| Chỉ mục bài viết | 
|---|
| Phố Hội Của Tôi | 
| Trang 2 | 
| Tất cả các trang | 
Phố Hội Của Tôi
Tác giả: Phạm thành Châu
Khoảng  giữa thập niên 50, tôi bắt đầu đến trường. Tôi học tiểu học ở đình Ông  Voi, trên đường Lê Lợi, cách bờ sông Hội An, đường Bạch Đằng ba bốn trăm  mét. Trường gồm ba lớp học, thẳng góc nhau, cộng với phần ngai thờ với  nghi trượng, đối liễn… là phần chính của đình tạo thành bốn mặt kín,  giữa là sân nhỏ, lát đá, mỗi bề khoảng vài chục mét, được xem là sân  chơi. Phần ngai thờ luôn luôn đóng cửa, khi có tế lễ mới mở ra và chúng  tôi được nghỉ học. Tưởng tượng đó là một ngôi đình, bị xây bít phía  trước để làm lớp học, chỉ chừa lại hai lối đi nhỏ hai bên hông. Trước  trường là một sân đất rất rộng. Giờ ra chơi, học trò ra sân trước đùa  nghịch, chạy nhảy cho được tự do, thoải mái. Trên sân rộng nầy có tượng  hai con voi bằng vôi hay xi măng gì đó, to cỡ con voi con. Bọn nhóc tụi  tôi, nghịch phải biết, nhưng chẳng đứa nào dám héo lánh đến gần tượng  hai Ông Voi. Sợ ngài vật sặc máu. Chúng tôi cứ đồn nhau rằng trước đây,  có thằng chơi nghịch, leo lên tượng Ông Voi, ngài vật xuống nằm dưới  bụng Ông Voi, và ngài đè ói máu suýt chết.
Tôi còn nhớ được vài  chuyện về các bạn học của tôi thời tiểu học. Năm đầu tiên vào học lớp  năm, tôi ốm yếu và còn rất khờ khạo, trong khi tụi bạn thì vui vẻ, nhanh  nhẹn hơn nhiều. Một lần ra chơi, trời lại mưa, cả bọn đứng vơ vẩn trước  hiên nhìn mưa rơi. Tôi đang đứng một mình thì một thằng từ phía sau,  nhảy phóc lên lưng tôi, bắt tôi cõng đi. Đó là thằng nghịch nhất lớp,  chuyên ăn hiếp những đứa khác. Tôi bị nó ngồi trên lưng, nặng muốn xính  vính, đi sao nổi! Tôi bèn cúi xuống thật thấp, như người ta tập thể dục,  vậy là nó lộn mèo qua đầu tôi, té cái ịch về phía trước, nằm ngay trong  vũng nước. Từ đó nó không bao giờ động đến tôi. Hình như nó tên Răng.  Nó có tài bắn bi thần sầu. Có đứa để hòn bi sau cục gạch nhỏ, khó thấy  được, vậy mà không biết cách nào, chỉ nghe cách một tiếng là hòn bi nó  đã nằm vào chỗ hòn bi đối phương. Hòn bi kia thì văng tuốt đằng xa. Đứa  nào bắn bi với nó thì coi như nạp mạng. Trước khi bắn bi, nó đòi kiểm  soát bi đối phương. Bi phải mới tinh, không trầy, nó mới chịu chơi. Mỗi  lần nó đổ mấy bị bi của nó ra đếm thì tụi tôi chỉ biết lé mắt mà trầm  trồ. Thời đó đã có loại “bi chai,” làm bằng thủy tinh. Ở Mỹ, hiện nay  cũng thấy bày bán loại “bi chai” đó, không biết để làm gì, vì trẻ con Mỹ  đâu có biết chơi bắn bi?! Có điều lạ là từ đó đến nay, đã hơn năm mươi  năm mà hòn bi chai vẫn vậy. Vẫn cỡ bằng lóng tay, trong suốt, giữa ruột  có nhân như trái khế màu xanh, vàng, đỏ rất đẹp. Lúc đó tôi bắn bi rất  dở nên không dám chơi ăn bi, chỉ có mấy viên mới tinh, rất đẹp, thỉnh  thoảng đem ra ngắm rồi cất vào hộc bàn.
Lớp  tôi còn một thằng bạn học nữa, tên thằng Thương. Học “dốt tổ mẹ” nhưng  lại có tài chùi xe đạp của thầy Cam láng bóng. Trường Ông Voi bấy giờ có  thầy Trợ Cam. Đứa nào đã học thầy Cam là coi như suốt thời tiểu học chỉ  học thầy Cam thôi. Thầy dạy từ lớp năm, sang năm, học trò của thầy lên  lớp tư, thầy cũng dạy lớp tư, cũng bọn đệ tử đó, cứ thế lên đến lớp  nhất, khi bọn đệ tử lên trung học, thầy bắt đầu lại lớp năm với lũ học  trò mới. Vì thế thầy biết rõ gia cảnh, tính tình, tư chất từng đứa một.  Thầy Cam có chiếc xe đạp Bờ Rô (Peugeot), khi đến trường thầy dựng ở cửa  lớp. Đến giờ trả bài (học trò lên đọc lại bài học hôm qua) thầy gọi  thằng Thương đi chùi xe, vì thầy biết nhà nó nghèo, đi học về, nó phải  phụ cha mẹ làm việc rất vất vả, tối đến, mệt mỏi quá, nó ngủ khò, làm  một giấc đến sáng, dậy ôm vở đi học. Thằng Thương có bộ đồ nghề chùi xe,  lúc nào cũng thủ sẵn trong túi quần. Đến giờ trả bài, nó ra cửa chùi xe  cho thầy. Có bữa thầy quên ra lịnh, nó vẫn cứ tự động ra chùi xe. Tôi  ngồi gần cửa, thấy nó chùi rất lành nghề, nhanh nhẹn như mấy đứa đánh  giày, nhưng rắc rối hơn. Trước hết nó dùng cái que xủi đất dính phía  trong dè xe, rồi lại dùng cây cọ quét đất cát còn dính trên bánh xe. Nó  quây bánh xe nghe tách tách nho nhỏ vừa rà cái cọ trên bánh xe cho thật  sạch rồi mới moi nùi giẻ dưới yên xe ra lau dè xe. Chỗ nào còn dính dơ,  nó “phịt” nước miếng vào đó và chùi là sạch ngay. Riêng bộ căm xe, nó  lấy miếng giấy nhám từ túi quần ra, kẹp cái căm giữa miếng giấy và vuốt  lên vuốt xuống, chỉ một lát là cây căm xe láng bóng như mới. Những buổi  chiều thầy đạp xe trên đường phố, ánh mặt trời chiếu những cái căm xe  lấp la lấp lánh như có gắn kim cương. Không ai hiểu sao thầy Cam lúc nào  xe cũng mới tinh? Có lẽ thời tiểu học, chỉ thằng Thương là sướng nhất,  vì không bao giờ phải trả bài. Riêng tôi thì ở trường hợp đặc biệt. Tôi  và một vài đứa nữa có tài nhớ bài ngay khi chép xong trên bảng đen.  Thường mỗi khi có bài học mới thầy viết lên bảng cho học trò chép vào  vở. Tôi vừa chép bài vừa lẩm nhẩm đọc. Thầy viết câu nào là tôi thuộc  câu đó. Thầy viết vừa xong, tôi cũng vừa thuộc hết cả bài. Chờ đến khi  cả lớp chép xong, thầy hỏi “Đứa nào lên đọc bài?” là tôi xung phong lên  đọc ngay, thầy cho điểm, thế là hôm sau tôi khỏi phải lên trả bài vì bài  đó tôi đã có điểm rồi. Có thằng Nguyễn Hồng Hà cũng thuộc bài kiểu đó.  Năm nào tôi với nó cũng tranh nhau phần thưởng nhất nhì. Hai đứa tôi đều  mồ côi cha mà trường chỉ cấp một học bổng nên chúng tôi chia hai học  bổng đó, mỗi đứa một nửa.
Dưới tiểu học đứa nào  cũng ham chơi, nên trừ bọn con gái và vài đứa con nhà gia giáo, đa số,  giỏi lắm thuộc lõm bõm. Cho nên giờ trả bài là giờ đau tim của bọn nhác  học. Hễ thầy giở sổ điểm ra là không khí căng thẳng bao trùm cả lớp. Đứa  thuộc thì nhơn nhơn chường mặt cho thầy thấy, hi vọng thầy kêu lên kiếm  điểm. Đứa không thuộc tìm cách núp sau lưng bạn, cứ tưởng mình không  thấy thầy tất thầy cũng không thấy mình. Nhưng trông bộ dạng núp lén, cổ  rụt, lưng khòm, cố sao cho mình càng nhỏ lại càng tốt, thầy biết ngay.  Bị kêu lên thì mặt mũi xanh lè, ấp a ấp úng, nhớ được câu đầu là cùng,  vậy là thầy cho hột vịt lại bắt đứng sang bên cạnh chờ thầy phạt chứ  chưa được về chỗ ngồi. Sau khi xong vụ trả bài thầy mới quay sang làm  việc với mấy cậu ăn hột vịt lộn. Thầy Cam có lối phạt học trò rất kỳ lạ,  xưa nay chưa ai làm. Thầy bắt học trò nhảy cóc trong cái sân vuông nhỏ ở  giữa các lớp, thành thử các lớp khác cũng thấy, cái đó mới đáng mắc cỡ.  Mấy đứa bị phạt ngồi chồm hỗm một dọc, hai tay chống xuống đất và nhảy  như con cóc. Cả đàn cóc cứ thế nhảy vòng quanh sân nhỏ từ năm đến mười  vòng. Bấy giờ lớp tôi có anh chàng, không biết mấy tuổi mà to lớn như  người lớn, anh ta nhảy cóc rất tài, chỉ phóc mấy cái là xong một vòng.  Anh ta cứ qua mặt bọn nhóc, giống như đua xe hơi mà có một chiếc chạy  với tốc độ gấp hai các xe khác, cứ vù vù qua mặt đối thủ. Khoảng mươi  phút là anh ta thi hành xong, đứng lên mặt vẫn không đổi sắc trong khi  bọn kia cứ lệch bệch mãi vẫn chưa xong. Nhảy vài vòng đã có đứa làm như  bò bốn chân chứ không nhảy!
Thầy Cam còn một hình  phạt nữa, cũng không giống ai. Thầy bắt những đứa không thuộc bài đứng  thành vòng tròn, rồi đứa đứng sau kí đầu thằng đứng trước, thằng đứng  trước kí đầu thằng đứng trước mình, cứ thế, cho đến khi thầy bảo thôi  mới ngưng. Vì hễ kí nhau nhẹ, thầy bắt kí mãi. Có đứa nào ghét thằng  đứng trước mình thì cứ nghiến răng nện một phát vào đầu hắn, hắn không  quay ra sau trả thù được nên cũng ra sức nện thằng trước mặt dù thực tâm  đâu có oán thù gì nhau. Vậy là thằng bị kí đau lại chơi thằng đứng  trước một phát xính vính, cứ thế, giáp một vòng, đến ngay thằng gây ra  chuyện máu lửa. Đúng là vòng “luân hồi”!
Thầy Cam  rất sùng đạo Phật, thầy thường lên chùa tụng kinh. Nhà thầy cũng có bàn  thờ Phật. Giờ thủ công, có khi thầy bắt học trò vót đũa, thầy lựa những  đũa đẹp đem lên chùa. Đến gần Tết, thầy bắt làm những cái vòng giống  như vành nón, nhưng đều nhau, đứa thì làm những cây cọc nhỏ như chiếc  đũa nhưng dài hơn. Thầy đem lên chùa làm cọc cho mấy chậu bông kiểng.  Bông cúc, bông thược dược…
Trường Ông Voi có thầy  hiệu trưởng người Bắc di cư. Thầy đọc chính tả, học trò viết trật bậy  cả. Rượu thầy đọc thành riệu, hươu thành hiêu… Khó nhất là dấu phết thầy  đọc là phảy. Ví dụ: “Các em đi học phải ăn mặc sạch sẽ, đến trường đúng  giờ” Học trò viết thành “…phải đến trường đúng giờ.” Trong trường có  ông phu trường tên Cửu. Mỗi khi đến giờ ra chơi hay hết buổi học thầy  hiệu trưởng kêu lên “Ông Kiểu, Ông Kiểu, cho tiếng kỏng!” (đánh kẻng, gõ  mạnh vào một miếng sắt lớn thay cho đánh trống).Nghe câu đó là chúng  tôi thở phào nhẹ nhỏm, xếp sách vở. Cô thầy coi bộ cũng vui lây, nhưng  làm nghiêm.
Thời tôi học tiểu học còn có thầy  hiệu trưởng trường nam tiễu học, lúc trước ở Chùa Bà Mụ, sau dời xuống  gần trường trung học Trần Quí Cáp. Thầy hiệu trưởng tên Lê Tự Tháo. Lúc  đó còn Đệ Nhất Cộng Hòa, học trò phải hát bài Suy Tôn Ngô TổngThống, có  câu “Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống. Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng  Thống muôn năm.” Bọn học trò đến câu đó hát “Học sinh trường nam nhớ ơn  ông Lê Tự Tháo. Ông Lê Tự Tháo, Ông Lê Tự Tháo muôn năm.” Tôi không học  trường đó nhưng nghe bọn bạn thường hát nghêu ngao như vậy, bây giờ vẫn  còn nhớ. Trí óc trẻ con như trang giấy trắng, dính một vết nhỏ là không  bao giờ phai mờ! 
Một buổi sáng chủ nhật, có đứa  phải đến nhà thầy Tháo nộp sổ điểm hay làm gì đó. Hắn rủ, không đứa nào  dám đi theo. Tôi không học trường của thầy Tháo nên tôi đâu ngán. Tôi  theo hắn đến nhà thầy. Thấy tôi, thầy chỉ mặt bảo “Mầy đi học, đứng ít  ra cũng hạng mười trở lên.” Lúc tiểu học thì tôi có đứng nhất lớp thật,  nhưng lên trung học, có khi tôi phải thi lên lớp vì “đút vở bụi tre”  (trốn học) nhiều quá. Vì thời tiểu học tôi không phải học bài ra rả như  mấy đứa khác nên lên trung học tôi quen thói lười biếng, bị đội sổ (đứng  hạng bét) hoài. Chỉ đến năm đệ nhị và đệ nhất, tôi sợ thi tú tài rớt  mới chịu khó gạo bài mà thôi. Nhưng tôi có khiếu làm thầy tướng số. Nhớ  thời đi sĩ quan Thủ Đức, các sĩ quan huấn luyện, hễ ra bãi tập, là gọi  tôi đến xem chỉ tay, chữ ký, trong khi bọn bạn cứ bò lết, xung phong,  đội hình tác chiến, phục kích, phản phục kích… hò hét, chạy nhảy phờ  người. 
Trở lại thời tiểu học, tôi còn có một  thằng bạn nữa, nó tên Nguyễn Ngọc Thích. Lên lớp nhất là nó nghỉ học vì  ba nó là lính tử trận, nhà đông anh em, nó là con lớn phải nghỉ học để  đi bán cà rem. Nó chở hai bên xe đạp hai bình cà rem, sáng sớm lên tiệm  nước đá Thái Sơn lãnh cà rem, đạp về vùng quê bán, chiều về. Có những  buổi chiều, tôi lên nhà nó chơi, nó đem cà rem ế ra cho tôi ăn. Nó nhỏ  mà rất “hoang,” tôi kém nó vài tuổi nhưng coi nó như đại huynh. Nó là  tên đầu têu làm ô nhiễm tâm hồn trong trắng của những thằng còn học lớp  nhất như tụi tôi. Nghĩa là nó dạy tụi tôi “mê gái” và “chọc gái”! Nó tả  cô con gái tiệm nước đá Thái Sơn, tên cô Kín, người Tàu, rất đẹp. Tụi  tôi đến đấy, thấy quả thật cô đẹp như Lý Lệ Hoa, nữ tài tử Hồng Kông,  trong phim “Ánh Sáng Đô Thành.” Từ đó hễ có đồng nào là chúng tôi rủ  nhau đến tiệm Thái Sơn, chờ cô Kín ra trông hàng là vào, cả bọn, có khi  chỉ mua một cây kem thôi. Thằng Thích còn chỉ cho chúng tôi một cô khác,  cũng người Tàu, con chủ tiệm tạp hóa Vạn Hòa, cũng đẹp lắm. Hắn rủ tụi  tôi, buổi tối đến trước tiệm Vạn Hòa, ngồi xuống lề đường, phía đối  diện, chờ cô ta ra trông hàng để ngắm. Một lần hắn bảo cả bọn theo hắn  vô tiệm để mua hàng. Bốn năm đứa chúng tôi theo hắn một cách long trọng,  giống như khách sộp. Hắn đi trước, đến bảo cô ta “Bán cho tôi một sợi  giây” Cô ta hỏi “Giây đờn hả?” Hắn nói “Dây lưng!” Rồi phóng chạy mất  tiêu, trong lúc tụi tôi đứng ngớ ra một lúc mới chen nhau chạy “thoát  thân.” Từ đó tôi không bao giờ dám đi ngang qua tiệm Vạn Hòa. Cho đến  mấy năm sau, tôi đi thử, liếc vào tiệm, thấy cô ta không thèm nhìn tôi,  tôi mới yên trí là cô ta đã quên tôi rồi.
Lúc  nhỏ, khoảng trên mười tuổi mà tôi còn nhớ những người và sự việc kỳ lạ,  đối với tôi. Trước chợ Hội An có chùa Ông, trong thờ tượng Quan Công,  mặt đỏ, hai bên có hai tượng đứng hầu là tượng Châu Thương, ốm nhách,  tướng dữ dằn và tượng Quan Bình hiền lành hơn. Tôi rất sợ mấy tượng nầy,  không dám nhìn, chỉ ngày lễ của người Tàu, đông người tôi mới dám vào  ngắm tượng mấy con ngựa và đao kiếm bằng gỗ để dưới ngai thờ. Trước chùa  có mái hiên, là chỗ hành nghề của mấy ông thầy bói. Họ mang kiếng đen,  ốm và vẻ mặt buồn bã, có lẽ ế khách và đói bụng. Ngày lễ, người ta xin  xăm, đem ra đọc thầy nghe, nhờ thầy đoán, lúc đó thầy mới có tiền. Thỉnh  thoảng cũng có người đến hỏi thầy về chuyện gia đạo. Tôi với mấy thằng  bạn “mất dạy” đứng phía xa kêu lên “Cầu gia đạo, cạo da đầu” mà không sợ  vì biết các thầy không làm gì được chúng tôi. Nhưng hễ đi một mình, tôi  làm bộ hiền lành, lân la đứng nhìn thầy gieo quẻ. Thầy thảy hai đồng xu  xuống một cái dĩa, nghe lách cách nho nhỏ, rồi thầy mò mẫm tìm hai đồng  xu trong dĩa, lấy ngón tay miết trên đồng xu để biết chẵn, lẻ. Thầy lại  gieo nữa, cứ thế vài ba lần thầy mới phán cho thân chủ quẻ ứng ra sao.  Tôi nghe thầy nói rất trôi chảy, như đã thuộc bài trước. Giọng thầy khề  khà nhưng nghiêm trang. Lúc đầu toàn những lời dọa dẫm khiến thân chủ sợ  hãi, sau đó thầy mới bày phương cách để trừ tai họa. Thân chủ thường là  các bà lớn tuổi, người quê mùa, kính cẩn nghe lời thầy phán. Khi năn nỉ  thầy điều gì phải kèm theo tiền để thầy “cải mệnh trời” mà cứu nhân độ  thế. Tôi đứng nhìn và phục thầy quá! Không hiểu làm sao thầy biết được  gia cảnh của thân chủ mà phán chính xác đến độ thân chủ vừa phục vừa sợ…  Có một lần, tôi thấy một thầy bói mù đi tiểu. Thầy lần theo vách bức  tường trước chùa Ông, mà đi. Đến chỗ góc tường của chùa, có lẽ thầy  “đoán” là bụi cây hay đường hẻm, nên thầy vạch chim ra. Thầy không biết  rằng, vách tường đó lại nằm trên một đường khác, ngay trước chợ, càng  đông người hơn nữa. Lúc đó có mấy cô nữ sinh đi học về. Các cô nghiêng  nón che mặt. Dĩ nhiên phải thấy cái gì mới nghiêng nón chứ! 
Ngồi  chung với các thầy có một ông ăn xin. Thực ra ông ta không xin, ai cho  gì ăn nấy. Ông ta để tóc dài, quần áo tả tơi, trông giống mấy kiếm khách  trong phim Nhật “Giặc Nữ Đa Tình” đang chiếu lúc bấy giờ. Rạp chiếu  phim là cái nhà ngang, phía sau chùa Ông, ngăn ra để làm chỗ chiếu phim.  Ông ăn xin nầy để móng tay dài, cũng vài phân tây. Ông ta ngồi im, bó  gối, cú rũ, không buồn không vui. Ai thấy tội nghiệp, bỏ tiền vào người  ông (trên đùi), ông ta cũng không nói tiếng nào. Nhưng đến chiều, ông ta  gom tất cả tiền người ta cho, đem lên nhà bưu điện, gần Chùa Cầu, bỏ  tiền đó vào thùng thư! 
Còn một ông nữa, cũng  tàng tàng, nhưng có gia đình chăm sóc, nuôi nấng, ăn mặc sạch sẽ, lịch  sự thường đi lang thang suốt ngày trên đường phố. Ông ta cứ lặng lẽ đi,  miệng lẩm bẩm tiếng Tây. Người ta bảo ông “cuồng chữ.” Ông có một tật lạ  khiến tôi thường đi theo sau để xem. Hễ thấy ai đi giữa đường một mình,  ông ta chạy tới thật nhanh và nhảy phóc qua đầu người ta như trong phim  kiếm hiệp, khiến người đó thất kinh hồn vía! 
Hội  An bấy giờ còn có một nhân vật nữa là bà Lợi Điên. Bà ta còn trẻ,  khoảng trên ba mươi. Bà ta cầm một cành cây, vừa đi vừa lầu bầu một  mình, đôi khi nổi điên lên bà ta rượt đánh người đi đường, nhất là đàn  ông, miệng chửi mắng, rồi đứng khóc “Sao anh bỏ em? Để em bơ vơ. Em nhớ  anh!…” Người ta bảo bà ta thất tình. Nghe nói là có một cậu học trò  nghèo, cha mẹ bà ta gả bà cho cậu ta còn nuôi nấng tử tế để cậu ta đi  học, sau gửi cậu qua Pháp học tiếp. Khi học thành tài cậu ta ở luôn bên  Pháp, lấy vợ Pháp, không chịu về Việt Nam nữa, bà ta thất tình thành  người điên. Ít lâu sau nghe nói bà ta được đem gửi ra một căn nhà hoang  gần chùa Chúc Thánh, vùng quê, cách Hội An vài cây số, để bà ta được  nghe tiếng chuông mõ mà yên tĩnh tâm thần. Thế là trong những ngày nghỉ  học, chúng tôi có thêm một thú vui nữa, là ra chùa Chúc Thánh chọc ghẹo  bà Lợi Điên. Chúng tôi đứng từ xa kêu lên “Bà Lợi Điên! Bà Lợi Điên!” Bà  ta đuổi đánh. Chúng tôi vừa chạy vừa cười vui. Có khi gọi mãi mà bà ta  không rượt đuổi, chúng tôi từ từ đến gần hơn. Miệng vẫn kêu “Bà Lợi  Điên! Bà Lợi Điên!” mà tinh thần rất căng thẳng và hồi hộp. Thế là thình  lình bà ta vùng đứng lên, tay cầm roi rượt đánh. Những lần như thế  chúng tôi chạy không kịp thở vì gần quá lại bất ngờ nữa. Nhưng như thế  mới vui.
Trong thời gian ở tại ngôi nhà hoang, bà  ta có một bà già săn sóc, lo cơm nước. Thế rồi một chuyện xảy ra. Có  một anh lính ba trợn nào đó, tối nào cũng đến với bà Lợi Điên và tỉ tê  “Anh là chồng em đây. Anh về với em…” … và bà Lợi Điên có chửa. Nghe nói  sau đó anh ta chạy làng, nghĩa là trốn biệt. Chuyện đến chỗ nầy thuộc  loại người lớn, tôi không còn để ý đến.
Ngoài  chuyện chọc bà Lợi Điên, chúng tôi còn một thú vui nữa là bắn chim. Chim  nhiều nhất là ở các chùa. Chúng tôi thường chui rào vào chùa bắn xoài  và bắn chim. Chúng tôi dùng ná cao su, bắn đạn là những viên gạch, đá  nhỏ. Thế nên, hễ nghe tiếng lóc cóc của mấy viên sỏi lăn trên mái chùa  là các chú tiểu cầm roi rượt. Các chú nầy đều lớn hơn chúng tôi nhiều  nên rượt rất nhanh. Có lẽ mục đích dọa cho chúng tôi sợ hơn là đánh  đuổi. Nhưng các chú tiểu rượt rất lâu khiến chúng tôi chạy xanh mặt,  quay lại vẫn thấy “ông thầy chùa” còn cách mình chỉ năm ba mét! Đuổi  càng gần, các chú dậm chân càng mạnh, chúng tôi càng quýnh quíu chạy  muốn hụt hơi. Đến khi chú tiểu dừng lại, chúng tôi vẫn cứ chạy, cả mấy  trăm thuớc mới nằm lăn ra đất và thở. Ấy vậy mà hễ chùa có vía Phật hay  lễ gì đấy, thiện nam, tín nữ ra vào tấp nập là làm gì chúng tôi cũng giả  bộ hiền lành, vào chùa với vẻ kính cẩn, mộ đạo lắm. Mục đích để được  chùa cho ăn chay. Đến giờ trưa, chùa dọn cơm chay ra, ai muốn ăn thì  ngồi vào, của chùa mà! Bây giờ, nhớ lại tôi vẫn còn thèm cơm chay của  chùa. Ngon hơn cơm chay tiệm rất nhiều.
Hội An là  một thị trấn nhỏ, mọi người lại biết nhau, nên xảy ra một chuyện gì nhỏ  nhặt, chỉ năm phút sau là “Thượng Chùa Cầu, hạ Ông Bổn” (hai đầu của  thị xã) biết hết. Có một bà đi chợ về dọc đường rêu rao “Có dị nhân xuất  hiện dưới chợ.” Tôi chạy xuống xem. Hóa ra là có một ông, không hiểu  người xứ nào, Trung Đông, Ả Rập gì đấy, lạc vào Hội An. Người ta xúm  quanh ông ta, đứng nhìn sa đà. Tôi cũng chen vào xem. Ông ta cũng là  người thường, nhưng khi người ta mời ăn cơm với cá, thịt, ông ta lắc  đầu. Ông ta chỉ đòi ăn bánh mì với củ cải trắng và uống bia. Ông ta  không nói được tiếng Việt, đối với dân Hội An đã là rất quái dị, lại  thêm chuyện ăn uống không giống ai, người ta đồn nhau đến xem cũng đúng  thôi. Hội An như một cái túi, bị lãng quên từ lâu, ánh sáng văn minh  không đến được nên bọn trẻ cũng thành lạc hậu. Một lần, có chiếc xích lô  máy chạy vào Hội An, vậy là mọi người rùng rùng đi xem, nhất là để nghe  tiếng xích lô nổ máy ầm ầm “Hắn kêu răng mà nghe điếc óc, điếc tai!” Họ  chưa bao giờ thấy chiếc xích lô máy. Có chăng là trên bìa mấy quyển vở,  có hình chiếc xích lô máy với người chạy xe trông rất giống ca sĩ Chế  Linh.
Hội An thời tôi còn nhỏ, khoảng đệ thất,  tôi còn nhớ được một chuyện khác là về con chó của ông chủ tiệm thuốc  tây Đức Phú trên đường Lê Lợi. Đó là con chó Bẹt rê (berger?) rất to.  Con chó nầy thường cột sau nhà, nhưng ai vào mua thuốc tây, nó ở nhà sau  sủa lên “gầu! gầu!…” nghe đã khiếp, thành ra tiệm ế khách. Một lần có  ông nhà quê đi ngang qua, nó sủa, ông ta đứng lại, dòm vô nhà và nói  “Mầy ngon ra đây! Tao bắt làm thịt cho rồi.” Ông ta cứ đứng nói như thế  mãi. Ông chủ tiệm giận quá mới bảo “Ông bắt được thì tôi cho ông. Nhưng  nó cắn thì ông ráng chịu. Dám không?” Ông nhà quê trả lời “Khó chi! Ngày  mai tôi ra đây, có đem sẵn cái bị, ông thả chó ra, tôi bắt về làm thịt  ăn chơi.” Tưởng nói giỡn, không ngờ hôm sau ông nhà quê đến với thằng  con trai. Ông ta đứng trước cửa vỗ vỗ tay khiêu khích, con chó sủa rân  trời. Ông Đức Phú mới mở dây xích, con bẹt rê trong nhà phóng ra, nhào  lên người ông nhà quê để cắn. Không ngờ bị ông ta khóa cổ, thằng con  đứng sẵn bên cạnh, mở cái bao tải ra, ông ta bỏ con chó vào trong bao  tải rồi hai cha con xách đi thẳng! Ông chủ tiệm chưng hửng! 
Ông  Đức Phú có hai người con trai. Thời tôi mới lên đệ thất thì hai anh nầy  đã lớn, học trên tôi rất xa, có lẽ cũng đệ tứ, đệ tam là ít. Người anh  thì hiền nhưng người em thì “hoang trổ trời.” Có một giáo sư thường sai  anh ta ra nhà ông phu trường mua nước ngọt đem vô lớp cho thầy. Anh ta  mua rồi uống trước và đổ nước lạnh vào cho đầy ly. Giáo sư uống cứ chê  nước ngọt nhạc thếch chứ không biết đã bị anh ta uống bớt. Ông Đức Phú,  là cha của anh thường bắt anh học bài rồi dò bài xem có thuộc không. Ông  Đức Phú lãng tai, mỗi khi bị cha kêu ra, anh ta phải ngồi trước mặt và  đọc bài trong khi cha anh ngồi trên ghế xa lông, cầm quyển vở có bài học  của anh để kiểm tra xem có thuộc không. Ông ta không biết rằng người  anh đã lẻn ra đứng sau lưng. Người anh cứ dòm vô bài mà cha anh đang cầm  trên tay và đọc nho nhỏ, anh ta chỉ việc nhắc lại thật to. Cha anh lãng  tai, không nghe người anh nhắc bài, tưởng anh ta thuộc bài rồi.
Nói  đến Hội An là người ta nghĩ đến Chùa Cầu. Đó là biểu hiệu của Hội An  cũng như chợ Bến Thành là biểu hiệu của Sài Gòn vậy. Lịch sử Chùa Cầu  thì sách vở có nói nhiều, nhưng những người không đọc sách và bọn nhỏ  tụi tôi thì có một lịch sử khác. Rằng bên Nhật thường bị động đất, nhà  sụp người chết, năm nào cũng xảy ra. Thầy địa lý Nhật bảo rằng, động đất  là tại vì con cù (rồng đất) thường quẩy đuôi. Muốn cho nó khỏi quẩy  đuôi, phải ếm cái đầu, không cho cục cựa. Mà cái đầu nó lại nằm tại Hội  An trong khi cái đuôi lại nằm bên Nhật!? Mấy ông phù thủy Nhật đến Việt  Nam xây cái chùa trên đầu con rồng, còn ếm thêm một cây gươm dưới đất  cho con rồng hết đường cục cựa. Vậy là bên Nhật không còn động đất nữa.  Chúng tôi tin lắm. Tuổi trẻ con, những chuyện truyền kỳ đó, đương nhiên  phải là có thật. Thế nên, thỉnh thoảng chúng tôi rủ nhau xuống dưới lạch  nước, dưới Chùa Cầu lấy cây thọt khắp nơi, hi vọng thấy được lưỡi gươm.  Nhưng thọt mãi, chỉ thấy rác rến hôi thối, gớm ghiếc!
Lên  trung học tôi hết tin chuyện con cù, nhưng Chùa Cầu giúp tôi một dịp  được một đứa con gái ôm. Số là một buổi tối, tôi đi lang thang gần đến  Chùa Cầu thì thấy một cô bé cứ đứng thập thò chỗ cột điện mà không dám  qua cầu. Khi tôi đi đến thì cô ta đi theo sau lưng. Trong cầu tối lù mù  như động ma lại thêm mấy cây nhang khi mờ khi tỏ trước tượng mấy con  khỉ, con chó càng thêm rùng rợn… Khi đến giữa cầu, tôi bỗng dừng lại và  kêu lên “Ma kìa!” Vậy là cô ta nhảy tới ôm tôi cứng ngắt. Tôi cũng ôm  lại cô để dìu cô qua cầu. Khi ra khỏi cầu cô bỏ chạy mất. Lần đầu trong  đời, được một đứa con gái ôm, tôi về khoe tùm lum với tụi bạn, đứa nào  cũng suýt soa rằng tôi gặp may. Tôi không biết mặt mũi cô bé đó ra sao,  nhưng vẫn còn nhớ đến bây giờ.
Hội An có một thú  vui nữa là lội nước lụt. Sau nầy lớn lên đi làm việc ở Huế, năm nào Huế  cũng có lụt mà chẳng thấy cô cậu học trò Huế nào lội nước lụt như bọn  nhóc tụi tôi ở Hội An. Hàng năm, đến mùa đông mưa dầm là chúng tôi cầu  cho nước lụt. Bọn trẻ con chúng tôi đâu có nghĩ đến nỗi khổ của người  dân thôn quê mỗi khi có thiên tai. Trẻ con ở Mỹ mỗi khi có bão tuyết cứ  mở TV ra là biết mình được ở nhà. Lúc xưa ở Hội An, chúng tôi biết chắc  là được nghỉ học vì nước lụt nhưng vẫn phải đến trường, cô thầy cũng  phải đến trường. Sáng đó thầy hiệu trưởng cho người lên ty tiểu học nhận  chỉ thị cho nghỉ học hay không mới về trình lại thầy hiệu trưởng. Lúc  đó mới thông báo từng lớp biết. Buổi sáng đó chúng tôi đến trường, vào  lớp ngồi chỉnh tề, có cô thầy nhưng ai cũng ngóng chờ tin, chẳng học  hành, bài vở gì cả. Chúng tôi rủ rê, bàn tán nhau chuyện lội nước lụt.  Đến khi nghe tin cho về là học trò cả trường la ó, ùa ra khỏi lớp, mặt  mày sáng rỡ. Đa số chúng tôi không về nhà vì sợ cha mẹ cấm lội nước lụt  vừa nguy hiểm vừa có thể bị cảm lạnh. Nguy hiểm vì có cậu học sinh ngồi  trên thuyền vừa đánh đàn vừa hát với chúng bạn rất là nên thơ, thình  lình thuyền bị lật úp mà cậu không biết bơi nên chết chìm! Nhưng đó là  chuyện hi hữu. Tai nạn chúng tôi thường gặp là bước hụt chân từ trên lề  xuống lòng đường, nước ngập đến ngực. Đa số chúng tôi thường lận vở vào  bụng, thế là vở bị ướt mem, nhòe nhoẹt hết cả! Đường ngập nước chúng tôi  thường lội là đường Nguyễn Thái Học, nước không chảy xiết lại tấp nập  thuyền và người nên rất vui. Những đứa có tiền thì thuê thuyền chèo lên  chèo xuống dọc đường phố. Những người ở hai bên đường đứng trên lầu  thòng những cái giỏ nhỏ, trong có tiền, xuống cho những người bán quà  rong bằng thuyền, lấy tiền và bỏ hàng vào giỏ, người trên lầu kéo lên…  Chúng tôi cứ lội nước như thế cho đến trưa mới về nhà ăn cơm.
Tôi  có thằng bạn tên Trần Ngọc Lợi, kể chuyện nước lụt rất hay. Nhà nó  trước bờ sông Bạch Đằng. Bờ sông Bạch Đằng thì thyền bè cũng không dám  héo lánh nói gì người ta. Nước chảy rất xiết mà sông thì cuồn cuộn, mênh  mông, lênh láng. Nhà cửa bên kia bờ sông (Cẩm Nam?) ngập đến nóc, cây  cao nhất cũng chỉ lú cái ngọn. Thằng Lợi ở chỗ như thế nên nó có quyền  kể những chuyện mà không ai kiểm chứng được. Mà mùa lụt nào nó cũng có  một vài chuyện hấp dẫn để kể cho tụi nhóc chúng tôi nghe. Tôi chỉ còn  nhớ được vài chuyện mà đến bây giờ tôi vẫn còn thấy thú vị, huống gì lúc  còn bé.
“Hôm nước lụt ngập cả tầng dưới, cả nhà  tao phải dọn hết lên lầu, nhưng vẫn để cửa ra vào ở tầng dưới cho cá vào  tránh nước lụt. Cá nhiều lắm, tao ngồi ở thang lầu câu một lúc là đủ cá  ăn cả ngày. Một buổi sáng, tao cầm cần xuống cầu thang thì thấy một con  rết, to bằng cái đòn gánh, nằm khoanh tròn trên tam cấp cầu thang. Tao  lấy cái thúng úp lên rồi kêu ba tao xuống coi. Ba tao lấy cái thùng sắt  bự, bỏ con rết vô nhốt lại. Tụi bây biết không? Tối đến, cái thùng sáng  trưng như có thắp đèn. Ba tao bảo con rết nầy đã tu thành chánh quả nên  có ngọc…”