ba rất hãnh diện thi hành nghĩa vụ dù rằng phải bỏ con và mẹ con lại quê nhà. Ba đóng ở một nơi gọi là Đông Hà, một tỉnh địa đầu của miền Nam V.N. Lúc đó cuộc chiến đã gần tàn nhưng vẫn còn rất khốc liệt, ba không muốn nói nhiều về thảm cảnh chiến tranh, vì hơn ai hết con đã hiểu nên con và vợ con đang làm những việc để hàn gắn vết thương này. Trong những ngày cô đơn và bấp bênh với cái chết đó ba đã gặp được một người đàn bà VN, cô Nguyễn Thị Bé, khiến đời sống của ba được an ủi rất nhiều. Đó là một cô gái quê mùa, trôi dạt về thành phố để kiếm sống và ba đã gặp Bé khi cô ta vào làm lao công quét dọn phòng ăn trong căn cứ. Người đàn bà bé nhỏ ấy khóc thút thít vì bị đám lính xa nhà trêu chọc, và ba làm "người hùng" giúp đỡ cô ta. Có lẽ là số phận, nên dù rằng ba rất yêu thương mẹ con, ba đã chung sống với người đàn bà ấy như vợ chồng. Bé là một người đàn bà hiền dịu và nhẫn nhục, khác hẳn những cô gái bán bar mà con đã được biết qua báo chí, phim ảnh mà người ta dùng để bôi nhọ dân tộc thiếu may mắn này. Bé cúi đầu chịu sự khinh rẽ của đồng hương vì Bé cần sự chu cấp nhỏ nhoi của ba để có thể bao bọc một đại gia đình trong cơn biến loạn. Có lẽ Bé không yêu ba như mẹ con yêu ba, nhưng cô ta đã săn sóc và phục tùng ba như một ông chủ đầy uy quyền, dù rằng ba chỉ là một Trung-Sĩ quèn. Đó là những ngày rất hạnh phúc của đời ba. Năm 1973 hiệp định đình chiến ký kết, ba được điều động khỏi Việt Nam gấp rút, nhanh đến độ mà ba không có thì giờ lo liệu được gì cho Bé trước khi bị quân cảnh bắt lên xe đưa về trại để lên máy bay về nước. Lúc bấy giờ Bé đang mang thai, mang dòng máu của ba. Bé chạy theo xe quân cảnh, bàn tay bé nhỏ đưa ra như muốn níu kéo lấy ba, còn ba chỉ biết gục mặt, ngăn dòng nước mắt. Lẽ dĩ nhiên là ba không bao giờ gặp lại Bé từ ngày đó. Đứa con của ba không biết là gái hay trai, và nếu còn sống nay cũng đã hơn 30 tuổi. Khi xưa ba chung sống với Bé trong một căn nhà nhỏ gần ngã ba quốc lộ 1 và quốc lộ 9. Nhà trong ngõ hẻm không có số nên sau này dù muốn viết thư ba cũng không thể làm được gì. Mike, ba sắp chết. Ba hối hận và chua xót vô cùng. Đây là tấm hình độc nhất ba còn giữ được, con hảy thay ba đi tìm Bé, tìm em con, nói lời xin lỗi dùm ba. Con đã thành nhân, đã là một y-sĩ có tấm lòng, con cũng không cần gì một chút của cãi còn lại của ba. Con hãy tìm em con, giúp đỡ nó và nói cho nó biết là ba để lại cho nó tất cả những gì ba có, như một sự đền bù. Con cố giúp ba nghe. Hillary: Con dịch lá thư này ra tiếng Việt, cả lá thư sau này nữa. Nếu Chúa hỗ trợ khiến chồng con tìm được em nó thì thư này có thể giúp được em con hiểu lòng ba và tha thứ cho ba phần nào. Bé yêu dấu, Nếu em đọc được thư này xin em hãy tha thứ cho tôi. Vì sao tôi không trở lại tìm em được tôi đã viết rất rõ ràng trong thư gửi cho con trai của tôi rồi. Nó sẽ đọc cho em nghe, và nó sẽ thay tôi nói lời xin lỗi với em. Có lẽ tôi sẽ không bao giờ gặp lại em, nhưng tôi vẫn giữ trong lòng hình bóng hiền dịu của em. Và tôi lúc nào cũng nhớ những ngày êm đềm tôi sống với em ở Đông Hà. Điều đau xót nhất của tôi là tôi không được biết đến con của chúng ta. Đứa bé hai dòng máu trong một đất nước tang thương chắc chắn là phải chịu nhiều đau đớn, và đó là phần lỗi của tôi. Dù có làm bất cứ điều gì đi chăng nữa tôi cũng không thể đền bù cho sự bất hạnh này. Tôi chỉ biết cầu nguyện xin chúa cứu rỗi linh hồn tôi khi tôi lìa đời. Tôi nhờ con trai tôi đi tìm em, và đi tìm em nó. Mike bây giờ là y-sĩ đang phục vụ người nghèo tại Việt Nam. Xin em và con của chúng ta hãy cho Mike cơ hội để nó có thể làm dùm cho cha nó ý-nguyện nhỏ nhoi trước khi cha nó từ giã cõi đời. Gần đây đêm đêm tôi vẫn nằm mơ thấy em. Tôi như thấy em trong căn phòng nhỏ, cắm cúi lau chùi dọn dẹp, thỉnh thoảng ngu ngơ mỉm cười với tôi dù em hầu như không hiểu tôi nói gì. Và nhiều lúc tôi cũng không hiểu em nói gì, nhưng ánh mắt đó, nụ cười đó, tôi biết là em muốn tôi che chở em cho trọn cuộc đời. Tôi đã không làm được việc ấy, và tôi đã muốn chết khi nhìn em chạy theo xe quân cảnh ngày định mệnh đó năm nào. Tôi rất thương nhớ em, nhất là từ ngày vợ tôi qua đời, nhưng bây giờ thì tất cả đều đã muộn. Tôi chỉ xin em tha thứ cho tôi một lần và xin để cho Mike thay tôi lo lắng cho em, cho con của chúng ta. Vĩnh biệt em. Louis Corbin” Tôi đặt lá thư xuống bàn, cầm tấm hình polaroid đã sờn nát lên ngắm nghía. Đó là một cô gái trên 25 tuổi, mái tóc dài buông soả, không son phấn, mặc áo bà ba trong nhà. Cô không cười, đôi mắt mở lớn và và như có chút hoang mang. Tôi nghĩ thầm, nếu còn sống bà Nguyễn Thị Bé có lẽ đã gần 60 tuổi. Mike đã ra ngồi cạnh vợ, nhìn tôi chăm chú “You read it?” Tôi gật đầu “Tôi đọc rồi. Chuyện buồn quá. Xin chia buồn với Mike.” Mike không nói được tiếng Việt, nhưng từ ngày lấy Hạnh và sang làm việc tại Việt Nam Mike đã cố gắng rất nhiều nên có thể hiểu những câu nói thông thường, tuy rằng không thể phát âm. Hạnh hỏi tôi “Mai chúng mình ra ngoài Trung được không. Để em gọi mướn xe.” Tôi can “Đường xa lắm. Chúng mình nên đi máy bay ra Huế, mướn xe tại đó đi Đông Hà cho đỡ mệt vì Đông Hà chỉ cách Huế vài giờ lái xe.” Hạnh đồng ý “Sáng mai em sẽ gọi văn phòng du-lịch để họ sắp xếp cho chúng mình.” Quay sang Mike Hạnh hỏi “Did you understand what Duy just said? Mike hiểu anh Duy nói gì không?” Mike gật đầu, nước mắt lưng tròng “I did, thank you, Duy.” Hạnh ôm đầu Mike “Đừng buồn nữa anh. Chúng mình đi nghỉ. Có thể mai phải lên đường sớm. Good night, anh Duy.”
Chúng tôi tới Huế và check-in khách sạn Morin xong trời cũng đã về chiều và quyết định sáng hôm sau sẽ đi Đông Hà dù rằng Mike rất nóng lòng muốn đi ngay. Buổi tối khi chúng tôi ra khỏi phòng ăn Hạnh muốn đi dạo vì Hạnh chưa tới Huế bao giờ, nhưng Mike xin lỗi trở về phòng trước để điện thoại về Mỹ. Tôi và Hạnh đi bộ trên đường Lê Lợi dọc theo bờ sông Hương. Hạnh hỏi tôi “Anh quen ai ở Huế không.” Tôi lắc đầu “Xưa thì có, bây giờ thì không!” “Bạn?” Tôi gật đầu “Người con gái của một mối tình xưa tên là Sơn Ca. Khi đó anh còn rất trẻ, mới ra trường được độ hai năm, và trước khi anh biết chị Vy của Hạnh một thời gian khá dài.” Hạnh có vẻ buồn khi tôi nhắc tới Vy “Tội nghiệp chị em. Một mối tình si!” “Duyên số mà Hạnh. Anh với Sơn Ca cũng không có duyên. Cô ta là sinh viên mỹ-thuật tại Huế, về Đà Nẳng thăm nhà ở Đò Xu và tình cờ gặp anh, yêu anh, và sau đó buồn vì xa anh!” “Tại sao? Anh không yêu cô ta?” Tôi thở dài “Cũng không hẳn là như vậy. Anh yêu Sơn Ca, nhưng không yêu đến độ dám hy-sinh tất cả. Như anh nói, lúc đó anh còn rất trẻ, vẫn còn đang đi biển, và những chuyến đi xa rất lâu mới trở về. Anh cũng còn đang khắc khoải về thân phận và sự nghiệp của mình nên anh không thể hứa hẹn gì, trong khi Sơn Ca muốn tiến xa hơn, nên đành xa nhau.” Tôi nhìn dòng sông nước chảy lửng lờ, nói tiếp “Nhưng dù sao thì Sơn Ca và anh cũng đã có với nhau một thời rất là lãng mạn và êm đềm. Có những bức thư tình viết bằng tờ lịch khổ lớn, những buổi chiều chờ nhau trên bến sông, và những lần tiễn đưa mang bao nhớ thương.” Hạnh hỏi thêm “Sơn Ca là tên thật hay là anh muốn dấu tên người yêu cũ? Và cuối cùng cô ta ra sao?” “Sơn Ca là bút hiệu cô ta dùng vẽ tranh và để viết thư cho anh. Không, anh không nghĩ là có gì phải dấu diếm. Sau này Sơn Ca lấy chồng tốt nghiệp quốc gia hành-chánh, và người chồng có biết về mối tình cũ sôi nổi nhưng trong sáng của Sơn Ca. Lúc đó anh đã đi xa, hình như Guam. Anh cũng thấy mừng vì Sơn Ca có một đời sống đầy đủ và yên lành hơn là những gì anh có thể mang lại cho cô ta. Anh có gặp lại Sơn Ca một lần ở Sài Gòn, và nếu bây giờ gặp lại có thể bọn anh sẽ là bạn rất thân vì cả Sơn Ca và anh đã qua cái thời sôi nổi trước đây.” Hạnh cười nhẹ “Hạnh hỏi thật anh nhé, anh có cả thẩy bao nhiêu mối tình?” Tôi cũng cười “Không nhiều, nhưng ai lại đếm bao giờ.” Hạnh trêu tôi “Vì có đếm hết mười đầu ngón tay vẫn chưa đủ. Phải không?” Tôi lắc đầu lảng tránh “Em mỏi chân chưa?” “Chưa, nhưng mình nên quay về. Mike chắc đã gọi được Louis. Bây giờ trời đã sáng ở Oklahoma.” Chúng tôi đi dọc bờ sông Hương trở về Morin. Hạnh than “Em không có lấy một phiêu lưu tình cảm. Em yêu quí Mike, nhưng không có những niềm hân hoan, sôi nổi như anh và Sơn Ca.” Tôi nói “Điều cần thiết là em hạnh phúc.” Hạnh gật đầu “Em rất hạnh phúc, cũng như anh và chị Trinh, nhất là từ ngày em gặp lại anh.”[1] Tôi chia tay Hạnh ở hành lang nhưng không trở về phòng mà tìm vào bar rượu, gọi một chai bia ngồi trầm ngâm. Tôi nghĩ tới những người đàn bà mà tôi đã gặp gỡ trong đời, tới những ngày tháng vui buồn đã qua, và ngậm ngùi ước gì mình không làm buồn lòng những người mình đã yêu. Tôi không còn hút thuốc nữa nhưng khi có một người ngoại quốc ngồi cạnh lịch sự giơ bao thuốc mời tôi đã nhận lời và gọi thêm một chai bia. Đêm đã khuya lắm tôi mới ngất ngưởng trở về phòng mình, cứ như xưa, khì tôi còn lang thang ở những bến bờ xa lạ.
Khoảng hơn 10 giờ sáng chúng tôi ra tới Đông Hà. Trời nóng và ẩm ướt, tôi yêu cầu tài xế ngừng tại một quán nước gần ngã ba quốc lộ 9, nói Hạnh và Mike chờ ở đó để tôi và chú Quản, người tài xế lái chiếc xe du lịch chúng tôi mướn tại Huế, đi dò la tìm tin tức bà Nguyễn Thị Bé. Quản đề nghị là chúng tôi tìm những quán hay sạp, có người bán hàng đứng tuổi, mua mấy món lặt vặt như đồ kỷ niệm, khăn lau mặt ướp lạnh hoặc nước uống để lấy cớ hỏi thăm. Gần trưa, khi mà chiếc túi xách tay của tôi không còn chỗ chứa những món lặt vặt thì chúng tôi gặp già Vịnh. Ông ta ngắm nhìn tấm hình, cười toe toét “Tui biết bà này. Đây là Bé Lai hồi còn trẻ.” Tôi ngắt lời “Chúng tôi tìm bà Bé chứ không phải bà Lai.” Vịnh giơ tay lên trời “Biết rồi! Bà ấy tên Bé nhưng có con lai nên người ta gọi là Bé Lai.” Tôi thấy tim mình đập nhanh “Vậy sao? Bà Bé có con lai? Trai hay gái.” Già Vịnh nhìn tôi như ngạc nhiên “Mấy ông không biết gì sao? Con gái. Đẹp dễ sợ”, rồi như có gì vui thích già Vịnh cười hi hi “Còn bà già nó thì già khú đế rồi. Không làm ăn gì được!” Tôi bật cười “Chắc là ông quen biết bà Bé?” Già Vịnh gật đầu “Tụi tui lối xóm mấy chục năm. Hồi nó lấy ‘thằng Mỹ tui tiếc quá cỡ. Chừng ‘thằng Mỹ về nước, tui ‘dê nó hoài mà không được. Mấy ông tìm Bé Lai có chuyện chi?”