| Chỉ mục bài viết | 
|---|
| Khói Trời Lộng Lẫy | 
| Trang 2 | 
| Tất cả các trang | 
Khói Trời Lộng Lẫy
Tác giả: Nguyễn Ngọc Tư
1
 Nghe tiếng mưa khi  mưa hãy còn xiêu xiêu ngoài sông, rồi mưa băng qua bờ lá có căn chòi  hoang ở phía Nam cồn, ào vào bãi đất xơ rơ những thân lau sậy cháy, giờ  thì mưa đã dội trên mái nhà, trượt theo những đuôi lá mục mưa thả mình  vào đất. Khe vách rách rã chẻ mỏng những ngọn gió ướt, chém ngọt qua  người, lạnh rởn lỗ chân lông.
 
Tôi  lụi hụi ngồi dậy đắp mền cho thằng Phiên. Tấm mền ngắn ngủn, mong ấm cổ  thì hở chân, che kín đôi chân thì phong phanh vai trần. Lại chạm tay  vào nó như thường chạm khẽ trong đêm. Có lúc thằng nhỏ hơi mỉm cười, có  lúc nó càu nhàu rồi lăn sát vách mùng, có khi nó quạu quọ gạt tay tôi  ra. Nó phản ứng kiểu nào tôi cũng vui bởi ý nghĩ, nó còn ở bên tôi.
 
Nhưng  khuya nay, khi tay tôi vờn trên cái mũi lấm tấm mụn của Phiên, khi cái  đầu gối xương xẩu của nó co lại thúc vào sườn tôi đau nhói, vẫn cảm giác  thằng nhỏ đang rời đi xa lắm rồi. Nó đi trên chiếc xáng cơm cùng những  gã đàn ông lạ. Chiều qua, chiếc xáng đã nhổ neo rời khỏi cồn. Nhưng mưa  mùa triền miên cùng với những cơn giông gió cũng không ngăn được nó quay  lại, càn rướn vào rặng ô rô rách bươm.
 
Và  không có gì ngăn gã đàn ông trên chiếc xáng kia tới tìm tôi, với vẻ  nham nhở thường ngày, hỏi tôi suy nghĩ tới đâu rồi. Nham nhở như gã của  ba ngày trước, khi chìa ra một vuông báo cũ ố vàng và khiêu khích hỏi  tôi có gì để đổi không. Mảnh giấy nhỏ nhoi ngó chừng vô nghĩa nhưng gần  như tôi không có gì đáng giá đánh đổi, ngoài chính tôi. Gã chỉ chờ đợi  điều đó thôi, khẽ cười đắc thắng.
Nhưng tôi câm lặng  không phải vì tuyệt vọng mà vì những bức ảnh trong bài báo phất phơ trên  tay gã. Ba tôi, Anh, và tôi của ngày hai mươi ba tuổi. Tấm hình tôi dán  trong bộ hồ sơ xin việc, mặt quang quẽ, tóc vén lên vành tai, nhìn  thẳng, hơi mỉm cười nhưng mắt tối. Trên bài báo, ba cái ảnh nằm gần như  cạnh nhau, nhưng hai người kia đang tuyệt vọng tìm tôi. Ngày trên trang  báo dừng lại ở mười ba năm trước.
Ngày hai mươi ba  tháng tám. Không biết bữa đó tôi với Phiên đang ở trên chuyến xe đò nào  trong một lộ trình trốn chạy. Ngày hôm đó, có thể chúng tôi đang ôm nhau  ngủ còng queo trong một toa xe lửa hôi sặc cứt gà, một phòng trọ mốc  meo, có thể chúng tôi đang ngồi tàu đò, lúc đi qua cái cồn xanh mịt  những rặng dừa nước, rặng bần có ai đó thở dài ứ hự, “cho tui nhiêu tiền  cũng không lên cái cồn Bần này ở, buồn thấy mẹ…”, tôi liền kêu tàu ghé  lại. Anh tài công xửng vửng, chắc hôn vậy, chắc chỗ này không, tôi gật  đầu cười, bồng Phiên bước lên bờ, nói về tới nhà rồi, cưng ơi.
Chiếc  tàu de khỏi bờ lá, Phiên vẫn đang ngái ngủ trên vai tôi, không biết  rằng từ nay nó sẽ sống một cuộc đời khác, với cỏ cây, với sông nước, và  vài ba nóc nhà thưa thớt của xóm cồn.
2
 Khoảng  cách ngàn cây số cũng không ngăn được những chiêm bao. Có thể ban ngày  tôi thường nhớ, khi ngó cỏ cây, nhìn những người xóm Cồn í ới giúp tôi  lợp nhà, ven vách, nhìn Phiên lửng đửng đi từng bước trên đất… tất cả  đều quen thuộc. Như những gì cất giữ ở Viện di sản thiên nhiên và con  người.
Mỗi chiêm bao là một lát cắt, một cảnh phim  dang dở về nơi đó. Có khi tôi thấy vía mình ngập ngừng đi vào một tòa  nhà cũ chìm lút trong một khuôn viên um tùm cây cỏ. Qua mấy bậc tam cấp  gãy nứt nối với khoảng hành lang hơi tối có vài căn phòng khép cửa. Cuối  lối có mảnh sân rộng nằm giữa tòa nhà, nắng sáng rót lưng chừng. Nhiều  tấm pano được treo trên bốn bức tường vây quanh, giăng giăng những khẩu  hiệu, bên này là “giữ gìn cái đẹp của nhân loại như giữ nhịp đập trái  tim mình”, “cái đẹp thường mong manh và tàn nhẫn, chúng ta sẽ chạm vào  điều kỳ diệu giữa cơn đau”, bên này là “cần có một tâm hồn lớn để cảm  thụ những cái đẹp cuộc đời”. Chữ nào cũng chắc nụi, lớn lao.
Vía  tôi bị chữ hù, cứ hí húi đong đếm coi tâm hồn mình bao lớn, rồi vía  thấy một dòng chữ khác được đắp nổi lên tường, “Không có gì là mãi mãi,  hãy cất giữ thế giới này”. Vía tò mò, hồi nhỏ tới giờ chỉ biết đất nước  muôn năm, anh hùng muôn năm. Ở đây họ nói không có gì là mãi mãi.
Tò mò quá, vía đẩy cửa vào.
Và  trong những chiêm bao hao khuyết tôi từng đêm, những cánh cửa của tòa  nhà Viện di sản thiên nhiên và con người luôn mở ra rất chậm, sau tiếng  kèn kẹt là vùng ánh sáng chói lòa, như thể phía tôi là bóng tối.
Khi  đó thằng Phiên lăn sát vào tôi, hay chân nó đập xuống giường trong lúc  trở mình làm tôi thức giấc, ký ức vẫn tiếp tục mở ra những cánh cửa, mở  ra những rung động, bất ngờ. Một vài căn phòng giống như biển, ngay lập  tức khiến tôi chìm sâu, ngộp thở, nhưng tôi hoàn toàn không muốn vùng  vẫy, chạy trốn. Lý do đôi lúc chỉ vì trong đó có người đàn ông giống như  một người nào đó tôi đã gặp trong đời, một người tôi đã mất dấu.
Nhưng  người đàn ông phỏng vấn tôi hôm xin việc không tỏ ra chút nào quen  biết, anh ta hờ hững và xa lạ, lơ đãng khép mở hồ sơ trên tay, lơ đãng  hỏi một câu lơ đãng, em có kinh nghiệm gì?
Trời, kể  hết chắc tới mai. Tôi đã từng rửa chén và phục vụ ở nhà hàng, sơn tường  nhà, phát tờ rơi, chăn trẻ con, xé vé ở rạp chiếu phim… và tôi còn có  khả năng tươi cười, bất kể hoàn cảnh nào. Nhưng chẳng hiểu sao khi anh  gác chân còn lại lên bàn, tôi lại nói ra một kinh nghiệm kỳ lạ :
-Tôi lắng nghe người ta nói.
-À, vụ này hay nghen, vậy chớ em nghe làm sao?
Tôi  nhìn mấy tờ giấy bay lắt xắt trên bàn, và nghĩ mình có quyền nói dóc là  trực đường dây nóng cho sản phẩm dầu gội hay thuốc diệt muỗi abc nào  đó. Nhưng tôi ngước lên, cố bắt chước vẻ giễu cợt của anh ta, làm bộ  điều tôi nói ra đây không quan trọng, “ cũng lâu lâu rồi, tôi có làm bồ  mướn ”.
À, người đàn ông không biến sắc, anh ta làm  như mới nghe nói tới nghề này lần đầu, nói lạ quá, em kể thêm chút nữa  đi. Tôi dùng hết vẻ thản nhiên mà tôi vơ vét được, thuật một câu chuyện  mà tôi biết nó chán òm. Có lúc không tìm ra học phí, bạn bè nói làm bồ  mướn cũng có tiền, rồi giới thiệu cho tôi một anh. Chúng tôi gặp nhau  không đem quá khứ theo, không có cả tên, gọi anh ơi em ơi như mặc nhiên  tên họ là Anh tên tôi là Em. Những cuối tuần, tôi nín thở chờ điện thoại  run lên và Anh nói sẽ đón. Chúng tôi đi ăn, uống, đi tới những cái quán  nước vắng người để ngồi chơi. Có khi anh nói, tôi nghe. Có khi Anh  không nói gì thì tôi im lặng, im lặng cũng là cách lắng nghe. Cao trào  của mối quan hệ này là một lần Anh bật khóc nên tôi cho mượn vai. Tóc  Anh hơi rối làm cổ và má tôi nhột ran, cả người tê dại, nhưng tôi cố  chịu, vì tôi là bồ mướn. Nên vai này coi như được trả tiền rồi.
-Chúng tôi… không đi xa.
-Đi xa là đi đâu? – Lại giễu cợt.
-Từ eo tôi trở xuống.
Tôi  quyết định dừng câu chuyện ở đó, giữ đoạn cuối trong lòng. Sau bữa cho  mướn vai, tôi bỗng nghĩ, thôi kệ, đi xa cũng được, nhưng Anh không bao  giờ gọi nữa. Không có tăm tích nào trên đời, như một giấc mơ vậy. Tôi  buồn xanh xương. Không bao giờ tôi hình dung mình gặp lại giấc mơ xưa  trong căn phòng này, vẫn gương mặt phớt đời, vẫn cái nhìn ngạo nghễ, và  vẻ lạnh lẽo xa xôi.
Tự dưng, tôi thèm muốn tìm được  một công việc nào đó ở đây, quét lá cây trong vườn cũng được. Buổi phỏng  vấn là một cơn nín thở, và òa vỡ khi người đàn ông xốc xấp giấy tờ lại,  bắt tay tôi :
-Từ giờ cô sẽ lắng nghe thiên nhiên nói.
Cái kiểu bắt tay cũng hờ hững, đầy vẻ ban ơn. Tôi không thấy phiền chút nào hết. Tôi vui muốn chết.
 
3
 Chuyện  đời tôi được người xóm Cồn đồn đoán, thì thầm rằng, yêu một người bị  gia đình phản đối, tôi bất chấp trốn nhà theo anh ta, sinh thằng Phiên,  rồi bị anh ta bỏ, không biết đi đâu về đâu, tôi tạt qua xóm Cồn ở tạm,  chờ ba má tha thứ tôi sẽ dẫn con về. Chưa bao giờ tôi kể, nhưng ánh mắt u  tối của tôi, thằng nhỏ đang lẽo đẽo dưới chân tôi, kiểu cười tránh  những câu hỏi khó, tất cả đã nói thay.
Rằng tôi tới  đây chờ đợi một sự lãng quên, giống ông Sáu Câu từng chịu án giết người,  giống chị Thắm lẩn tránh những đòn ghen của bà vợ lớn, giống chị Thiện  bỏ lại ở quê chồng con và món nợ hụi hè … Những người mà họ nợ dù tình  cảm hay tiền bạc, biết họ ở đây, nhưng không ai đuổi theo. Cái cồn nằm  giữa dòng sông Mê mênh mông, tự nó như một chốn lưu đày.
Chân  trời chỉ nước và cây, mặt trời mọc trên sông rồi lặn vào sông, bờ Bắc  bờ Nam nhiều bụi rậm mọc hoang lẫn trong những chòm cây cối. Chiều nào  bìm bịp kêu, nắng chìm lỉm theo. Tôi hay nhìn về đó, tự hỏi người ta còn  tìm kiếm tôi không?
Một ông già vác cần câu đi qua, hỏi tôi, nhớ nhà hả cô?
 
4
Tôi  nhớ vài căn phòng, ám ảnh và xao động, như kho lưu trữ của Viện di sản  thiên nhiên và con người. Nhà kho rộng, nhiều cái tủ kệ cao đến tận trần  nhà, chạy song song tạo nên những lối đi hun hút. Trên kệ người ta xếp  hàng ngàn khay dữ liệu, tất cả được ghi chú bằng những ký hiệu lạ lùng.  Những thiết bị nghe nhìn đặt rải rác ở các góc phòng. Khi tôi chạm tay  vào chúng lần đầu tiên, bằng tất cả nôn nóng tò mò và bối rối, tôi chỉ  có thể nghĩ, chắc mình chết ở đây luôn quá.
Nhốt mình  trong đó suốt một tuần, và sau này, khoảng thời gian nghỉ giữa những  chuyến đi, tôi gần như chọn kho lưu trữ của Viện là chỗ trú chân, vạ  vật. Tôi luôn thấy tiếc nuối khi rời đi khỏi căn phòng đó như hay tiếc  nuối khi rời khỏi mộ mẹ tôi. Khi lục lọi những khay này, tôi đã dòm ngó  qua khay bên cạnh, bên đó không biết có cất giữ những hoa lau óng muốt  dưới nắng, có đàn cò trắng bay qua trăng chiều, mớ lục bình rách nát  trôi ra cửa biển, không biết có ông già rớt nước mắt thổi khèn vờn quanh  bà già trong phiên chợ… Lẫn giữa sự háo hức là nỗi tuyệt vọng, có thể  hết đời này tôi sẽ chẳng bao giờ thưởng thức hết những hình ảnh, âm  thanh đẹp đẽ và rung động của cuộc sống đang được lưu lại nơi này.
Họ vẫn đang làm đầy nó lên.
Và tôi sẽ làm đầy nó lên.
Hồi  làm bồ mướn, có lần tôi lén lấy điện thoại thu tiếng nói Anh, buồn buồn  lấy ra nghe chơi. Mà nghe lần nào cũng có cảm giác đói, đoạn âm thanh  ngắn là tiếng muỗng chao leng keng trong ly cà phê đá, và Anh lơ đãng  hỏi, “ đói bụng không? ”, tôi nhớ khi đó mình đã ứa nước mắt, giả vờ  cúi xuống cột dây giày. Tôi hay cảm động với những câu hỏi như đói bụng  không, ăn gì chưa…
Công việc của tôi ở Viện cũng gần  giống vậy, tìm kiếm và ghi chép những âm thanh, hình ảnh giản dị của  cuộc sống được cho là có giá trị, đáng lưu giữ. Nó có thể như một cái  phim tài liệu nhỏ có mở đầu và kết thúc, hay chỉ là lát cắt bất chợt của  mưa, gió, của lá rụng hay những bông hoa lăn trên cát…
Tôi  rời căn phòng nhỏ trên tầng thượng cư xá sinh viên, nơi tôi làm ổ bốn  năm học và thêm một năm tìm việc. Nhiều đêm buồn quá, tôi giả làm tượng  phơi sương, rình coi những đôi chim heo yêu nhau, lá cờ bay bên tai rười  rượi. Hôm gom mớ hành lý hẩm hiu cùng di ảnh của mẹ đi, tôi ghi lại  tiếng cờ bay, coi như là mẫu đầu tay, mang về Viện. Anh trưởng phân ban  của tôi râu tóc rối bời, lúc nào cũng bỏm bẻm nhai kẹo cao su, nghe xong  anh vạch bụi râu ra cười, “ Buồn hen nhỏ, nghe cô đơn dã man, đâu đem  duyệt thử coi…”. Tôi luôn chờ đợi những cơ hội nhỏ nhoi đó, được tới gặp  anh Viện phó mà tôi thương thầm, với lý do chính đáng. Và vẫn như mọi  khi, anh này giễu cợt, chậm rãi và tàn nhẫn, làm tôi chết mê chết mệt.
-Kiếm sọt rác nào xấu nhất quăng cái này vô, xong đi tìm cho tôi những gì sắp mất, ngoài kia nhiều lắm…
Tôi gật gật làm ra vẻ đã hiểu rồi, nhưng “ ngoài kia ” chính xác là ở đâu? cái gì sẽ mất?
Có  nhiều câu hỏi người ta tốn cả đời để trả lời, thí dụ như câu “Anh có  thương em tới chết mới thôi không? ” Tôi nghi ngờ mẹ tôi đã từng hỏi  cha tôi câu này, hồi còn con gái. Cha tôi thấy khó nói quá, thôi cúi  xuống khóa môi mẹ tôi cho rồi, có ai vừa làm chuyện đó vừa nói được đâu.  Tôi thò đầu ra đời, mẹ mừng húm, tưởng tình yêu trả lời. Nhưng cha tôi  cùng chiếc xe tải bèo nhèo bán cây giống chỉ quay lại xóm Chiếc vài lần,  thưa, thưa dần và cha tôi không tới nữa, khi tôi bốn tuổi. Tôi bắt đầu  hỏi một câu dễ òm, “ mẹ ơi, cha con đâu? ”, mẹ ngó ra sân, nói con  chuồn chuồn đẹp quá. Cũng có khi mẹ chỉ vào vách và nói thằn lằn cụt  đuôi kìa con. Tôi rượt đuổi theo những vu vơ của mẹ suốt thời thơ ấu,  cho đến khi ngơ ngác đội khăn tang đi trong một đám ma ít người đưa, vẫn  không nhận được lời đáp. Tôi hay nghĩ, nếu hôm đó chiếc xe khách không  hất mẹ văng bên đường, chắc chắn buổi tối lại mẹ sẽ kể cho tôi nghe  chuyện về cha tôi. Nhưng buổi tối bị bỏ lỡ, câu hỏi đó vẫn được day đi  day lại, và tôi trả lời theo cách của mình. Như khi mợ tôi tỏ ra hờn  giận, “ nhà hết gạo rồi, chừng nào ba mầy về dẫn mầy đi? ” tôi cười nói  trưa nay con không ăn cơm, hồi sáng ăn mấy củ khoai còn no quá chừng.  Như những lần sắp nhập học, mợ nhắc, “ không biết chừng nào ba mầy quay  lại…”. Tôi nhẹ nhõm cười, hồi hè con đi làm kiếm được ít tiền, con tự  đóng tiền trường được, mợ khỏi lo… Nói trớt quớt, nhưng mợ hài lòng.
Hồi  đó tôi đã biết một câu hỏi có năm bảy kiểu trả lời, giản dị nhất là  toét miệng ra cười, khỏe nhất là kêu “ đi hỏi ổng ”, phức tạp nhất là đi  mấy chặng xe lớn nhỏ tới một chợ xã lún trong bụi đất đỏ, gặp một người  đàn ông tóc vuốt dầu mướt rượt bảnh bao, thảnh thơi ngồi chơi bài “  tiến lên ”, góc nhà có hai đứa nhỏ đang cự nự. Vợ ông trạc tuổi hơn mẹ  tôi, bưng ra cho tôi ly nước hột é, hỏi em cưng kiếm ai ở chợ này, tôi  ngó người đàn ông nói, dạ cháu cũng quen sơ sơ thôi, giờ mưa quá nên hết  quen rồi. Năm đó tôi mười bốn tuổi, đã bắt đầu tự mình tìm kiếm câu trả  lời, những khi thấy lòng thắc mắc.
Giờ tôi đang thắc  mắc cái đẹp nào đang và sắp mất. Để tìm câu trả lời, tôi bắt đầu rời  khỏi thành phố, bắt đầu những chuyến đi xa. Vì thành phố đã xua đuổi  thiên nhiên đi xa.
Tôi thường tần ngần ở ngã ba,  không biết mình nên bắt đầu từ đâu. Chung quanh tôi quá nhiều vẻ đẹp,  đừng nói dấu mưa xoi khuyết những viên gạch trần, hoa bìm bìm lợp tím  rịm cả một chòm cây, vạt rừng bướm bay như trấu vãi… với tôi, cây cỏ cứt  heo mọc bên đường cũng đẹp. Nhưng những vẻ đẹp này trong kho lưu trữ  Viện đã chật đầy, tôi vẫn phải loay hoay.
Một bữa,  khi rửa đôi giày bê bết bùn sình bên sông Ba Bẩy, tôi nghĩ, không biết  dòng nước này đang mang bụi đường này chảy về đâu, sao mình không theo  nó thử coi. Nước cứ men theo bờ bụi chảy hoài cong cong quanh quanh, có  đoạn nhập vào nhánh sông khác rồi lúc sau lại rẽ. Những biến hóa bất ngờ  cứ xỏ mũi dắt tôi đi, dòng chảy lúc cuống quýt lúc nhởn nhơ, hoa cỏ bên  bờ, những xóm làng bên bờ… Có tối tôi nằm ém gần bụi chùm gọng hàng  giờ, chỉ để chờ con bìm bịp trong đó cất tiếng kêu cho bầy đom đóm hết  hồn bay lên lả tả. Có trưa ngồi coi nước lên, thấy vài sự sống tình cờ  từ những trái mấm đi hoang kẹt trong miệng hang của con cá thòi lòi, bén  rễ luôn ở đó ; một trái dừa chuột khoét trôi ngang qua, chở theo con  chàng hiu ngồi thom lom, mặt nó buồn vô phương, như thể hỏi rồi đời đưa  ta giạt về đâu?
Dọc đường, gặp người tôi cũng xáp vô  làm quen. Tôi theo những người chài cá chốt giấy, tường thuật luôn một  vụ giỡ chà, rồi nhảy qua chiếc xuồng be chín có cắm tàu lá dừa làm buồm  cho gió đẩy đi, lai rai với ông già vừa uống rượu vừa ung dung cầm lái.  Tôi còn rình được thằng nhỏ vừa thót lên cất vó thì cái quần đùi giãn  dây thun bị tụt, nó quýnh quáng buông càng vó chụp quần lại, làm cái vó  úp trúng chiếc xuồng chèo ngang qua, tiếng rầy la dậy động.
Tôi  về nói bên mộ mẹ, lúc này con làm mấy chuyện tào lao lắm, mắc cười lắm.  Mẹ tôi im lặng, kiểu của mẹ dù sống hay chết, dù chung quanh mẹ người  ta đang nhộn nhạo nói cười. Ngày tôi bỏ quê đi ngôi mộ còn nằm tuốt  ngoài đồng, giờ thì lọt thỏm giữa một xóm nhà, muốn ra thăm phải chen  bên hè của một quán nhậu có rèm che. Đi qua lần nào cũng có người níu  lại, kêu cầm mớ tiền rồi đem cái mả đi, chớ giờ người ma lộn xộn xà  ngầu, hết phân biệt nổi. Đi qua lần nào cũng có cô nào đó giòn tan than í  nhột nè quỷ sứ anh, tiếng đàn ông cười khơ khơ anh khát sữa lắm cưng  ơi, lẫn trong tiếng nôn ói ồ ồ đằng sau.
Dòng kinh  trước nhà ngoại tôi người ta chặn lấp, những chỗ còn lại thành những ao  tù đầy nước, ai đó cắm bảng “ cho mướn nền ”. Tôi sực nhớ ra thân phận  của con sông Ba Bẩy tôi vừa đi qua. Bèo thôi trôi, chỉ còn người trôi,  chắc chắn có mấy cô í nhột nè quỷ hà. Di sản của con sông chỉ là hình  ảnh mà tôi vừa nhặt nhạnh được.
Và những vẻ đẹp được  nhốt trong phòng lưu trữ của Viện là những tiếng kêu thét tuyệt vọng,  bất lực trước mất mát, sự run rẩy của nỗi buồn, bởi quá nhiều thứ ta sẽ  không bao giờ thấy lại ngoài đời. Anh đạo diễn phim sẽ tới đây để tham  khảo những âm thanh của khu rừng nguyên sinh ngàn năm tuổi cho bộ phim  mới. Tôi sẽ đưa cháu mình tới, chỉ cho chúng biết kia là chim sẻ, kia là  núi, còn đây là chiếc xích lô, xe thổ mộ hồi xưa ngoại từng ngồi, hơi  xóc tí nhưng hay lắm, thơ mộng lắm… Cứ vậy, tôi hình dung mông lung, rồi  bỗng dưng ăn gấp thở gấp ngủ gấp. Tôi muốn nhanh tới những dòng sông,  cánh đồng khác. Chỉ khi nào nhớ anh sếp ngạo mạn, tôi mới trở về cơ  quan, bước vào căn phòng anh, xổ ra bàn mấy chục mẫu, ngẩn ngơ lén ngó  anh ta rồi quay ra.
Có khi anh ngó lom lom, chui vô chỗ nào mà gai quào rách con mắt vậy?
Có khi anh nói, hèn chi mấy sạp giày ngoài chợ bán buôn ế ẩm…
Tôi  ngúc ngoắc cái ngón chân thò ra khỏi chiếc giày rách, cười rưng nước  mắt, bước ra ngoài, nghĩ, trời ơi ảnh dễ thương hết sức. Rồi tôi đi ngủ,  cốt giữ nước mắt lại. Tỉnh dậy nhiều khi thấy có tấm áo đắp trên người,  chắc ai đó đã vào, thấy tôi nằm chò co khó coi quá. Cái dáng nằm, như  nhiều người nói, toát ra một nỗi buồn. Tự mình cuộn vào, ôm ấp, tự che  chở, tìm hơi ấm của chính mình.
Nhứt thấy tôi ngủ một  lần, cậu ta nói tôi như con cá Bảy Trầu, sống khép mình ở những chân  ruộng sâu, ẩn náu trong rong rêu và rạ nát. Nhứt là cộng tác viên của  Viện, mê đắm những cái xóm làng miên man bên bờ sông Ngó Ý, nơi cậu chạy  đò máy xuôi ngược mỗi ngày. Mỗi tháng một lần Nhứt lên thành phố chở cá  giống, ghé Viện, khoe với bất cứ ai cậu gặp, “ chuyến này mẫu của em  khẳm xuồng luôn ”. Mẫu của Nhứt gợi cảm, sôi nổi như chính cậu. Con rắn  mối thì thụt trong bộng dừa mục rã. Những rạp cưới được trang trí bằng  lá dừa, bẹ chuối, lá đủng đỉnh, bông lồng đèn… Những gàu lá, gàu miểng  dừa đặt cạnh những khạp nước mưa trong lẻo, đặt ngoài hiên đỡ khát người  qua đường. Một con nhỏ bưng tô canh măng hầm thịt vịt đi trên đường  làng, nước canh đầy quá, đi nửa chừng nó húp bớt, qua nhà kế bên nó đưa  tô măng cạn queo cho thằng nhỏ kia, thẹn thùng nói, má tao cho má mầy  canh…
Tôi thích tính Nhứt hồn nhiên, nên khi lang  thang, Nhứt gọi điện thoại nói cuối tháng này em lên chơi, tôi lại thu  xếp trở về. Ngồi nghe Nhứt sôi nổi, “ đó đó, lúc đó em núp bên mé mương  nghen chị, ô rô nó đâm đau dã man luôn, nhưng quay được cảnh hai thằng  nhỏ tắm sông ở truồng đo chim tự nhiên như vầy, sướng…”. Sau đó, Nhứt sẽ  mời tất cả mọi người trong Viện đi nhậu, bằng tiền thù lao mà cậu ta  mới nhận được, chèo kéo cho bằng được, “ Bảy Trầu đi cho vui…”. Tôi  thích biệt danh đó, nghe như trên tôi có có năm anh chị, dưới tôi còn  vài đứa em, không phải tôi trơ trọi một mình.
Món quà của Nhứt tôi mang theo. Tôi tên Trầu, thứ bảy, mẹ của thằng nhỏ một tuổi rưỡi tên Phiên.
 
5
 Chỉ  có một đám giỗ ở xóm Cồn, trùng với ngày tôi với Phiên đặt chân lên đó.  Người ta nhắc, năm trước cô Trầu nhớ hôn, thằng nhỏ con cô mới biết đi  lũn đũn, năm nay nó nói sõi, chạy không sót chỗ nào. Lúc nhìn ra sân,  thấy Phiên ạch đụi rượt con vịt xiêm cồ, è ạch cố cưỡi lên, rồi té lăn  quay ra đất, tôi ngỡ ngàng kêu thầm, trời đất, một năm rồi sao?
Một  năm. Chín lần cười trừ khi người ta hỏi, sao trôi giạt tới chỗ này. Một  lần đốt cỏ hoang làm rẫy. Năm lần gieo và thu hoạch trên những giồng  rau. Một lần bị rít cắn. Một lần cuốc phập vào chân tuôn máu. Tám lần  thằng Phiên ấm đầu, sổ mũi, ho. Bốn lần hết gạo nấu cơm, phải giả đò đợi  đến bữa qua chơi nhà khác, chờ ai đó mời lơi là nhào vô ăn chực. Ba lần  quá giang xuồng đi chợ cách Cồn hai cây số đường sông, ba lần Phiên  nhìn thấy người đông. Ba lần bỏ quên thằng nhỏ ở nhà hàng xóm, lúc nhớ  ra chạy đi tìm thì nó đã ngủ queo rồi.
Mười năm sống  một mình trở thành thói quen. Tôi thường đi băm bổ làm Phiên rớt lại  đằng sau, thường ăn cơm bằng dĩa, rúc ngủ chèo queo nơi góc mùng… Nhưng  giờ tôi đã là mẹ thằng Phiên, tôi luôn dặn mình điều đó. Làm mẹ thì nên  thường xuyên hôn hít nó, ôm ghì nó quay vòng cho đến khi cả hai chóng  mặt quá nằm bẹp xuống đất, thổi vào mấy chỗ nhột của nó cho nó cười nắc  nẻ, dành cho nó những trái chín cây ngon nhất, cuộn nó vào lòng lúc nửa  đêm… Mẹ tôi đã từng làm vậy cho tôi.
Và mẹ thì không bao giờ để con mình thiếu ăn. Tôi theo ông Sáu Câu đi câu.
Ông  già kỳ lạ đó có hai cái chòi cất trên cồn. Chòi phía Tây nằm sát mé  sông, mỗi khi nước rông, hay lũ lớn nhấn cồn lún xuống, chòi còn trơ  trọi nóc. Ông già chuyển lên sống ở chòi phía Đông, vốn ở lưng chừng,  nhưng giờ cũng chấm chân vào mép nước. Và trong cái chòi lá quật quăng  tơi tả, ông đối mặt với dòng sông, ngồi câu bất kể những ngày mưa dầm  tối tăm trời đất.
Ông không mê câu, ông không sắm  chiếc xuồng đi tìm cá như những người kiếm sống trên sông mà chờ cá tìm  mình. Vì ông hay thèm giết người, đây cũng là lý do ông ra cồn Bần ở,  khi mãn tù. Ở đây, nếu sự ham muốn đó trỗi dậy, ông phải lội qua sông,  hay chờ tàu đò đi ngang. Có khi tàu tới thì ông ngủ quên dưới bóng mát  mấy cây bần. Có khi lội chạm bờ kia thì ông mệt rã rời, tạnh nguội cơn  khát máu. Nằm thở một lát, ông lội ngược lại cồn.
Người xóm Cồn kể có ngày ông qua sông đến ba bận. Kiếm được cây cần câu, ông không phải lội tới lui nữa. Tôi hỏi :
-Chú còn muốn giết người không?
-Còn chớ, hận thâm căn cố đế mà. Lúc nào muốn quá thì xách câu ra, dặn  trong bụng, chừng nào dính được con cá mới được đi nghen. Rủi, có bữa  mới thả câu thì thấy nó rị phao.
-Rồi sao?
-Thì bắt cá nướng trui. Ăn no quá đâm ra buồn ngủ, đâu có muốn đi nữa.
Ông  già cười. Tôi tập hỏi để tôi trở về con đàn bà hai mươi chín tuổi, chớ  không phải bà già chín mươi hai. Một phần, ở cái đất Cồn này, mỗi lần  hỏi đều nhận được câu trả lời, hoặc gần với câu trả lời. Hỏi chị Thiện  nhớ chồng không, chị cười khậc khậc, nhớ có cái chân giữa của ổng hà.  Hỏi chị Thắm sao đem son phấn thả sông, chị nói ở đây chỉ có mỗi thằng  Thơ khùng, chưng diện nó cũng đâu có coi. Người tên Thơ đó sống một  mình, không già không trẻ, suốt ngày ràng cái radio cạnh lỗ tai, mở đài  rột rẹt rột rẹt cả khi đi ngủ, có bữa đi ngang qua thấy anh đứng một  chân dưới gốc cây trứng cá, hỏi anh làm gì, anh nghiêm nghị, “ Ta là vịt  đang học tiếng người ”. Hỏi ông Sáu đã giết ai, ông già ngó ra sông, để  lời rớt khỏi môi như một giọt rượu chảy ngược qua cái răng gãy, “ Con  vợ tôi…”. Và có khi tôi chưa hỏi, ông đã nói, “ Thứ đó không phải để câu  cá ”. Đó là lúc tôi nấn ná gần cây cần câu nhỏ ông dựng ở góc chòi đã  lên nước bóng ngời, sợi nhợ mỏng nối với một lưỡi câu lớn không ngạnh,  thẳng như dấu chấm than.
Ông già đã bao nhiêu lần thả  câu này vào sông chờ tạnh cơn thèm muốn tìm giết gã tình địch đã làm  gia đình tan nát, khiến ông nhúng tay vào tội ác, tôi tự hỏi lúc nắm  đoạn cần câu lạnh buốt, neo lưỡi câu thẳng đuột xuống nước. Ngồi hàng  giờ bên cạnh thằng Phiên đang giang tay phơi rún ngủ, tôi tưởng mình  đang chờ nó thức dậy để hai mẹ coi cùng về nhà, nấu cơm chiều. Ông già  day lại móc mồi, bâng quơ hỏi, cô thấy không an sao?
Tôi nói không, nhưng nhận thấy câu trả lời đó rất bất công với ông, tôi sửa lại, à mà có, cháu sợ mất thằng Phiên.
 
6
 Cảm giác mất mát trở nên thật rõ ràng khi làm việc ở Viện di sản thiên nhiên và con người.
Ông  già bảo vệ ở cổng Viện có lần nói nụ cười cô Di như cái áo, mặc để giấu  mớ bề bộn trong lòng, chắc có đôi ba chỗ bị thương. Thêm một lý do tôi  thích những ông bảo vệ, họ biết tôi về khuya hay sớm, biết bữa tối tôi  ăn xôi hay bánh mì, biết tôi có áo mới, biết tôi vừa cắt tóc, biết cả ít  chuyện riêng tư, “ cái cậu chạy đò tên Nhứt gì đó, chắc thương cô Di mà  cô không để ý, nên lúc này không thấy lên nữa…”
Tôi  giật mình, chắc không đâu. Nhứt không tới Viện nữa bởi những xóm ấp ven  sông trong lòng Nhứt không còn. Lúc đầu Nhứt còn nhăn nhó lác đác, than  vãn lai rai khi cái đình thần Thạnh Hưng xây lại, sơn phết như “ tuồng  hát bội ”, khi người ta làm cửa cho những ngôi nhà vốn bao đời mở phơi  lòng, khi người ta dẫn nhập nước mặn vào đồng... rồi thì một bữa Nhứt  tới chơi, nói, đi nhậu chị ơi, lần này nữa thôi…
Nhứt  không tới nữa. Ấn tượng cuối cùng về Nhứt là cậu ta quăng ly rượu vô  vách quán bể nát, chửi thề, “ Quê tui còn mẹ gì, giống như cái biển  vậy…”. Điều đó làm Nhứt khác chúng tôi, Nhứt không chịu nổi sự mất mát.  Còn người ở Viện đối mặt với mất mát hằng ngày, hàng giờ, ở trong nó, ăn  nó, uống nó. Họ buộc phải lựa chọn, hoặc không yêu bất cứ gì, hoặc tập  chai sạn trước nỗi đau. Cách nào thì dẫn con người về một chỗ : vô cảm.  Họ có thể giẫm lên những mầm cây vì tin rằng những cái cây này không bao  giờ sống sót được mười năm tuổi, khi cái xóm nghèo đang chực hờ gần đó.  Họ có thể nhấm nháp rượu rắn với chim sẻ nướng dù biết đó là những con  cuối cùng, họ đã giữ cuộc đời chúng bằng tiếng hót, bằng hình ảnh chúng  sà xuống sân như một bầy lá rụng… và đem cất trong Viện, là xong.
Tôi  không còn thích ra quán ngồi. Hồi đó tôi nghĩ đây là dịp mình gần anh  Viện phó, được chào hỏi những đồng nghiệp có khi chỉ mới gặp lần đầu.  Tôi vẫn chưa mở được tất cả những cánh cửa trong Viện giữa những chuyến  đi về. Hiếm hoi trong những bữa tiệc tùng quen được chị Hát lỡ thời, say  đắm những cơn gió trời thích anh Đê bên phân ban con người nhưng anh  này lại mải mê đeo đuổi vẻ đẹp lem luốc của những người thợ mỏ. May mắn  ngồi chung với một anh khét tiếng tắm ít, suốt ngày giang nắng cùng  những người đàn bà quang gánh. Mẫu của anh rất hay, những người phụ nữ  có đôi vai lệch và bên vai áo sờn, những đôi chân gân guốc vồng lên vì  chịu nhiều sức nặng. Những cuộc gặp cũng đôi khi xảy ra trên đường, có  bữa lang thang trong chợ trung du, tôi lén sổ lồng cho mấy con nhồng bị  người ta bày bán, lúc bỏ chạy tự dưng nghe tiếng xe máy sau lưng, ai đó  kêu lên xe anh chở, tôi nghĩ lỡ anh ta là người bán nhồng thì sao, mình  đâu có ngu. Người đó thấy tôi cắm đầu chạy hoài, kêu lớn, “ dân di sản  nè…”. Ủa vậy hả, tôi hí hửng nhảy lên xe ôm eo anh, nghe đằng trước rầy  vói lại, “ em đúng là con nít, làm chi uổng công vậy em, mấy con chim  trước sau gì cũng bị bắt lại…”. Tôi nghĩ  trong lúc thở dốc, phải biết  vầy mình chạy bộ luôn cho rồi.
Người của Viện đông,  nhưng họ cũng như tôi, đi níu kéo những mong manh, chỉ khác, họ hay đi  cùng nhóm, thực hiện những chuyên đề về làng nghề, những trò chơi dân  gian, hay nghệ thuật làng. Lâu lâu, thấy phòng đã lâu im ỉm bỗng dưng hé  cửa, bật đèn, biết có người về, tôi ló đầu vào làm quen. Sau đó nhậu  nhẹt, khen nhau và chê nhau. Cái anh hay theo mấy cô thôn nữ đội nước  lên đồi cát chê anh nằm vùng trong những hẻm lao động đem về mấy cái mẫu  tầm thường, lem luốc. Anh này cười nói đẹp đâu phải là mấy cô gái mặc  áo dài đi qua cầu khỉ, đẹp là mồ hôi, là da sạm, tay chai. Rồi thì gió  qua đồng cỏ là cái đẹp xa xỉ và vô nghĩa, một cánh đồng xanh mạ, hay rẫy  bắp đang trổ cờ hay hơn nhiều. Rồi thì bồ câu là vứt đi, chim đồng chim  bãi mới đẹp. Rồi thì rừng núi mới kỳ bí, mới nhiều tầng nhiều vỉa cần  khai thác, chứ đồng bằng toang hoác, còn gì mà người ta chưa chạm vào  đâu. mấy anh phân ban thiên nhiên nói không con nào tàn phá gây hại như  con người, đi tới đâu thiên nhiên lụn bại tới đó. Mấy anh phân ban con  người sôi máu, vậy thì anh từ chối làm người rồi, con người mà không đẹp  thì có gì đẹp nữa.
Lúc đó tôi ngồi rất gần họ, mông  bẹp lên xác kẹo cao su của họ, mặt dính dấp nước bọt của họ, mắt thấy  vũng ghèn và những bợ rau trên răng của họ, tôi bỗng nghĩ mười năm trước  hẳn họ vẫn còn rất đẹp, họ còn biết run rẩy, xốn xang, đau nhói trước  cuộc đời, nhưng không ai giữ vẻ đẹp của những người giữ gìn vẻ đẹp, cũng  như không ai lãnh đạo những người lãnh đạo, không ai chiến đấu cho  những người chiến đấu. Bỗng dưng cái sự gấp gáp trỗi dậy, tôi sực nhớ  mình cần đi tới sông kia, suối nọ. Bỏ cuộc chơi giữa chừng, ai đó càm  ràm, “ nhỏ này đi như điên, không mệt hả? ”
Tôi xốc ba lô lên vai ngoái lại cười, mệt sao được, em có tới bốn cái chân.
 
7
Suốt  một mùa mưa, tranh thủ nước trời tôi cắm mặt vào rẫy. Mây treo phía  lưng tôi mỗi ngày năm bảy tiếng đồng hồ. Trong khi tôi cuốc giồng này  thì giồng rau muống đã vượt khỏi gang tay, bên kia cải vừa gieo hạt,  nhưng những cây còn sót lại đã lên ngồng. Tôi giành đất với lau sậy, lấn  từng giồng, từng giồng. Sao cho mỗi khi xóm Cồn có xuồng đi chợ là có  mớ đồ rẫy tôi gởi theo. Và với Phiên mỗi chuyến xuồng về là một cuộc hội  hè với bánh kẹo, quần áo mới.
Tôi chờ bí ra trái.  Tôi chờ ổi ra trái. Tôi trồng những cây lâu năm. Đôi khi tự thấy hành  động này cũng giống như ông già Sáu ngồi bên sông với cần câu lưỡi chữ  i, tôi đang neo cặm mình vào mảnh đất này, nuôi Phiên lớn.
Người  xóm cồn đi qua rẫy tôi nói, cô Trầu làm lụng như có tới bốn tay. Ểnh  người, một tay chống nạnh, một tay đấm lưng, tôi lặng đi, nhớ đứa bạn  tên Lam.
Hồi học cấp Ba, khoảng giáp Tết, Lam giới  thiệu tôi và đội sơn nhà của chú nó. Phần việc của tôi là lon ton bên  dưới, Di ơi lấy giùm thùng sơn, Di, lấy cho cây cọ, giấy nhám đâu rồi,  Di và Di, dời thang. Tôi rất thích được kêu Di ơi suốt. Tôi thèm muốn  mình được gọi tên, đến nỗi có lần mướn thằng nhỏ bán vé số, nói nó kêu  Di ơi đi tôi trả năm ngàn. Nó nói vậy tui làm má bà hen, rồi chống nạnh  riết róng, “ Di, mầy trồi đầu về đây tao biểu coi…”. Thấy tôi trào nước  mắt, nó cụt hứng, càu nhàu, “ thôi bà khùng quá bà ơi, tui lấy tiền của  bà chi... ”
Nên tôi ưa làm sai vặt, khoái cảm với  những lời rầy rà la mắng. Đi sơn tường càng thích vì khi lơ lửng trên  cao người ta hay kêu tên tôi. Lam hay ghé qua công trình của chúng tôi,  nói tiện đường… Mọi người cười, sao không nói thẳng là mê gái, mậy? Tôi  lừ đừ không ngó tới, miết giấy nhám vào vách tường loang lổ. Tôi không  thích Lam nhà giàu rảnh rổi, mới lớp mười một mà đòi yêu đương. Tôi ghét  cái tên không biết là trai hay gái, ghét chiếc xe máy tiếng nổ như xé  vải. Tôi ghét Lam cha mẹ đủ đầy, thậm chí còn dư mấy má nhỏ ở quận hai  quận tám. Tôi ghét cái đầu tóc dày hất ngược bồng bềnh, ghét luôn nước  da trắng và cái mũi thẳng, ghét như thể trời lấy hết của tôi để ban cho  Lam.
Lam biết, nhưng nó vẫn thích tôi, cuộc sống của  một thằng con trai muốn gì được nấy không phải lúc nào cũng gặp một  thách thức thú vị như vậy. Một bữa đúng lúc Lam đảo qua nói vo ve, tôi  dời cái thang chữ A ra ban công, thang nhôm chạm vào dây điện trung thế  làm tôi chết giấc.
Lúc tỉnh dậy tôi đã sống cuộc đời  khác. Người ta kể Lam vì cứu tôi nên đôi tay bị cháy, có thể phải tháo  khớp tận vai. Có vẻ như ông trời đang lấy của Lam để chia chác, mà tôi  biết làm gì với một đôi tay nữa, chỉ một thôi đã quá nhọc nhằn rồi.
Nhưng  tôi không có chọn lựa nào, Lam đã cho rồi, tôi phải nhận. Thăm Lam khi  vừa tỉnh dậy, nó khóc, tôi mếu máo nói, “ thôi đừng buồn, tui sẽ lấy Lam  làm chồng ”. Lam ngoẹo đầu qua bên vách, cố giấu cơn khóc dữ dội hơn,  khóc mà không có tay để giấu mặt, không có tay để lau nước mắt. Hồi đó,  báo chí ca ngợi Lam như một anh hùng, nhiều cơ quan tới tận giường tặng  bằng khen, tặng tiền, tặng nước mắt cảm thương. Lam trả lời tám cái  phỏng vấn, nói tôi không hối hận.
Lam nói không hối  hận. Nhưng mắt nó nói tôi hối hận. Mặt nó nói tôi hối hận. Đôi tay áo  trống rỗng phơ phất của nó nói tôi hối hận. Tôi chưa bao giờ thấy nỗi  buồn nào giống vậy, buồn vì đã làm việc tốt. Buồn vì đã tốt. Những lần  tôi tới chơi, vui thì Lam để tôi đẩy xe đưa nó ra vườn, buồn thì nó đuổi  thẳng, về đi, tui không cần thương hại. Tôi chối nhưng ánh mắt tôi đã  phản bội, nó nói rõ ràng, tôi thương hại. Không bao giờ mắt dám nhìn  thẳng vào đôi vai trụi trơ.
Tôi cố dặn mình hãy nhìn  vào đó công bằng như nhìn một người lành lặn, công bằng như nhìn thằng  bạn mà mình căm ghét, hãy cười ha ha và nói đáng đời mầy, ai kêu mày  giàu, mày sung sướng, giờ ráng chịu. Những buổi tối làm việc ở nhà hàng,  tôi cắt cánh gà, nhìn vào cái thân mình trụi lủi của nó, thấy không có  gì là khó. Nhưng Lam không phải con gà, hay cái cây bị tỉa nhánh. Và nếu  quyết định gắn bó suốt đời, thì chúng tôi sẽ làm tổn thương nhau trong  lúc nhìn nhau, âu yếm nhau, liệu chúng tôi có chịu được không, tôi nghĩ  nát cả tuổi mười bảy. Lam nói không được đâu, nó nói bằng cách nhảy từ  ban công tầng ba xuống. Tôi bắt đầu sống bằng hai người, nhưng việc đó  cũng làm tôi tàn tật.
Nghe câu chuyện này, anh Viện phó kêu, thôi khóc nhiều rồi, từ giờ em nín đi. Nhưng tôi đâu có thấy mình đang khóc.