watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
14:33:2728/04/2025
Kho tàng truyện
Chỉ mục bài viết
Khúc Đồng Dao Lấm Láp
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tất cả các trang
Trang 5 trong tổng số 7

KHÚC 3 CHO CÓC Ở NHÀ

1. Hè đến.
Chúng tôi được nghỉ học. Và đó là những ngày tuyệt vời.
_ Cho mày chơi một tháng rồi tao gửi lên Thái để dì mày kèm cho có sức mà theo lớp mới.
Được một tháng? Thôi cũng được.
Lại rủ  nhau lang thang đi hái mâm xôi, vặt trộm táo hoặc chơi trận giả. Có thể ra nghĩa địa tìm nhặt những nải chuối, phẩm oản, những bộ quần áo bằng giấy xanh đỏ người ta đặt trong các xó bụi. Bà tôi bảo đó là đồ cúng của những người không có con, ai ăn phải sẽ bị ma nhập vào người và chịu thay phận không con cho người cúng. Lúc đầu chúng tôi sợ, nhưng sau, cái thèm và cái tò mò còn lôi cuốn hơn. Chúng tôi ăn thử. NGON! Ăn thêm. Dần thì vớ được là chia nhau chén sạch. Chúng tôi còn bé, không có con cũng chả sao. Nhưng thường là tôi hay ra trường, xuống chỗ bếp của nhà trường để chơi. Bố thằng Dề làm lao công ở đó. Trong kỳ học, bác quét dọn các lớp và khu văn phòng, nấu nước đổ vào phích cho các thầy cô giáo và chăn nuôi đàn lợn để khi nào trường có liên hoan thì giết thịt. Lúc khác bác trồng rau. Vườn rau của trường mỗi luống do một lớp làm, cắm biển đề tên lớp để đánh dấu và chấm điểm thi đua. Bác góp phần chăm bón thêm, rau mọc rất tốt. Nhưng thích hơn cả với bác, có lẽ là việc chăm sóc mấy con gà chọi. Bác nuôi gà chọi để thỉnh thoảng đi thi đấu. Bác chăm đàn gà chọi của bác hơn cả chăm thằng Dề. Bắt đầu là từ  cách chọn trứng. Bác bảo trứng tròn là trống, trứng dài là mái. Gà con nở ra, khi đã ráo lông, bác bắt từng con ra “ bấm mỏ chấu” tức là bóc đi cái chấm nổi lên ở đầu mỏ để lúc lớn lên đi đấu mỏ không bị tróc. Trong đàn gà con đông đến hơn chục con ấy bác lại chọn ra những con thường đi ăn lẻ xa đàn một mình hoặc ngược lại, con nào khi đã no mồi đến nằm áp ngay bên mỏ mẹ. “Thứ nhất ăn sâu, thứ nhì chầu mỏ” mà. Bác giải thích cho chúng tôi thế. Tôi rất yêu những con gà ấy của bác và cũng đã từng tham gia nuôi chúng nữa. Thằng Dề hay rủ tôi đi bắt ngoé về cho gà ăn. Bố thằng Dề đặt tên cho từng con gà theo tên những hảo hán trong truyện “ Thuỷ Hử” : Con mái chân vàng là Cố Đại Tẩu. Con đực lông xám, cổ đỏ tía có đuôi cẳng dày vảy mà bác bảo đó là lớp “khâu đao” thì được mang tên Võ Tòng. Con đực lông đen nhánh mà mỗi khi bế nó lên bác thường hát: “Chân chì, mắt ếch đếch sợ bố con thằng nào” được mang tên rất oách: Hoắc Toàn Phong Lý Quỳ! Cứ dăm sáu ngày bác lại cho gàra đấu thử.

Tôi không biết những cuộc chọi gà chính thức diễn ra như thế nào nhưng mới chỉ xem những cặp gà của bố thằng Dề luyện đấu với nhau tôi đã thấy khoái không thể tưởng được. Thường thì cái cảnh ấy diễn ra như thế này: Bố thằng Dề lấy phên quây lấy một vùng đất nho nhỏ, đổ cát dày vào đấy gọi là “sới”. Bác bắt gà ra, trùm lên mình gà một cái bao vải nhỏ trong đựng cát và xua cho gà chạy nhảy qua những thanh ngáng cao. Bác gọi đó là thuật “ luyện gân cốt”. Những chú gà chọi sau nhiều lần đeo cát nhảy qua rào cản, khi được bỏ túi cát ra sẽ có sức bật cao rất tốt. Tiếp đó là tập “vần lồng”. Gà được “vần lồng” nghĩa là gà đựơc đem ghép đôi đấu thử: Mỗi con được bịt mỏ bằng cái túi da nhỏ. Cựa cũng được bịt hoặc quấn vải. Những chú gà chọi xông vào nhau, mỏ bị bịt không mổ được, chủ yếu dùng sức để xô vào nhau là chính, ngã oành oạch. Chúng tôi ngồi xung quanh hò reo, cổ vũ.
Thường thì cặp Lý Quỳ – Võ Tòng hay cặp đôi tập với nhau và rất ít khi phân thắng bại. Con Cố Đại Tẩu thỉnh thoảng mới được đọ sức thử với “giới mày râu” – Chó giống cha, gà giống mẹ, chức năng chính của con Cố Đaị Tẩu là sản sinh ra những “trang anh hùng hảo hán”! Tập xong bác lấy nghệ, lấy cây ngải cứu, mở nắp hòm gỗ lấy một nhánh củ tam thất ra đem giã rồi đun với nước giải bóp cho gà, xoa lên các vết thương và bóp đùi cho chúng. “Đây là cách luyện để có mình đồng da sắt đây!” Bác giải thích cho chúng tôi vậy.
Cũng từ chuyện luyện “mình đồng da sắt” này mà có lần tôi bị mẹ nện  cho một trận nhớ đời. Chả là cả tôi và thằng Quyết, thằng Dề đều mơ ước sau này trở thành võ sĩ. Học cách các con gà tập luyện gân cốt, chúng tôi buộc túm chặt hai ống quần, cho cát vào và tập chạy nhảy. Sau buổi tập, người tôi bị xây xước và chỗ và thằng Dề đã lấy của bố  cho tôi một nhánh gừng( nó bảo nghệ với gừng là một), nắm ngải cứu và bảo tôi đái một ít vào bát rồi trộn và đem xoa bóp khắp người. Xót ghê gớm. Nhưng tôi cố chịu. Mong muốn được là người có “mình đồng da sắt” đã giúp tôi chịu đựng được cái xót ấy. Nhưng chỉ có điều là sau đấy, cả người tôi đã bốc lên một thứ mùi không dễ gì dấu đi được. Và mẹ tôi đã phát hiện ra. Tôi bị xơi roi, bị kì cọ, bị bôi thuốc đỏ và bị “ cấm bước chân ra khỏi giường”.

2.  Tôi có thể bị xơi roi, bị kì cọ, bị bôi thuốc đỏ – được hết! Những thứ đó có thể chịu được. Nhưng “ cấm bước chân ra khỏi giường”? Chà. Hình phạt thế là hơi nhiều rồi đây. Chính bà tôi đã từng mắng mẹ: “Chị đày thằng bé vừa vừa chứ. Nó còn bé tí thế. Có gì không nên không phải thì BẢO cho nó. Nay đòn, mai phạt. Không khéo rồi chị làm nó không lớn được cho mà xem.” Đấy, thấy chưa. Thế mà mẹ tôi… Không, tôi phải mách bà mới được.
Chờ mẹ đi khỏi, tôi lẻn ngay. Lúc đầu cũng có sợ đôi chút. Nhưng khi ra đến đường là tôi đã PHỞN lắm. Con đường làng ngày hè đầy nắng, đầy cát vàng. Bụi tre đầy tiếng chim,đầy gió. Vạt cỏ đầy cào cào, đầy hoa dại. Tôi xếch lại quần cho khỏi tụt. Bộ quần áo mới thật bất tiện. Hai ống quần cứ đập vào nhau, xột xoạt đến khó chịu. Cáu tiết, tôi cúi xuống xắn lên trên đầu gối. Dễ chạy rồi.
_ Xung phong! – Đàng sau tôi chả biết từ đâu chui ra một toán những đứa trạc tuổi tôi. Chúng hò hét, đuổi nhau và vốc cát ném nhau. Một đứa chạy qua và ném vào tôi MỘT CÁI GÌ ĐÓ. Hay thật. Tôi cúi xuống cũng vơ vội nắm cát. Xung phong! Chúng tôi GIANG THẲNG CÁNH NÉM. Bụi cát mù mịt. Cát ào vào đầu tôi,chui vào cổ áo, lọt vào mồm. Kệ, cứ chơi. Hình như có ai đó quát. Tôi làm như không nghe thấy. Những đứa khác cũng vậy. Tôi vừa chạy khỏi một đứa nào đó, đuổi theo một đứa nào đó. Ống quần lại tụt. Tôi ngã vập mặt xuống đường. Có thằng nào đó nhảy cưỡi lên lưng tôi “nhong nhong” mấy cái rồi  lại ù chạy. Tôi nhìn theo cái quần cộc của nó và thèm đến ứa nước mắt.
Khi tôi xắn lại xong được hai ống quần, ngửng lên thì bọn “bạn” tôi đã biến đâu hết. Trên đường chỉ còn toàn là người lớn. Họ cũng đang đi chợ. Tôi co giò phóng một mạch, vừa chạy vừa thở. Và khi sắp không còn hơi để thở nữa thì chợ đã hiện ra. 
Ở đầu cổng chợ có một cái lều thợ rèn. Hai người thợ đang làm việc. Họ đều cởi trần, quần nâu dài xắn lên quá gối. Phì, phì, phì – chiếc bễ kêu. Những hạt than nổ lép bép và phun khói xanh. Một thỏi sắt sáng chói được lôi từ trong đống than ra đặt lên đe.
_ Bắt đầu!

Bác thợ già reo lên khoái chí và một tay cầm kìm dài kẹp chặt miếng sắt đỏ đặt lên đe, một tay cầm chiếc búa con gõ nhẹ lên miếng sắt ấy để gạt đi những xỉ than bám quanh. Anh thanh niên rời ống bể bước tới cầm lấy chiếc búa to giơ cao lên. “Chạt, choang, chạt, choang” – tiếng búa nện chững chạc và mạnh. Từng chùm hoa lửa bắn ra. Tôi hoảng hốt nhảy lùi lại. Những viên lửa nhỏ bắn vào hai người thợ và CHUI BIẾN vào họ. Tôi lè lưỡi thán phục và ngây người ra chiêm ngưỡng cảnh người ta cho vào bếp than những cục sắt và vất ra cho khách người thì con dao đã được đóng chuôi gỗ sáng loáng, người thì chiếc liềm cong như một dấu hỏi.
Có sắc không đây, ông cả?
_ Bác cứ đem về dùng thử. Hễ không ưng ý lại đem ra đây lấy tiền về! – Bác thợ cả vui vẻ nói vậy.
Trông bác thấp bé,da xanh tái, nhưng rõ ràng là vui tính và dễ dãi. Bác hào phóng trao cả chiếc gáo dừa treo trên vách cho khách. Và những ông khách tự tay moi lấy trong gáo những dúm thuốc lào đem vo tròn nhét vào nõ điếu, gắp một hòn than nhỏ còn đỏ bỏ lên trên, phồng gân cổ rít những hơi dài sòng sọc.
Khó khăn lắm tôi mới có thể rời khỏi cánh thợ rèn. Tôi bước hẳn vào chợ. Chợ ngày hè thích thật. Người đông như kiến. Trên ụ đất cao xây tròn bao quanh gốc cây bàng lớn  là những bà hàng xén. Bà tôi cũng bán ở đó. Nhưng chưa đến với bà bây giờ được. Cứ đi loanh quanh một vòng xem đã. Tôi đến hàng rau, hàng gạo. Xì, chán! Những lưng áo nâu vàng mồ hôi muối đóng khoang thắng. Oàn quá. Chả nghe rõ gì. Dãy hàng cá. Oà, con cá chép to ghê. Bao giờ lớn tôi sẽ câu một con như vậy.
_ Cheng cheng – Tùng tùng tùng, cheng – A, một đám đông. Tôi chạy tới. Ở góc chợ có một vòng người nhốn nháo. Có tiếng trống, tiếng thanh la vọng ra từ đó. Tôi cố kiễng chân nhìn. Chỉ thấy toàn lưng với gáy.
_ Tết pục tứ khai, ngời có pìn đồng da sát, choeng choeng, tùng tùng tùng – Tiếng trống chiêng lại thúc. Trời ơi làm thế nào bây giờ? Tôi cố chui đầu vào. Không nổi. Người chen chật cứng. Điên tiết, tôi nhắm mắt lùi lại một tí, chắp hai tay vào nhau giơ thẳng về phía trước và nhằm một cái HÁNG đàn ông cao to, lao vào.
_ Ối, con cái nhà ai đây. Ái, ối… Ê, oắt con. Làm gì mà chen khiếp thế! Tiếng kêu, tiếng quát. Tai tôi bị xoắn. Tóc bị giật. Đầu bị cốc, lưng cũng bị mấy cái phát rát rạt. Tôi nghiến răng cố chịu. Và tôi mở mắt ra. À.Thấy rồi. Một người đàn ông lực lưỡng, mình để trần, lộ ra những bắp thịt cuồn cuộn, đầu chít chiếc khăn nhiễu đỏ, chiếc quần rộng ống màu vàng nghệ buộc túm sát mắt cá chân đang múa những điệu võ lạ mắt. Bất chợt, người đó đứng sững lại và giơ một tay ra. Một thằng bé cao gần gấp đôi tôi, cũng quần vàng áo đỏ, đi giày vải đen, cầm một thanh kiếm sáng loáng nhảy tới, ráng hết sức chém “ phập” một nhát thật mạnh lên cánh tay để trần của người đàn ông. Một tiếng thét ghê rợn bật lên. Tôi hoảng sợ nhắm nghiền mắt lại. Có tiếng đứa trẻ con nào khóc. Nhưng ngay sau đó, át đi tất cả là những tiếng reo thán phục. Tôi mở vội mắt ra. Cánh tay của người đàn ông VẪN CÒN.
_ Khiếp, lưỡi kiếm sắc chém mạnh thế mà bị bật ra như chém vào cao su!
_ Có lẽ ông ta “mình đồng da sắt” thật.
_ HÃI đấy. – Mọi người trầm trồ, bàn tán.
_ Cao xao phàng – cao hộ cột, loại tạc pệt tôt, mua đai, ai mua đai, nhăn kẹo khết lào…
Người đàn ông đã thôi múa võ và cầm trong tay một xấp giấy cao đen đi chào khách. Tôi để ý thấy không có mấy người không mua thuốc của ông ta. Giá có tiền, tôi cũng mua. Tôi len đến bên thằng bé cầm kiếm. Nó đang giơ thanh kiếm cho mọi người xem thử. Tôi đánh bạo sờ. Đúng, kiếm THẬT.

3. Đã thấy kiến bò bụng!
Thôi, tạm biệt bác lò rèn, tạm biệt đám hoa lửa, tạm biệt con người mình đồng da sắt. Tôi sẽ nhớ đến các người trong mơ. Tôi đến hàng bà tôi đây.
_ Ô kìa, Cao. Sao lại ra chợ một mình thế này con?
_ Cháu NHỚ bà!
_ Cha tông môn mày. Bà đi chợ, tối về chứ có gì mà phải nhớ. Chắc lại nhớ cái bát bún mọc chứ gì? Vào đây nào. Kìa, sao quần lại xắn cao vống lên thế này? Giời đất, sao mà người ngợm toàn cát thế con. Đầu, cổ, tóc nữa này. Chết. Chắc bị đứa nào nó bắt nạt ném cho hả?!
Bà tôi rối rít. Bà rên lên. Bà xoay tôi như chong chóng. Bà có vẻ rất XÓT. Tôi khoái chí vì thấy bà XÓT như vậy. Nhưng tôi không muốn để bà hiểu rằng tôi bị bắt nạt: “Cháu đã NÉM NHAU với bọn nó đấy!”
- Ném nhau gì. Mày bé tí thế này thì ném được ai! Thôi ngồi đây để bà đi xin chậu nước bà rửa cho. Ưù cái gì. Ngoan rồi bà mua cho cặp bánh giò. Hay là ăn bún mọc? Bà bảo bác Thoại bác  ấy làm cho một bát nhá. Nhưng mà phải rửa mặt mũi  chân tay đi đã. Cứ để như THẰNG HỀ thế này mà về thì con mẹ mày nó CHÔN!
Vâng. Thì bà đi nhanh đi. Bà muốn RỬA cho con thế nào cũng được. Bánh giò? Bún mọc? Aên thứ gì bây giờ? Chưa chi nước miếng tôi đã ứa ra. Giá như được ăn bánh giò trước, rồi rửa ráy xong ngồi chén bún mọc! Mà không phải chén bún mọc ở đây. Tôi sẽ đến hàng bác Thoại. Nhất định bác sẽ NHẬN RA TÔI. Ngày TÔI CÒN BÉ, nhà bác Thoại ở gần nhà tôi, tôi vẫn thường chạy sang để bác bắt đứng khoanh tay chào, hoặc hôn lên cái má dính đầy bột gạo của bác rồi chạy khoe với mẹ chiếc bánh nếp trong tay. Sau này bác chuyển nhà ra chợ để tiện cho việc làm hàng. Nhưng nhất định bác chưa quên tôi. Thấy tôi bước vào hàng bác sẽ ngạc nhiên lắm. Bác sẽ mừng nữa. Bác sẽ chạy đến nắm tay tôi, kéo ghế  MỜI tôi ngồi và trịnh trọng đặt trước mặt tôi đĩa rau thơm cùng bát bún mọc thơm phức. Oâi, muôn năm bác Thoại. Muôn năm những sợi bún dài nhỏ trắng tinh, những viên mọc kì diệu nhúng trong thứ nước dùng nồi váng vàng ngậy, nóng đến chảy nước mắt nước mũi nhưng là những giọt nước mắt nước mũi của sung sướng và hạnh phúc!

4. _ Cao ơi, đi xem đấu gà không?
Trời, lại còn phải hỏi. Đang loay hoay với cái tàu chuối định làm một khẩu súng cho cuộc đánh trận giả tới, nghe thằng Quyết gọi, tôi vứt luôn và co giò phóng theo nó. Chúng tôi chạy ra bếp trường. Thằng Dề đang đứng đợi: Sao lâu thế, có khi gà nhà mình vào trận rồi đấy!
Cả ba lại chạy. Bãi  đấu gà  thường được chọn ở một vị trí “trung gian” giữa xã tôi và xã bên cạnh. “Ra bãi đến thôn Năm” – Thằng Dề vừa chạy vừa bảo. Tôi biết bãi ấy. Vào dịp tết người ta hay tổ chức đua thuyền, leo cầu ngô, đấu vật và đu tiên ở đó. Khi chúng tôi ra đến nơi, bãi đã có đông người và hình như một số  cặp đấu đã xong. Bãi được chia làm ba khu, mỗi khu quây vòng bằng dây thừng cho một sới. Lòng tôi thoáng chút ghen tị khi thấy nhiều người lớn trong bãi biết thằng Dề. Họ chào nó trước và chỉ cho nó “ sới nhà”. Bố thằng Dề đang tháo miếng da bịt mỏ cho con Võ Tòng. Con Lý Quỳ “chân chì mắt ếch” thì chưa. Như đã thạo việc, thằng Dề ngồi ngay xuống ôm lấy con Lý Quỳ và cẩn thận gỡ vòng vải cuốn quanh cổ chân nó ra, để lộ cặp cựa nhọn như  bút chì và cứng như thép. Thằng Dề rất yêu con Lý Quỳ và chúng tôi thường cùng nhau chăm sóc nó. Tôi biết con Lý Quỳ có một chiếc “vảy cáo” rất lợi hại. Nó giống như một chiếc cựa phụ nằm sóng ngay với cựa chính ở cẳng bên phải. Con nào lớ ngớ bị xơi miếng hầu dọc của nó là “toi” ngay, gãy cổ như bỡn.
_ Số 8 và số 21 chuẩn bị. – Có tiếng hô.
Một ông trong ban tổ chức đến bên bố thằng Dề yêu cầu cho kiểm tra. Mỗi con gà được đăng kí không phải theo tên đặt mà là theo số. Số được viết trong một miếng giấy nhỏ và quấn quanh ống quản buộc lại cẩn thận để không làm vướng gà khi đấu. Con  Võ Tòng mang số 8, con Lý Quỳ mang số 15. Tôi không khoái cách gọi theo số này. Gọi theo tên nghe oách hơn. Nhưng thôi, đó là việc của người lớn.

_ Bắt đầu! – Khi tiếng hô của ông quản trò cất lên tôi mới kịp nhìn sang bên kia. Con số 21 là một con xám, đầu công mình cốc, cánh vỏ chai, dáng rất nhanh nhẹn. Vừa được thả ra nó đã vươn cổ đánh một đòn gió và liệng đi vài vòng đẹp tuyệt. Tiếng vỗ tay ran lên cổ vũ cho cho điệu “ ra ràng” của nó. Tôi nhìn sang thằng Dề. Mặt nó chẳng nói lên một điều gì cả.  Một tay vẫn ôm con Lý Quỳ, một tay nó vỗ nhẹ lưng con gà yêu như muốn nói: Cứ bình tĩnh, rồi sẽ đến lượt mày thôi. Con Võ Tòng được bố thằng Dề buông ra. Với cái vẻ dạn dày chiến trận, con Võ Tòng không hề điệu đàng, cũng chẳng tỏ vẻ nôn nóng. Nó khoan thai tiến lên vài bước, cái tảng dày trước ngực ưỡn ra, bộ lông đuôi lá vả khẽ hất hất. Nó dừng lại đợi địch thủ, cái mỏ có ba múi nổi vồng thế “Tam sơn” quặp như  mỏ diều hâu vươn cao.
Tiếng hò reo chỉ thực sự bùng lên khi con xám số 21 sau một vòng liệng biểu diễn đã bất ngờ áp sát ngay đến bên hông con Võ Tòng, nhảy lên ra một đòn quyết liệt và nhanh đến nỗi con Võ Tòng nhảy né sang trái tránh, thì mi mắt bên phải của nó đã bị chiếc cựa nhọn của con xám vạch cho một vết khá sâu. Thắng được một đòn con xám lại liệng một vòng. Nhưng ngay khi vòng liệng của con xám mới gần kết thúc, con Võ Tòng đã áp ngay tới. Hình như từ cú chịu đòn đầu tiên con Võ Tòng đã biết ngay được chiêu độc của con xám là miếng đá nên nó chủ động áp sát. Con xám bị lỡ nhịp đành luồn đầu chui qua bụng con Võ Tòng rồi nhanh chóng ngoảnh lại mổ một nhát vào đầu đối thủ. Hình như con Võ Tòng chỉ đợi có vậy. Nó hơi dướn mình lên một chút. Nhát mổ của con xám trúng vào dưới cổ con Võ Tòng. Bất thần con Võ Tòng nhảy dựng lên. Con xám chưa kịp nhả mỏ,đầu nó đã bị kéo ngược để lộ ra toàn bộ khoảng diều. Tôi không kịp nhìn điều gì xảy ra tiếp theo, chỉ thấy bỗng dưng sau cú nhảy dựng ngược của con Võ Tòng thì con xám bỗng nhiên đập cánh quay tròn lông lốc. Nhưng nó chỉ quay được một chỗ. Đầu nó bị chiếc mỏ như mỏ diều hâu của con Võ Tòng ghim chặt. Một cú nhảy ngược nữa. Cái đầu con Võ Tòng cúi xuống giữ chặt đầu con xám, cổ nó cong xuống, toàn thân tung lên trong một cú đá khủng khiếp  của miếng hầu dọc. Tôi nghe tiếng người hét trong tiếng reo hò và nhìn rõ khoảng  da dưới diều con xám bị xẻ một rãnh sâu đến nỗi chiếc cựa của con Võ Tòng bị mắc vào đó làm nó bị ngã. Cả hai con đều lăn. Người ta chạy vào tóm lấy cả hai và phải khó khăn lắm mới gỡ được đầu con xám ra khỏi mỏ con Võ Tòng. Ngực con xám đầy máu, cổ nó ngoẹo về một bên.
_ Gãy cổ thế thì không cứu được. Lá chanh thôi.
Có giọng một ai đó rất quen vang lên ở sát ngay bên tôi làm tôi giật mình quay lại: bác Tộ. Bác không nhìn tôi mà nhìn con gà xám. Không hiểu sao bỗng dưng tôi thấy sợ. Mãi sau này tôi cũng không hiểu được tại sao lúc đó tôi lại sợ. Có thể là vì tôi đã nhìn thấy máu, máu thật sự của kẻ tử trận, hay vì chính cái giọng được nói  ra một cách lạnh lùng không một chút xúc cảm ấy? Tôi không biết.
Cuộc chọi gà hôm ấy kèm theo trận thắng quá nhanh của con Võ Tòng không đem lại sự hài lòng của mọi người. Người ta chờ đợi một trận thư hùng, một trận sống mái quyết liệt kéo dài kia. Chúng tôi cũng buồn. Rốt cuộc cả hai con gà của thằng Dề đều bị loại vì không tuân thủ cuộc chơi. Lệ làng là tất cả các con gà đã đăng kí đều phải cho đấu để chọn ra con vô địch. Con Võ Tòng đã thắng con xám, các con gà khác khi được thả vào sới đều bỏ chạy ngay hiệp đầu tiên. Còn lại con Lý Quỳ. Bố thằng Dề bảo: gà cùng một mẹ không cho đá lẫn nhau.

5. Kỳ nghỉ hè của tôi sẽ tiếp tục trôi đi như vậy: yên bình với những trò nghịch ngợm vô hại và nếu có một lúc nào đó tôi bị đòn thì nỗi buồn cũng chóng qua. Đúng lúc cuộc sống đang diễn ra bình yên như thế thì một chuyện xảy ra làm nhiều người trong thôn sửng sốt.
Aáy là một buổi sáng khi tôi còn đang ngồi vét cơm nguội thì thằng Quyết và thằng Dề chạy vào báo một tin động trời:
_ Con tàu của chúng mình bị chiếm rồi.
_ Ai chiếm? – Tôi ngạc nhiên.
_ Ông thằng Túc!
_ Xì… Bọn mày nói phét. Thằng Túc làm gì có ông?
_ Sao không? Ông nó bỏ làng đi từ lâu lẩu lầu lâu rồi, ai cũng bảo chết. Bây giờ về rồi,  ông ấy về và chiếm con tàu của bọn mình để ở. Cả làng người ta đang nói, mày không biết sao?
Tôi lặng đi. Cái tin này quả quá sức tưởng tượng của tôi. Tôi nhìn mặt hai đứa. Chúng có vẻ không đùa. Chúng tôi kéo nhau ra sông. Con tàu vẫn đó. Những con sóng vẫn bình yên vỗ vào bờ cát, vỗ vào mạn tàu. Con tàu không trả lời. Nó im lặng nằm, mỏi mệt nghiêng về một bên lợi nước. Cát đã bám được nó và đang hút dìm nó xuống. Đã bao năm rồi con tàu vẫn im lặng, một sự  im lặng gần như kiêu kì, nhẫn nhục. Nó giống như một viên tướng già đang sống những ngày cuối đời: phẫn chí và cô độc. Những lớp sơn chống gỉ cuối cùng cũng đã bong ra. Ơû một đôi chỗ, lớp vỏ sắt bọc ngoài đã bị những con hà đục thủng. Trước cửa buồng lái, nơi xưa kia chắc vẫn thường xuyên kiêu hãnh phản chiếu ánh nắng mặt trời trên những tấm kính trong suốt, bây giờ trống không như một đôi mắt chết. Đôi mắt ấy ngày đêm mở to nhìn thẳng về phía trước, nhưng chẳng thấy gì cả.
_ Vẫn nguyên đấy thôi! – Tôi ngạc nhiên.
_ Nguyên là thế nào. Mày nhìn thấy cái ván cầu không? – Thằng Dề bấm và chỉ cho tôi.
Quả có ai đó đã bắc từ  bờ lên tàu một cái ván cầu thật.
_ Chúng mình ra tận nơi xem sao đi.
_ Đừng. Người ta đang cấm đấy.
_ Ai cấm?
_ Người ta!

6.  Đến tối khi mẹ tôi về thì mọi chuyện đã rõ…
Lão Tác người làng tôi, nhưng lão đã bỏ làng đi từ tận những năm năm sáu, năm bảy gì đó. Hồi ấy lão cũng đã có vợ con (bà Tác và bác Tộ bây giờ), có một nếp nhà và một mảnh vườn để cày cuốc. Nhưng lão đã vứt tất cả đấy để theo người ta đi buôn. Nguyên nhân nào đã thúc đẩy lão làm chuyện đó? Có phải lão mơ một cuộc làm giàu nhanh chóng, hay bị quyến rũ bởi những câu chuyện ly kỳ hồi hộp của đời sông nước mà đám khách buôn đường thuỷ thường đem ra kể với nhau và với đám dân làng ra chơi bên những bếp lửa đồt rải rác trong đêm trên suốt dải triền sông này? Hay chính cảnh sống lầm lụi, bấp bênh của đời cày cuốc đã làm lão hoảng sợ, chán ngán và cuối cùng đã rứt lão ra khỏi nơi lão đã sinh ra, để ném vào cuộc đời nay đây mai đó. Không ai biết. Bởi lão đi rồi đi biệt. Chỉ có những tin đồn bay về. Có người bảo gặp lão làm thầu gỗ ở phố Lạng, giàu lắm. Có người bảo thấy lão đang buôn da thú ở mãi Lào Cai, năm ngón tay đeo đầy nhẫn vàng. Lại có người nói, chính họ đã tận mắt nhìn thấy lão đi gánh đồ thuê cho một gánh xiếc rong bán thuốc cao dán, rách rưới và gầy ốm. Cuối cùng, một người bà con đàng ngoại lão làm nghề mộc trên Thái Nguyên về cho biết là lão hiện đã lấy một người vợ khác. Đó là một người đàn bà bị chồng bỏ vì không có con, làm nghề buôn bè và rất giàu. Lão Tác sống với người đó và cả hai vẫn tiếp tục buôn bè. Chuyện ấy sau được nhiều người khẳng định là đúng..
Còn bây giờ thì lão Tác đã trở về thì  tất cả lại mù  tịt. Chả ai biết vì sao lão lại về. Liền mấy buổi tối, thím Quyết sang nhà tôi chơi. Câu chuyện giữa thím với mẹ và bà tôi quanh đi quẩn lại vẫn xoay quanh việc lão Tác trở về. Tôi chui vào màn, vờ ngủ nhưng tai thì dỏng lên.
_ Thế ý bên bác Tộ thế nào, thím nghe động tĩnh gì không? – Mẹ tôi hỏi. Thím Quyết lắc đầu:
_ Tôi chả hiểu nữa. Mấy lỵ, bác ở liền kề đây mà con không biết nữa là.
_ Kể thì cũng có  cái khó. Bây giờ rước ông lão về… Thím không biết chứ ngoài làng ngoài xóm người ta cũng “ý kiến” ghê lắm. Người thì bảo nên ra đón ông lão về cho có nhân. Người lại: cứ thây kệ cho lão chết. Aùc giả ác báo. Đang tự dưng ruồng rẫy vợ con mà đi. Với, bây giờ thân tàn ma dại lão mới chịu mò về,chứ hồi ăn sung mặc sướng vàng bạc đầy người, có bao giờ lão gửi về cho mẹ con bác Tộ được mảy  trinh nào? Đấy, khó thế… _ Mẹ tôi bảo với thím Quyết vậy.
Thím thở dài:
_ Ừ, sống mỗi người mỗi nhà, chết mỗi người mỗi mồ. Cái cảnh của người ta ở đời nó cũng nhiều nỗi éo le lắm, mình là người ngoài khó có thể nói dễ được. Lắm lúc tôi cứ nghĩ, thật lạy vong linh ông ấy nhà tôi, chứ ông ấy chết đi như vậy lại còn mát mẻ hơn là sống để rồi có lúc trở về như nhà kia…
Nói rồi thím Quyết lại thở dài lắc đầu. Tôi biết thím đang chạnh buồn cho cái cảnh mình.
Thím Quyết cũng là người đàn bà có cái cảnh buồn lắm. Chồng thím là cán bộ cẩn thận, nhưng sau cũng ruồng rẫy thím để đi lấy vợ khác trên tỉnh. Hồi đầu năm ngoái có tin là chú ấy đã mất vì bệnh ung thư gan. Ngày ấy thím cũng khóc, và sau cũng thấy đội khăn trắng. Trong làng có nhiều người cười thím về chuyện này, cho rằng người ta đã bội bạc với mình vậy thì tội gì mà tang với chả tóc cho nặng mình. Nghe thế thím chỉ buồn buồn:
_ Nghĩa tử  là nghĩa tận. Mình giận người sống, chứ đâu nỡ giận người đã chết!
Mẹ tôi cho việc thím xử sự thế là đúng. Nhưng còn việc của lão Tác thì hình như cả thím, cả người lớn trong nhà tôi lại đều có vẻ như lảng tránh và ngại một điều gì đó.

7.  Tôi gặp thằng Túc ở ngõ:
_ Ông mày về à?
_ Không phải.
_ Đúng đấy. Ông mày về đang ở ngoài sông ấy.
_ Không phải!
_ Mày không thích có ông à?
_ … Không… có, nhưng mà bố tao bảo không phải ông ấy.
_ Mày có đi với tao ra sông không?
_ Không. Bố tao cấm.

8.  _ Cao, sáng nay mày đi chơi đâu? – Mẹ tôi hỏi.
_ Con … con đi chơi… ở trường.
_ Ở trường hay ở ngoài sông? Tao nghe nói mày xuống cả tàu chơi? – Mẹ tôi trừng mắt.
Tôi giật mình.
_ Thằng này giỏi thật. Ai cho mày ra đấy? Liệu cái thần hồn đấy. Từ nay là tao cấm chỉ, nghe chưa!
Tôi im. Quả sáng nay tôi có ra sông thật. Đang lúi húi rình đôi chim trả xem tổ nó ở  đâu, bỗng tôi nghe tiếng chân người. Tôi nhìn lên. Một ông già lạ.
Muốn bắt chim trả thì phải rình lúc trời sắp tối,lúc ấy nó mới về tổå,chứ sáng thế này nó còn mải đi ăn, có bắt được chó!
Tôi ngạc nhiên. Sao ông biết tôi muốn bắt chim và ông là ai? Tôi nhìn kỹ. Ông lão mặc chiếc áo “ba đờ xuy” màu xám đã cũ. Người gầy. Mặt có những vết sẹo dài suốt từ đỉnh đầu tới cổ. Giống vết dao chém? Không phải, giống như bị con thú nào cào thì đúng hơn. Khiếp.
_ Để rồi lúc nào tôi sẽ bày cho cậu làm một cái bẫy dính. Có bẫy dính thì đến cò cũng bắt được! 
Ông lão lại nói, giọng khàn nhưng rõ. Và tôi chợt yên tâm khi nghe cái giọng như “bè bạn” ấy!
_Nhà ông ở đâu?
_ Nhà thì đã là cái chó gì. Tôi không có nhà mà có cả một con tàu cơ!
Tôi giật mình. Ô, hay là…
_ Ông ở trên tàu ngoài sông à?
_ Cậu cũng biết con tàu ấy à?
_ Của chúng cháu đấy! – Không hiểu sao tôi bật ra một câu như vậy. Nói rồi tôi lại hơi sợ, nhỡ ra … Nhưng không, ông lão có vẻ lại thích nữa. Ông ngồi bệt xuống bờ cỏ, bên tôi, cặp mắt nheo lại như cười.
_ Tôi cũng đoán vậy. Chắc các cậu vẫn ra đấy để “bông nhông” chứ gì? Mà sao mấy bữa nay không thấy cậu ra? – Lão hỏi, cặp mắt vẫn nheo nheo.
Tôi biết lão là ai rồi.
_ Chả là tôi thấy trên tàu có mấy chỗ đang bị hỏng. Tôi nghĩ là … có lẽ phải có người ở thường xuyên đấy mà trông nom, tu sửa… Cậu cho tôi “CHUNG” với nhá. – Lão nói và chìa bàn tay ra.
_ Sao ông không về nhà với bà và với bác Tộ? – Câu hỏi tự nó bật ra, chứ thật tình tôi không muốn.
Lão Tác nhìn tôi một lúc. Có lẽ tôi đã làm lão ngạc nhiên.
_ Cậu con nhà ai? – Lão hỏi, giọng rất khẽ, khẽ như sợ ai nghe thấy.

Tôi nhìn ra xung quanh. Trên đường có mấy người đi chợ, nhưng họ ở rất xa. Tôi nhìn lão. Aùnh mắt lão hiền, giống như mắt bà tôi. Tôi thấy yên tâm. Tôi nói cho lão biết rằng tôi “LÀ ĐỨA NÀO”, rằng nhà tôi với nhà bác Tộ chỉ cách nhau cái dậu râm bụt, và tôi còn học chung với thằng Túc con bác Tộ nữa.
_ A, vậy ra cậu với tôi là hàng xóm! – Lão như reo, nhưng giọng vẫn khẽ. – Thế thì ta phải ăn mừng cuộc gặp mặt này mới được! _ Lão Tác nói và vội vã lục túi áo khoác. Tôi thấy lão khoắng tay trong túi một lúc rồi lúng túng chìa ra hai bàn tay không: - Chết nỗi, xin lỗi cậu. Rõ tôi chả ra cái thá gì. Có nhiều thứ ngon lắm cơ đấy, nhưng mà tôi để quên hết trên tàu mất rồi… hay là… _ Lão có vẻ ngập ngừng. Đột nhiên lão nắm lấy tay tôi: - Hay là ta xuống tàu của CHÚNG MÌNH đi.
Tôi rất muốn rụt tay lại. Tôi hơi sợ. Tôi nhìn lão. Mắt lão giống mắt bà tôi. Giống cả mắt con Đốm khi ngày nào nó ngồi bên cùng ăn chung với tôi chiếc bánh chưng cóc nữa.
Cho đến mãi sau này, khi cả một khoảng thời gian dài đã trôi qua, và dù đã lớn khôn tôi vẫn không sao lý giải nổi điều gì đã khiến tôi, sau cái nắm tay và cái nhìn như cầu khẩn của lão Tác, đã im lặng đứng lên cùng lão đi về phía bờ sông. Có lẽ đó là sự bày đặt có pha chút bỡn cợt của số phận. Số phận đã chìa bàn tay vô hình của nó ra, sắp xếp, để trong một buổi sáng đầy nắng và gió, ba chúng tôi: Một lão già cũ kỹ, một con tàu cũ kỹ và một thằng bé, ngồi lại với nhau nơi mặt nước cứ ánh lên như có trăm ngàn mảnh gương vỡ và những con lũ đầu mùa đang hối hả chảy về một nơi nào xa lắc.

HOMECHAT
1 | 1 | 132
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com