Ông Bàng cầm khẩu súng lên ngắm, khẩu súng rất vừa tay, mới lắm, còn thơm vùi vécni, mùi dầu. Ông Bàng nhờ một người lái buôn Pháp nhập súng về cùng với nhiều hộp đạn. Đây là khẩu súng Uynséttơ đờ luých 290 khẩu độ 22 (Winchester calip 22) một loại súng săn danh tiếng thế giới. Ông Bàng có thú săn bắn và sưu tập súng săn. Hiện tại trong nhà ông có khẩu Braoning otômaticlốt (Brơning automaticload) của Bỉ với khẩu Brugiơ 10/22 của Mỹ và một vài khẩu súng trường quân sự cải tiến làm súng săn. Ông thuê thợ chạm trổ ngà voi, ốp vào báng súng trông rất đẹp. Thế nhưng ông vẫn thích khẩu Uynséttơ vì cái vẻ quý phái pha chút cổ điển của nó. Phòng khách nhà ông ở Sài Gòn có đặt chiếc tủ lớn đánh vécni mầu cánh kiến chạm trổ công phu bên trong cái giá gác súng và nhiều dụng cụ săn bắn. Ngoài ra trong những dịp chuyện trò với giới kinh doanh ông luôn luôn đem chuyện săn bắn ra nói. Theo ông không có thứ thể thao nào tốt bằng đi săn, nó thú vị vì vừa nguy hiểm vừa hồi hộp, nó đòi hỏi sự can đảm, sức mạnh và nhẫn nại, nó biểu lộ nam tính mạnh mẽ nhất. Săn thú được thì chuyện săn đàn bà đẹp dễ dàng! Ông Bàng là một thương gia giàu có ở Sài Gòn. Ông có đồn điền cà phê với ngôi biệt thự làm toàn bằng gỗ tẩm dầu đen ở Buôn Ma Thuột. Ông giao nhà và đồn điền cho một người cháu họ của vợ ông, hắn tên là Quán gọi vợ ông bằng dì. Hắn là tay thợ săn chuyên nghiệp. Hắn không dùng súng săn, hắn bắn súng trận chuyên tìm hạ thú dữ với loại đạn cưa đầu. Hồi ấy ở Sài Gòn có vài cửa hiệu bán đầy đủ dụng cụ đi săn: súng đạn, dao găm, lều bạt dùng cho những tay săn tài tử hay chuyên nghiệp. Họ bán cả giáo mác cung nỏ của người Thượng cho Tây thực dân mua về nước làm quà kỷ niệm. Có những chiếc nỏ mà cánh làm bằng cây chà rang lâu năm, phải là người khỏe lắm mới giương cung nổi. Người ta bán theo súng những hộp đạn săn loại 24 viên, 48 viên, vỏ đạn bằng giấy mầu xanh đỏ trông đẹp như những thỏi son của quý cô. Bên trong giấy là những viên đạn chì với thứ thuốc đạn mầu đen lóng lánh như mảnh vụn than đá. Mỗi khi đạn nổ chín viên chì túa ra như bầy ong dữ, con thú khó thoát. Mấy tay thợ săn chuyên nghiệp bắn xong người ta lấy vỏ giấy và phần đế dồn làm lại viên đạn khác, họ cho loại thuốc đạn quân sự mầu xám tro có sức tống mạnh hơn, thay chì bằng những viên bi thép có sức công phá dữ dội hơn, hạt nổ đã nổ rồi người ta cậy ra lấy hạt nổ đạn súng garăng thế vào. Lúc này viên đạn chỉ có ba hoặc bốn viên bi thép nhưng có thể hạ những con thú dữ như hổ báo trâu rừng.
Chiều hôm kia được điện của Quán, ông Bàng và vợ là Phượng đáp máy bay bay lên Buôn Ma Thuột. Quán lái xe đến phi trường Phụng Dực đón. Sáng hôm nay họ chuẩn bị cuộc đi săn nhiều ngày trong rừng. Ông Bàng đứng ở nhà trên soi mình vào tấm gương lớn ngạo nghễ nhìn bóng dáng oai vệ, phì nộn, khỏe mạnh - dấu hiệu của người đàn ông giàu có và thành đạt. Ông thấy mình giống như Tây thuộc địa, mặc bộ kaki vàng, đầu đội nón cối bằng lie (điền điển) có gắn chiếc pha đèn săn, chân đi đôi ủng da cao cổ thắt dây dù, bụng thắt nịt da to bản, quanh nịt có chỗ dắt đạn, có bao da dắt con dao găm cán bằng ngà voi chạm trổ công phu, thêm một cái bi đông đựng nước. Vai ông khoác khẩu súng săn đặt trong cái bao bằng da bò non thuộc còn để lông trông vừa man dã vừa mỹ thuật. Cả người ông toát lên mùi da thuộc và mỗi bước đi đều phát ra tiếng kêu kin kít. Ông Bàng chỉ còn đợi lão I Đi đánh bóng cái sắc cốt nữa là lên đường. I Đi, một lão già không biết cả tuổi mình, lão thuộc dân tộc Ê Đê, dân tộc đông người nhất ở Tây Nguyên. Lão I Đi ngồi trong xó nhà cạnh con béc giê đánh bóng túi da cho chủ. Ông Bàng dặn: "Xiarê" (đánh sáp) nhanh lên nhưng không được làm ẩu, đánh thế nào mặt da bóng lên như gương mới được. Lão I Đi có thời sống với Tây đồn điền lão nói tiếng Pháp sành hơn tiếng Việt. Trước nữa thì lão là tay săn tài ba của buôn làng. Nhờ lão mà thú dữ chẳng dám về làng bắt gia súc, bắt người. Lão thông thuộc mọi con đường rừng kể cả tính tình của từng loại thú. Giờ đây lão già rồi lại tật nguyền, bàn tay bên phải còn bốn ngón. Ngón tay bóp cò đã bị chặt đứt tiện sát gốc. Từ khi người chủ đồn điền về Pháp lão xin tới ở giữ nhà cho ông Bàng và để cho người quản gia tên là Quán sai vặt. Mấy năm gần đây da lão càng ngày càng sần sùi. Người Thượng hay bị bệnh lác. Lúc đầu lão cũng tưởng mình bị bệnh này. Hóa ra không phải, mấy năm sau xượng sụn trong sống mũi lão sụp dần. Người ta nói lão bị "cam ăn" chắc là hít phải mùi hoa phấn bướm hay nấm độc ở trong rừng. Họ bày lão lấy lá cà dược (Benlladone) phơi héo quấn làm thuốc lá hút vào phì ra bằng mũi. Khói độc làm cho lão ngây ngất giống như người say sóng. Bệnh chẳng đỡ, xương mũi lão sụp hẳn. Mặt lão biến thành dị dạng. Ngón tay ngón chân của lão bắt đầu mất cảm giác, tê buốt, không thể duỗi ra được, hai vành tai nhỏ dần cong queo như tai chuột. Đúng là bệnh phong hủi. Lá cà dược gây ảo giác. Đêm lại, nằm xuống nhắm mắt lão thấy ma núi lôi lão vào rừng chặt hết mấy ngón chân tay. Lão quay về buôn hỏi già làng. Già làng nhìn mặt lão nói: "Con ma nó ăn thịt người nó gặm mũi, gặm tay chân, gặm hết thịt thì chết!" I Đi hỏi: "Con ma nó có đòi cúng không?" Già làng nói: - Nó không ăn thịt heo gà dê trâu bò. - Cúng nó ché ủ rượu với chiêng đồng được không? - Nó không chịu đâu? I Đi hỏi: - Vậy con ma núi nó thích ăn cái gì? - Ăn vàng! Già làng nói tiếp: - Mài vàng ra mà uống cho con ma nó ăn, nếu không thì chết! (Người ta cũng thường truyền tụng bệnh phong hủi uống vàng cầm nó lại được).
I Đi trở về buồn bã. Vàng ở đâu lấy mài cho con ma rừng nó ăn? Thế nhưng một hôm nhân súc bồn rửa mặt lão thấy trong ống nước có cái nhẫn vàng. Lão mừng lắm, như thế là "Giàng" đã cứu lão. Lão nghĩ vàng đây là của trời cho, không cần phải giấu giếm, lão đeo chiếc nhẫn vàng vào ngón tay trỏ bàn tay phải. Chiếc nhẫn rất chật, lão cố ấn vào. Đốt ngón tay lão sau đó sưng vù. Mấy ngày sau Phượng tri hô lên việc mất vàng. Lão bị buộc tội trộm. Phượng kêu lão lên gay gắt hỏi: - Vàng ở đâu mà lão có? - Của "Giàng" cho Phượng nói: - Nói láo! Đồ ăn trộm! - Không, của Giàng cho thực mà, ở trong ống nước. - Giàng cho lão vàng để làm gì? Mài ra cho con ma rừng nó uống, nó tha không ăn thịt người... Phượng thét: - Vớ vẩn. Lôi hắn ra đồn cảnh sát người ta đánh cho một trận nhừ tử rồi bỏ tù. Ông Bàng dùng tiếng Pháp giảng giải cho lão nghe, nghe xong lão hỏi một cách rất ngây thơ: - Trả lại có bị tù không? - Không. Lão ngơ ngác nhìn ba người. Lão cố tháo chiếc nhẫn nhưng không được. Đốt tay lão sưng vù. Lão hỏi: - Không tháo được thì làm sao? Phượng lạnh lùng: - Chặt ngón tay ra mà lấy! Nghe xong, lão già không nói rằng, ra sau bếp kê ngón tay lên đầu cọc gỗ dùng rựa chặt phăng! Lão lượm chiếc nhẫn vấy máu đem đưa bà chủ. Từ đó ngón tay bóp cò của lão không còn nữa. Con hổ bị chặt móng vuốt rồi, lão trở thành con chó già bệnh hoạn tàn phế sống lẩn quẩn trong nhà nhờ cơm thừa canh cặn. Quán đứng trong ga ra cưa đầu mấy viên đạn súng garăng. Hắn dùng êtô kẹp từng viên đạn. Cầm cưa sắt cưa bỏ mũi nhọn. Garăng là một loại súng trường cũ kỹ có từ thời thế chiến thứ nhất. Súng này trang bị cho bọn lính Lê dương. Khẩu súng rất dài và nặng. Đạn của nó mỗi băng chỉ có bốn viên, đầu đạn bằng thép bọc đồng. Nếu cưa bỏ đầu viên đạn không bay xa nhưng lại có sức công phá ghê gớm. Vết thương xương thịt vỡ ra toang hoác như cái mồm đầy máu. Bắn thú dữ phải có thứ đạn này. Nếu là con Min, một loại trâu rừng nguyên thủy rất khỏe và rất hung dữ bắn một phát không giết được nó, tất nó sẽ giết mình. Kích cỡ khẩu súng garăng so với người thường trông to nặng, khó bắn, song đối với Quán lại chẳng to tý nào. Thằng này dáng bộ cao lớn dềnh dàng, mầu da ngăm đen hàm răng trắng trông chẳng khác gì lính Ma Rốc. Mấy mụ đàn bà thấy mẫu người dầy dạn phong trần đầy sinh lực và nam tính của hắn thì mê ngay. Hiện nay hắn là thợ săn chuyên nghiệp. Trước kia hắn là tên du thủ du thực, đi lính rồi trốn lính, tìm việc làm không có cuối cùng được dì Phượng cho về làm quản gia coi nhà và đồn điền cho ông Bàng ở Buôn Ma Thuột. Hắn với Phượng cùng một tuổi, có bà con xa. Dì Phượng và mẹ hắn chị em ra sao hắn không biết mà dì cũng chẳng rõ lắm. Trước mặt mọi người họ vẫn kêu nhau bằng dì cháu. Hồi nhỏ hai người ở chung một nhà. Hai đứa bé sống cạnh nhau chơi giỡn với nhau như hai đứa con trai, như hai con vật nhỏ. Dần dần lớn lên chúng vẫn chơi với nhau như thế ở trong nhà chẳng ai quan tâm ngăn cản trò đùa nguy hiểm này. Cho đến tuổi dậy thì, có sự đòi hỏi thì cũng có những cuộc thí nghiệm đầu tiên, chúng nó tự khám phá rồi dấn sâu mãi vào. Cho đến khi dì Phượng lấy ông Bàng cả hai vẫn tiếp tục đi lại với nhau. Quán muốn gặp Phượng cứ kiếm cớ gì đó điện cho ông Bàng lên đồn điền. Ông này đi săn đều có Phượng đi theo. Những chuyến săn ngủ lại trong rừng hàng tuần lễ hai người tìm cách ân ái với nhau trong rừng già. Những chỗ đó thì đừng hòng tìm thấy họ. Những cuộc chung đụng giữa thiên nhiên hoang dã kiểu thú rừng nầy có sức thu hút mãnh liệt hai con người tràn trề sinh lực.
Phượng từ phòng tắm trần truồng khoác hờ cái khăn tắm mầu hồng bước ra. Buổi mai Buôn Ma Thuột lạnh lắm phải tắm nước nóng, người nàng hơi nước bốc lên mờ mờ. Phượng ngồi trước bàn phấn nhìn bóng mình trong gương, buồn. Buồn nhất là chiếc cằm thanh tú chẽ đôi ngày trước nay thịt đã đầy lên, cổ xuất hiện thêm cái ngấn thịt thứ hai làm cho cổ trông như ngắn hơn. Gò má nàng càng đầy ra và nặng nề thêm. Dưới mắt xuất hiện hai túi thịt làm cho cái nhìn trở nên u ám. Phượng nhủ thầm: Mấy năm nay ít vận động lại ăn nhiều, béo quá, với lại cũng đã bốn mươi mốt tuổi rồi, cái tuổi bắt đầu rối loạn, phát phì là phải. Thôi cố gắng kéo dài cái nhan sắc với những trò vui được thêm năm nào hay năm ấy rồi tu tỉnh cũng vừa. Phượng tô kem tô phấn lên mặt một lớp thực dày. Lúc này trông mặt nàng chẳng khác chiếc mặt nạ trong những tuồng cổ Nhật Bản. Có tiếng chân rón rén sau lưng, không nhìn Phượng cũng biết. Hắn từ sau bịt mắt nàng hỏi: - Đố biết ai? Phượng nói: - Tay chân đầy mùi dầu mỡ, đừng làm hư phấn người ta mới tô! Hắn cúi xuống áp mặt mình vào chiếc mặt nạ Nhật Bản đó rồi mở hai tay ra nói: - Trông "dì cháu" có xứng đôi không? Phượng vùng vẫy trách yêu: - Thằng cháu mất dạy dám làm càn, coi chừng lão, cửa đóng chưa? - Chưa, đóng làm gì cho lão nghi. Sương nhiều lắm, đứng nhà trên nhìn xuống đây giống như biển mây. Phượng hỏi: - Lão ta đâu? - Người hùng của dì đang sửa soạn súng ống đạn dược cho cuộc đi săn của nhà triệu phú quý tộc. Ông ta trang bị từ đầu đến chân toàn ba cái thứ vũ khí của đàn bà trẻ con. Ngẫm nghĩ một lúc Phượng hỏi: - Lão I Đi làm gì? Sau lần chặt tay đó hắn có thù mình không? - Lâu rồi lão cũng đã quên. Người Thượng mộc mạc lắm, họ không biết oán hận dai đâu, với lại tôi đã nói tội trộm đưa vào tù người ta chặt cả bàn tay chứ không phải chỉ chặt một ngón, lão tin. Lão nói lão không ăn cắp, lão nhặt được trong ống nước lúc súc bồn rửa mặt. - Có thể lão nói đúng. Chắc là năm đó tôi rửa tay xà phòng trơn làm cho chiếc nhẫn rơi ra. Tội nghiệp, nhưng thôi đã lỡ rồi... Quán cúi xuống: - Cho "thơm" một cái rồi chuồn ngay. Hắn hít mùi phấn hương trên cặp má đầy chất kem nhờn. Hắn hất nhẹ, chiếc khăn lông mầu hồng phấn rơi ra để lộ một thân thể đẫy đà, bụng dưới tròn trịa mỡ màng, toàn thân nàng mát rượi. Phượng thét: - Đừng làm ẩu, vào trong rừng hãy hay, ra mau! Hắn đi ra Phượng kêu giật lại: - Vào rừng dụ cho lão đi thật xa, làm gì thì làm. Quán lên nhà trên, cười thầm, một ý nghĩ nham hiểm chợt bùng lên: Lần này cho lão ta cơ hội thử khẩu súng săn mới mua với hung thần của rừng già. Khẩu Uynsettơ thứ đồ chơi của đàn bà trẻ con này mà gặp phải con Min, con trâu rừng nặng cả tấn, đang bị thương, hung dữ đã giết biết bao tay thợ săn lành nghề rồi, kể như lão ta nộp mạng cho nó. Mấy tháng nay con trâu rừng này là nỗi kinh hoàng của dân thợ săn. Chắc nó vẫn còn trú ngự ở chỗ ấy. Quán đi ra ngoài rồi Phượng đứng lên nhìn vóc dáng mình trong gương, nghĩ: hơi có nặng nề, nhưng còn đẹp chán! Nàng mặc quần tây đi rừng, khoác áo sơmi mầu đỏ rực như tiết gà, xỏ chân vào đôi ủng, xô cửa trở ra. Bốn người lên xe. Quán lái, ông Bàng ngồi ghế trước, I Đi và Phượng ngồi băng sau. Mới sáu giờ, thành phố đầy mây. Buôn Ma Thuột vào những năm đầu thập kỷ sau mươi thành phố còn nhỏ lắm, dân cư thưa thớt, đầy nét hoang sơ, rừng già áp sát thành phố. Giữa phố phường và rừng già nhiệt đới chẳng có ranh giới rõ ràng gì cả. Có nhiều con đường mà bên này là phố xá đông đúc bên kia là rừng già với tất cả vẻ hoang vu, cổ thụ tầng tầng lớp lớp, dây leo quấn quanh chằng chịt như những con trăn mốc. Thực là một thành phố đúng tên gọi phố núi. Ra khỏi phố trời sáng nhờ nhờ. Lạnh lắm, mặt trời lên hay chưa chẳng ai biết, sương đục như nước vo gạo. Sương mờ mịt đến nỗi ngồi trên xe Landrover một loại xe chuyên đi rừng, nhìn xuống đất không thấy mặt đường. Xe chạy như bay trong mây. Quán mở đen pha thực sáng, ánh đèn chỉ xé được màn sương vài mét rồi sương mù đặc quánh nuốt mất ánh sáng. Quán nói: - Không thấy gì cả. Không biết con đường nằm đâu, làm sao đi? I Đi xuống xe cầm đèn pin đi trước dò đường cho tao!
I Đi xuống xe, bóng lão mờ mờ như ma quái. Lão bước trong sương cầm đèn dốc về sau, ánh sáng vàng vọt như ma trơi. Nhưng tới đây thời tiết lạnh lùng của phố núi một lần nữa làm ra sự lạ trong chớp mắt. Gió rừng bỗng nhiên nổi dậy ào ào xô tan mây mù, lúc đầu lùa chúng xuống những thung lũng rồi thổi tan biến đi đâu mất. Mặt trời đột ngột chói lòa. Một cánh rừng hoa hướng dương dại bạt ngàn sáng bừng lên mầu vàng tươi thắm trong sắc nắng ngọt lịm. Rừng hướng dương dại này có người còn gọi là dã quỳ mênh mông, đang lái xe trên con đường đất đỏ, Quán bẻ quặt tay lái. Chiếc xe càn lên những bụi dã quỳ, xe mở ra một lối đi làm cho cây ngã rạp hai bên. Quán hỏi: - Dượng thích săn gì tôi đưa đến? - Săn nai. Tôi có hứa với mấy người bạn đem ngạc nai về cho họ nấu cao ban long. Quán cười thầm về hình ảnh cặp sừng. Hắn quay lại sau bắt gặp cái cười của Phượng cũng in hệt hắn. Quán nói: - Được rồi, chúng ta sẽ tới đầm lầy cắm trại ven hồ. Mấy người Thượng có cho tôi biết nửa khuya, lúc gần sáng có hai con nai, chà to như con bò, cặp sừng giương lên như cả bụi cây nứt ra tới bảy nhánh thường đến đây uống nước. Dượng có cơ hội để thử súng. Ông Bàng nói: - Yên trí, loại này không nổ chứ nổ thì có thịt! Quán là tay chuyên nghiệp, hắn rất sành địa thế vùng này. Đang lái xe trong rừng bạt ngàn hắn vẫn tìm ra cái đầm lầy khổng lồ, một nơi đất trũng, chung quanh đồi tranh bao bọc. Mùa mưa nơi đây đầy nước, vịt trời, chim nước rất nhiều. Mùa nắng, hồ cạn, giữa hồ còn đọng lại vài vũng nước là nơi thú rừng tìm đến giải khát và đầm mình. Cây cối chung quanh đấy lúc nào cũng xanh tươi. Cỏ trên mấy ngọn đồi quanh đầm chỉ mọc tốt trong mùa mưa, qua mầu nắng kéo dài tới sáu tháng không một giọt nước, tất cả đều héo hon. Một mồi lửa cũng có thể biến ngọn đồi thành biển lửa. Quán hiểu được vì sao trên những ngọn đồi thoai thoải ở cao nguyên chỉ có cỏ tranh ngoài ra không một loại cây nào mọc được. Thiên nhiên khắc nghiệt đào thải tất cả chỉ chừa lại loài cỏ tranh. Trong nửa năm khô hạn chúng sống tiềm sinh, chỉ có bộ rễ còn chứa mầm sống. Ngọn lửa mùa hạ đốt cháy phần lá để lại lớp tro tàn là lớp phân bón hảo hạng và khi mùa mưa tới đánh thức mầm sống dậy, đọt tranh trồi lên như những mũi kim nhọn. Nơi đây quyến rũ loài hươu nai, chúng ăn mầm tranh mới nhú và liếm chất tro có vị mặn, xong xuống hồ uống nước. Có khi chúng rủ nhau lội cả bầy sang bên kia hồ. Chỗ này thu hút những loài thú ăn thịt. Nơi đây là chỗ săn bắn lý tưởng. Thời đó ít ai bắn nai. Thịt nai nhiều lắm bán như cho cũng chẳng ai mua, họ chỉ mua để làm nai khô đem nơi khác bán. Người ta bắn nai chỉ cốt lấy sừng nấu cao. Riêng bầy trâu rừng không ở đây. Vùng cư trú chính của chúng ta là Đức Lập nằm sát biên giới Việt Miên. Huyện Đức Lập là một khu rừng mưa nguyên sinh tiêu biểu nhất cho rừng nhiệt đới. Nơi đây có lẽ là địa phương lạnh lẽo nhất nước, nơi cư trú của loài Min. Người mình, người Thượng ít ai dám bắn chúng, chỉ có vài nhà săn người Pháp, nhưng đã có người bỏ mạng. Quán không hiểu tại sao con Min hung dữ này lại bỏ Đức Lập xuống Buôn Ma Thuột. Đây là một hiện tượng lạ của núi rừng, hoặc nó bị thương, bị bệnh và bị bầy đàn xua đuổi hay là đi tìm kẻ thù gây thương tích cho mình. Những con thú kiểu này cực kỳ hung dữ và nguy hiểm. Hắn đã chuẩn bị hơn mười viên đạn thép cưa đầu để phòng thân. Nhưng viên đạn nguy hiểm đầu tiên hắn dành cho ông Bàng với khẩu súng sang trọng của ông ta. Họ dừng xe hạ trại. Tây Nguyên có một thứ thời tiết rất lạ. Đêm nào trời rét, sáng dậy mây mù nhiều thì ngày hôm đó nắng gay gắt. Nắng và rét xen kẽ nhau cộng với thứ gió khô làm cho da dẻ đàn bà trẻ con lúc đầu hồng lên sau thì rạn nứt nẻ cả. Đi chuyến này họ mang theo nhiều đồ hộp, gạo thịt chuẩn bị cho một mùa săn lâu dài. Trong khi ông Bàng cho xem xét vũ khí, lão I Đi lo cơm nước thì Quán vào rừng tìm vết chân thú, kỳ thực hắn và Phượng hẹn hò nhau. ở trong rừng đừng hòng tìm ra họ. Họ yêu nhau trên thảm lá mục, trong bụi rậm mạnh bạo hoang rợ chẳng khác gì dã thú.