| Chỉ mục bài viết | 
|---|
| Khoảng Chơi Vơi | 
| Trang 2 | 
| Tất cả các trang | 
Khoảng Chơi Vơi
Tác giả: Nam Dao
Gửi Phan-huynh
Tiếng  bánh xe trên phi đạo và tiếng gió ù ù thổi ngược khiến hành khách xôn  xao. Cô chiêu đãi viên hàng không lại nói, giọng kéo dài hệt như phát từ  một cái máy, nhưng chẳng một ai nghe. Mở bức thư viết tay, tôi lướt mắt  đọc đoạn cuối « ... sẽ đón ông ở phi trường. Tôi hy vọng ông đến và  công việc có thể hoàn tất trong vòng thời gian hạn định ...» Nối đuôi  nhau, hành khách vội vã vào nơi thu hồi hành lý. Khi tôi đẩy chiếc xe  lăn ra ngoài, tôi nghe tiếng phóng thanh gọi tên đến quầy American Air  Line. Ở đó, một người đàn ông đứng chờ. Ông ta chắc người Samoa thổ dân ở  đây, ria mép đen nhánh trên da mặt sạm đen, bụng phục phịch tròn xoe  trong chiếc áo sơ-mi lổn nhổn đủ màu. Như vậy bà ta không ra đón. Người  đàn ông lễ phép đến mức cung kính. Như vậy không phải là chồng bà ta.  Ông ta xách va-li cho tôi ra bỏ vào thùng một chiếc Limousine đợi sẵn.  Ông mở cửa đằng sau cho tôi vào rồi lên phía trước ngồi cạnh tài xế. Như  vậy, ông làm công. Xe thả bánh lăn đi không một tiếng động. Lát sau, xe  vào một phi trường nhỏ. Nghe tôi hỏi, ông đáp gọn : Sir, phải lấy trực  thăng bay thêm bốn lăm phút nữa “ 
Chúng tôi xuống trực thăng rồi lại  lên xe. Từ lúc đó tôi mới nhìn ra. Nắng chói chan trong vắt. Những hàng  dừa xanh chao nghiêng trong gió chạy ngược chiều xe đi. Biển đằng xa  tráng bạc lóa sáng. Xe lên triền dốc, chạy thêm khoảng hai cây số men  đồi thì tới một trang trại. Bấm nút mở cửa tự động, tài xế nhe răng cười  rồi thả xe vào con đường rải sỏi trắng, tiếng lạo xạo như reo chào. Một  anh bồi, quần trắng, áo trắng chạy đến mở cửa xe cho tôi rồi hai tay  xách hai chiếc valy đi trước, miệng vui vẻ mời tôi đi theo. Ðưa tôi vào  căn hộ nằm phía trái biệt thự, có phòng ngủ và phòng khách, trổ ra một  góc vườn xanh mát, anh ta cười cười “ ...Lady bảo ông nghỉ cho khỏe. “  Tôi hỏi “ ...bao giờ tôi gặp bà ấy ? “ Lắc đầu, anh bồi cười mỉm đi ra.  Tôi nhìn quanh. Bộ sa-lông, bằng mây. Chiếc giường đơn, cũng mây. Tủ  treo quần áo, rồi bàn làm việc, trừ mặt kính, cũng là mây nhay nháy  bóng. Mở cửa, tôi ra khoảnh vườn. Giữa hai gốc cây, một chiếc võng đã  cột sẵn, không phải là loại to bản như võng Nam Mỹ mà là loại võng làm  bằng những sợi giây dù, một loại võng nhỏ cho một người, giây dù là từ  những cái dù đã mở, lượm lặt lại có lẽ là từ một trận chiến đã kết thúc ở  một nẻo xa xôi. Tôi ngả mình xuống đong đưa. Nắng trong vắt rải trên  những chùm cây xanh muốt như tráng men ròng lên vạn vật.
Hai  tháng trước, tôi đọc trong mục rao vặt một tờ báo “ ...cần liên lạc với  một nhà văn giúp hoàn thành một hồi ký. Ngoài chi phí di chuyển, lương  bổng sẽ thỏa thuận... “. Tôi trả lời, ngượng ngùng dối “ ...với điều  kiện là thời gian không quá sáu tuần “ mặc dầu sau đó rồi thì tôi chẳng  biết tôi sẽ làm gì. Bức thư hồi âm, kèm vé máy bay và một tháng lương,  lại đèo thêm hàng chữ “ ...nếu sáu tuần chưa xong được thì ông có thể  hoàn tất sau, ở nơi nào cũng được, với số lương ông qui định “. Ðọc thư,  tôi lâng lâng. Có ai trả công cho tôi chuyện viết lách bao giờ. Và chủ,  bà chủ nói cho rõ, không hề kỳ kèo bớt một thêm hai. Tôi phải thành  thật, điều đó khiến tôi đỡ xấu hổ, và chỉ sự tế nhị đó của bà cũng đủ  làm cho tôi dốc hết sức mình làm cái công việc chữ nghĩa ra tiền lần đầu  trong đời. Nằm xẹp, tôi xua đuổi cơn cùng quẫn của cả thể xác lẫn tâm  hồn bằng tưởng tượng. Tôi hình dung ra bà, đẹp kiểu đẹp u uẩn mang chất  định mệnh trên khóe mắt đầu môi, lộng lẫy phù hoa và kiêu sa hỏi “  ...anh đã bao giờ yêu ai đến chết chưa ?” Dĩ nhiên câu hỏi là một thách  thức, và tôi sẽ là kẻ đi chinh phục. Như Thành Cát Tư Hãn, quất ngựa  không yên cương trù bị cuộc viễn chinh bằng tính nhẩm. Tôi mang theo  mình một bọc chữ, mỗi con chữ là một phép lạ, và nắm cái bí mật nhào  trộn những con chữ để tạo ra những cuốn kinh tình yêu với sức mạnh tái  sinh cả địa cầu. Nó bắt đầu như thế này “ Vực sâu ghê rợn nhất của cuộc  sống là ... ? “. Là gì ? Tôi định viết là không tình yêu, nhưng thấy  nhàm dễ sợ. Hay là ý thức sự bi thảm bất khả kháng của cuộc sống không  tình yêu ? Tại sao lại ý thức, có phải ý thức xác định cuộc sống đâu.  Cái phần vô thức hấp dẫn hơn nhiều. Vả lại, bất khả kháng có nghĩa là  tuyệt vọng, và thế thì còn gì nữa để nói để viết. Cuốn kinh có lẽ phải  bắt đầu bằng một khẳng định lạc quan. Chẳng hạn, “ tôi yêu, là tôi tồn  hữu “. Hoặc “ yêu là tồn hữu “ cho gọn và sắc. Tôi dẫu không hẳn tin  nhưng khoan khoái hơn. Dĩ nhiên với sự khoan nhượng cho chính mình như  khí giới cuối cùng của kẻ bị tuyệt vọng săn lùng. Khoan khoái, phải nói  thật, cũng phần nào nhờ tháng lương gửi trước. Có nó, tôi đi sắm đồ bộ,  thửa lại cặp kính gọng vàng, quăng cặp kính nhựa vào sọt rác như quăng  đi quá khứ. Và tôi lên đường, hăm hở mặc dầu chẳng biết trước mặt là gì.  Tôi chỉ tự nhủ, vượt biên còn được thì, trượng phù hề, xá chi. Có phải  biển cả với con thuyền mong manh hai lốc và gần sáu mươi nhân mạng có  đúng một trăm lít nước đâu ? 
Ðây có phải là Kahoolawe, một trong số  những hòn đảo trải ra giữa biển xanh biếc nhìn từ trực thăng ? Sau khi  đáp xuống, một chiếc Lincohn đã chờ tôi. Ba mươi phút sau, tôi ở trong  căn phòng này. Và bây giờ, ngỡ ngàng, tôi tự hỏi, tôi đang làm gì ? Ðợi  đó. Thế nào bà ta cũng sẽ đến. Tôi vội vã vào nhà rửa mặt, đánh răng và  chải tóc lại. Tôi xếp va-li vào một góc, lôi để trên bàn viết dăm ba  cuốn sách , bày ra nào là Hợp Lưu, là Văn Học, là Văn, ý bảo với bà ít  nhất, phải, ít nhất là tôi bảo đảm một phẩm lượng văn học tối thiểu sẽ  có. Ngay cả ở thể một hồi ký, không phải chỉ kể chuyện dọc theo trục  thời gian thẳng tắp ngày tháng với những sự kiện cái đến trước cái đến  sau cứ làm như thể từ cái nọ đẻ ra cái kia trong một chuỗi cấp số. Vào  ngồi trước bàn viết, tôi tiếp tục chờ. Nhìn điện thoại đặt một góc, tôi  đợi nó reo. 
Buổi trưa qua đi. Vẫn không một ai. Nhìn lên vách, tôi  ngắm nghía một bức tranh chiếm đến gần nửa bức tường trong phòng. Người  đàn bà trong tranh đội khăn vàng, ngồi chống chân chữ ngũ nhìn một người  đàn ông bán thân lõa thể, nằm nhắm mắt. Như ngủ, hay đã chết ? Khác  nhau, chỉ là hơi thở lẫn độ phập phồng của ngực. Nhưng tranh trên không  gian hai chiều không cho thấy hơi thở lẫn độ phập phồng. Tôi đành đoán,  cho mình yên tâm, rằng người đàn ông đang ngủ. Nhưng tại sao mắt người  đàn bà lại vướng vất hơi hướng nửa thần linh, nửa ma quái. Và nhìn kỹ,  chiếc khăn vàng xõa xuống vai với chi tiết từng sợi lụa dệt thô như đang  lay động. Thế thì tôi có thể nhầm. Lẽ nào người đàn ông đã chết. Tôi  cảm thấy lạnh gáy. Tôi không muốn sống chung với người chết. Tôi tập  trung tầm nhìn vào ngực người đàn ông. Lát sau, nó phập phồng. Có nghĩa  là hắn ta đang ngủ. Hoặc có chết, chắc đã sống lại. 
Khoảng  bảy giờ chiều, anh bồi đến lễ phép mời tôi đi dùng bữa. Bà ta chắc chắn  ở đấy đợi. Chắc có cả ông chồng. Và con cái họ, không chừng. Tôi bước  theo anh bồi qua một hành lang đi lên phòng ăn, thấp thỏm nhưng im lặng  không hỏi. Biệt thự này hai tầng, rộng thênh thang, phía sau là chỗ nuôi  ngựa có đến cả đàn. Mặt trời buổi chiều đỏ ối rơi xuống mặt biển như  trái chín rụng xuống cội. Mặt đất lơ lửng chớm sương, kéo ngang tầm mắt  những đám mây lung linh hắt về chân trời một vòm mênh mang màu tía pha  những ánh tím sáng mơ ảo. Anh bồi mở cửa cho tôi vào. Bàn ăn dài, cả  chục người ăn cũng có chỗ. Ðầu bàn, chỉ có đĩa, ly rượu và muỗng cho một  người. Tôi ngạc nhiên ngồi xuống. Bữa đó, tôi chỉ một mình. Rượu đỏ là  rượu Pháp thượng hạng vùng Bordeaux. Và món ăn do một tay bếp người Âu  nấu. Tôi hỏi. Anh bồi lại cười mỉm “ ...tôi không biết. Lady dặn đến giờ  thì mời ông đi ăn “. “ Lady đâu ? “. Anh ta lắc đầu. Tôi thấy mình như  một đứa trẻ bị bỏ rơi. Cái cảm giác lạc lõng tôi biết từ khi tôi lên bảy  tuổi, từ nhà quê lên Hải Phòng rồi lớ ngớ thế nào tôi lạc mất mẹ ở chợ  Sắt. Lần này, tôi không sợ nhưng lại thấy tủi. Tôi ăn nhanh rồi về căn  hộ dành cho mình. Khoảng cách lúc đó chỉ là vết nứt, giữa nhà văn và  nhân vật. 
Ngày thứ hai, cô thư ký của bà ta điện thoại xin lỗi là bà còn mệt.
Ngày thứ ba, cũng vậy. 
Vết  nứt đầu toác miệng to dần. Tôi sợ nó sẽ kéo tôi hút vào một đáy sâu, và  tôi bảo cô thư ký, tôi về L.A, sẽ trở lại khi bà chủ đã khỏe hẳn. Cô ta  đáp, cô phải hỏi phép. Bấy giờ, tôi mới rõ rằng ở đảo này phải dùng  trực thăng của bà mới bay về Honolulu được. Ðột nhiên, tôi chợt có cái  cảm giác là tù giam lỏng, thứ cảm giác người sống trên những hòn đảo  biệt lập với đất liền khá quen thuộc. Cô thư ký lại nhẹ nhàng, sao ông  không làm việc của ông, nghỉ ngơi và nhất là đi dạo quanh hòn đảo này.  Chu vi nó chỉ độ bốn mươi cây số, và nếu ông thích, có xe đạp cho ông  đạp. 
Không làm gì mà nhận lương khiến tôi bồn chồn. Từ mặc cảm ký  sinh đến sự lỳ lợm chai đá là một quảng đường vừa đi ta vừa tự biện minh  bằng những biếm luận lảm nhảm về nhân sinh. Tôi quên mất cuốn kinh tình  yêu bắt đầu bằng một câu, gọn và sắc, yêu là tồn hữu. Nhưng như mọi  điều, trừ Thượng Ðế và sự chết, chúng đều đến cái giới hạn sau đó chúng  đầu thai thành điều khác. Tình yêu, chẳng hạn, có thể thành sự căm thù,  ức chế, cưỡng đoạt. Và tệ nhất, sự dửng dưng. Thậm chí, sự không cả cái  không gì hết. Ở đúng trạng thái đó, bà ta xuất hiện. Bữa tối hôm đó, bàn  ăn bày biện cho hai người. Tôi làm ra dáng bất cần, ngồi xuống trước  thì bà ta hiện ra. Và xin nói, chẳng phải tôi là nhà văn sẽ viết về bà  mà tôi dối bạn, nói ngay là bà ta, người đàn bà nuôi tôi ăn không ngồi  rồi một tuần nay, là một người đàn bà nhan sắc. 
- Chào ông. 
- Thưa bà... 
- Ông khỏe, mọi sự như ý ông ? 
- Còn bà ? 
- Tôi khỏe. 
- Năm tuần nữa, tôi phải đi. Bao giờ ta bắt đầu ? 
- Ngay bây giờ. Ta bắt đầu rồi. Ông dùng đi ! 
Tôi  cầm nĩa lên rồi bỏ xuống bàn. Bà ta ăn, tay kiểu cách nâng ly mời. Tôi  uống. Nước mắt tôi cay sè. Niềm tủi nhục khiến cổ tôi se lại : 
- Tập hồi ký. Bà cho để tôi còn đọc. 
- Tập hồi ký nào ? 
- Thưa bà, tôi tưởng công việc của tôi là biên tập hồi ký của bà để sau in lại... như một tác phẩm văn học cho công chúng. 
-  A, ra ông nghĩ thế. Cũng có thể. Ông dùng đi... Tôi có ghi chép sơ sài,  nếu gọi là hồi ký thì hơi quá. Còn biên tập là để giúp tôi sắp xếp một  thứ trật tự cho tôi. Chuyện in, tôi quả chưa nghĩ tới. Không nghĩ thì  đúng hơn. Ðời mỗi một người có gì đáng để kể ? 
Tôi giật mình, cúi đầu nghĩ ngợi. Bà ta nhìn tôi, ánh mắt tinh quái thách thức : 
- Tình yêu, chẳng hạn... 
- Tôi chưa hề biết đó là gì. 
- Ông nhà đâu ? 
- Ông nào ? 
- ... 
- Tôi ba đời chồng. Cười nhạt, bà ta tiếp - ông nghĩ dễ lấy ai là yêu người đó à ? Ông biết gì về tình yêu ? 
- ... 
- Ông nói đi - bà nhìn thẳng vào mắt tôi, giọng châm biến - tôi xin nghe... 
Tôi  sượng sùng. Từ lúc ấy, sự khó chịu ùa đến như nước mùa lũ. Cố nhếch  miệng cười tủm, tôi im lặng giữ thế thủ. Anh bồi rón rén rót rượu, rồi  lui vào góc phòng, đứng khoanh tay. 
Vết nứt đầu tiên mở toác ra  thành một khoảng cách đẩy tôi xa nhân vật của tôi đến độ tôi cảm thấy  bất lực, hệt như lần đầu đi nhà thổ vào ngày mùng hai Tết, sau khi đã  đếm đủ năm mươi đồng lì xì, tiền thời Cộng Hòa miền Nam thứ nhất hồi  chưa mất giá. Cô gái làng chơi nhìn tôi tháo lui la ...Tết nhất đừng làm  tôi xui nghen! Thương hại, cô hỏi, lần đầu hả ? Rồi kéo quần tôi xuống.  Bồ nằm đi thoải mái, tôi lo. Cô ta rửa xà bông cho tôi, rồi cúi xuống  úp mặt vào, lát sau ngửng lên, lại la ...sao kỳ vậy, cha nội. Không,  không thể thụ động như vậy. Tôi thầm nhủ, phải bung ra, phá vỡ cái ngột  ngạt giữa tôi và bà. Ngước nhìn bà đang ngắm tôi như một con mồi, tôi  thách đố : 
-Thưa bà, có lẽ công việc bà giao tôi không làm được... 
- Sao kỳ vậy, nhà văn. 
- Vì cái khoảng cách ấy, giữa nhân vật và tôi. 
Bà ta bật cười, diễu cợt : 
- Cứ thoải mái, để tôi lo. 
Nhưng bà ta vẫn ngồi ở đầu bàn, không cúi xuống mà ngửng lên, giọng chiến thắng : 
- Chuyện đó có chi lạ. Giao tiếp lần đầu ai chẳng thế. Ông cứ từ từ, không có gì phải vội vã cả.
Sau  bữa tối, bà ta đưa cho tôi cầm về một tập giấy, khoảng trăm tờ, xếp  theo thứ tự ngày tháng. Tôi bỏ cả đêm ra đọc, ghi chép lại những sự  kiện, nhưng tuyệt nhiên không tìm ra chút gì là nội tâm bà, nhân vật của  tôi. Mường tượng lại buổi tiếp xúc vừa qua, tôi chỉ có cái cảm giác  xuống vực đối mặt vào vách đá bí ẩn, trơ trọi, lạnh lẽo. Và thô cứng thứ  nham thạnh kiêu kỳ sẵn sàng chĩa nhọn đâm toạc vào bước bất cẩn của  những bàn chân trần trụi da thịt con người. Tôi điện thoại. Cô thư ký  hẹn sẽ gọi lại. Ðến trưa, cô ríu rít, Lady hẹn bữa tối. Rồi cô bảo, tôi  tên là Jacintha. Hân hạnh. Vâng, hân hạnh. Trưa thứ bảy, tôi rảnh. Lại  có một chiếc xe đạp cho ông. Ði dạo nhé. Ðảo đẹp lắm, nhất là vào hoàng  hôn, lúc mặt trời lặn. Vâng. Tôi thầm nhủ, cũng là dịp tôi hỏi Jacintha  để tìm hiểu nhân vật của tôi. 
Jacintha có lẽ xấp xỉ  ba mươi. Cô ta sinh đẻ ở đảo, gốc Phi luật Tân, mẹ một đứa bé gái chạc  năm tuổi thỉnh thoảng thấp thoáng trong khu vườn cạnh chuồng ngựa. Ðến  đảo làm việc từ thuở ông chủ còn sống, cô gần như không có một ai là  thân thích, lâu lâu mới đưa con đi Honolulu ở một vài ngày rồi lại về.  Cô mặc áo pull, quần zin Levi, tóc cắt ngắn, dáng hao hao chút nam tính,  cười khoe hàm răng trắng muốt. Ðạp xe dấn lên trước, cô dặn, sau khúc  này xuống dốc đấy, you cẩn thận nhé. Chúi người trên chiếc xe cuốc, tôi  thử bóp phanh cho yên tâm, rồi thả cho lao xuống. Ðến khi hết đà, chúng  tôi ngừng lại ở mỏm núi. Phía dưới đá tảng nằm chồng lên nhau, nhô ra  biển hứng những con sóng trắng xóa hắt văng lên hàng ngàn giọt nước lấp  lánh mặt trời. 
Jacintha kể, nửa hòn đảo thuộc bà ta, đất dùng để  trồng trà xanh xuất khẩu sang Nhật. Ba năm trời kể từ ngày ông chủ mất,  Lady dành vài mẫu đất trồng loại lan chịu được nóng. Xưa đi học về thực  vật, Lady nay vẫn thường xuyên mua loại báo chí chuyên đề, cấy và ghép  được một vài loại lan mới, nhưng không bằng lòng vì vẫn là loại lan đất.  Lady quyết bằng mọi cách cấy phong lan, tạo độ ẩm nhân tạo trong phòng  thí nghiệm, nhưng hình như chưa đi đến đâu. Mỗi lần về L.A với Lady,  Jacintha than, y rằng là chỉ chở về hóa phẩm thí nghiệm và sách báo. Tôi  dò hỏi “ ...sách thực vật không thôi à ? “. Không, Jacintha đáp, đủ  loại. Tiếng Anh, tiếng Việt và đôi khi tiếng Pháp. Chép miệng, Lady chỉ  có cái thú vui đó và hoa lan. Thế con cái Lady đâu ? Jacintha trợn mắt,  làm gì có. Lady còn trẻ, giàu có thế, tìm một người đàn ông bầu bạn dễ  ợt, tôi bàn. Jacintha nhìn thẳng vào mắt tôi “ ...ông có phải là người  đó không ? “. Cái nhìn xoáy thốc vào khiến tôi phát ngượng, vội vàng  đáp, không. Tôi nói về công việc tôi phải làm. Jacintha vui vẻ, mắt long  lanh nhìn ra xa, reo lên “ ...hóa ra you là writer, my God ! “ Tại sao  cô kêu lên my God. Ấy, bởi đây là lần đầu tôi gặp. Bây giờ người ta là  chuyên viên đủ loại, chứ writer, hiếm lắm. Còn ai chịu làm cái chuyện ít  tiền đó, Jacintha nhìn tôi thương hại. Tôi buột miệng như than “ Never  mind ! “ Nhìn những đợt sóng trắng xóa đuổi nhau vào bờ, tôi bâng quơ  tiếp : 
- Ở đảo chỉ có nước và trời... 
- ...và nỗi cô quạnh, giá mà không có Tina thì chắc chịu chẳng nổi ! 
- Tina ? 
- Con gái tôi, you chưa thấy nó à ? 
Tôi khẽ gật, hỏi : 
- Thế anh ấy... 
Jacintha lắc đầu không đáp, chạy đến một gềnh đá chơ vơ nhô khỏi bờ. Khi tôi đến gần, nàng chỉ tay ra biển, mắt óng ánh : 
- Ðợi mùa nước xuống, tôi đưa ra xem đảo san hô ngoài kia... 
- Bao giờ ? 
- Ðộ hai tháng nữa. 
Tôi mỉm cười, nói là lúc đó tôi về đất liền rồi. Tròn mắt nhìn tôi, Jacintha giọng luyến tiếc “ That s 
too bad ! “.
Khi  nắng tắt, chúng tôi dắt xe lên dốc. Từ đỉnh nhìn xuống, mặt trời lừ lừ  chìm dần vào đại dương nhuộm đỏ lè một màu máu, loang loáng hắt ánh  chiều thoi thóp vào mênh mang. Nhìn đồng hồ, tôi giục. Jacintha còn  luyến tiếc, nhưng khúc khích “ ...wonderful ! “. Cô ta thân mật “ you cứ  giữ xe đạp để dùng. Lần sau, tôi sẽ đưa đi nơi khác trên cái thiên  đường này “. Khi chia tay, Jacintha lại cười. Nhìn cặp mông thon cứng  trên yên xe và đôi chân dài cô chống xuống đất, tôi thầm nhủ, người đàn  bà này còn nợ tôi một câu trả lời. 
Buổi tối, tôi đọc lại sổ tay có  ghi sẵn một số điều tôi muốn trao đổi với bà ta, nhân vật và cũng là chủ  tôi. Khi anh bồi đưa tôi vào, bà đã đợi sẵn ở phòng ăn. Tôi nghiêng  người chào, đợi bà chỉ tay mời để ngồi xuống. Bà nghiêm nghị hỏi xem tôi  có bằng lòng với cuộc sống ở đây không, và nhắc cần gì thì cứ hỏi  Jacintha. Cuối bữa, bà đề cập đến công việc. Lần này, tôi cảm thấy bà có  đôi chút bồn chồn , tay mân mê thìa cà phê, mắt nhìn lên thoáng lo lắng  : 
- Ông đã đọc hết. 
- Vâng... 
Tôi im lặng. Phải để nhân vật  tôi nói. Và xem xinê, hình như các vị bác sĩ tâm thần đều giữ vẻ mặt  thản nhiên. Tôi cắn răng kiên nhẫn đợi. Lát sau, bà hỏi : 
- Ông thấy thế nào ? 
-  Tôi ghi được một số sự kiện hay. Chẳng hạn như các ông nhà, cứ ở được  bảy năm với bà, là ...mất. Dĩ nhiên lý do thì khác, nhưng cái chu kỳ đó  lại hệt nhau... 
Bà ta cười nhạt, ngắt : 
- Những sự kiện thê thảm cho một người đàn bà như thế mà ông bảo hay... 
Tôi chột dạ, vội vàng cướp lời : 
-  Tôi xin lỗi nếu nói đụng chạm đến nỗi riêng tư của bà. Tôi nói hay, là  cái hay trong biên tập hồi ký của bà như một công việc văn chương. Cái  hay nằm trong thảm kịch... 
Bà ta giơ tay, lạnh lùng : 
- Ông ạ,  không có thảm kịch nào hay cả. Người đọc thảm kịch cảm thấy toàn bộ cái  thảm kịch đó thì không thấy “ hay “ đâu... Họ có thể đau đớn, uất ức như  nhân vật. Văn chương biến khách thể thành chủ thể. Nếu còn thấy hay ,  người đọc vẫn đóng vai khách quan, đứng ngoài văn bản để phán xét, để  thưởng ngoạn. Hất mặt lên, giọng có thoáng khinh bạc, bà tiếp - Chẳng lẽ  tôi mang cuộc đời tôi lên giấy để người đời thưởng ngoạn sao, thưa ông ?
Thú thật, tôi choáng váng không biết trả lời bà ra sao. Tôi ấp úng  nói một câu vô nghĩa đến không nhớ nổi. Bà nghe, không đáp, chỉ tay mời  tôi ăn. Nhưng đó là một món tráng miệng cố nuốt cũng không trôi. Sau đó,  bà đưa tôi lên phòng khách. Anh bồi ra rót Cognac và đưa một hộp xì-gà.  Bà ta chìa ra mời tôi, tự tay lấy một điếu, đánh diêm châm. Cố không  nhìn bà để giấu đi sự ngạc nhiên, tôi đưa mắt lên tường. Xung quanh, có  lẽ có đến một chục bức tranh khổ lớn. Vẫn một người đàn bà, khi đứng,  lúc ngồi, đủ tư thế. Vẫn thêm một người đàn ông, lúc nào cũng nằm, mắt  nhắm, cũng đủ tư thế, nhưng như ngủ hay như đã chết đây ? Tựa thể đoán  được cảm nghĩ của tôi, bà thốt lên, giọng có chút gần gũi : 
- Họa sĩ  này sống nửa âm nửa dương. Bên cạnh sự sống, là cái chết của tĩnh vật.  Con người, nếu như tĩnh vật, thì sẽ bất diệt. Còn sự sống kia, ông nhìn  xem, có cái giới hạn ma quái ở ngay khóe mắt con người... 
Bà nhìn tôi, ánh mắt chừng thiện cảm hơn, nhẹ nhàng : 
-  Tôi cảm tranh của ông họa sĩ này, về Sài Gòn tôi lùng mua hết. Dĩ nhiên  là trừ những bức vẽ cái ghế, cái đèn, lọ mực kiểu học trò trường Mỹ  Thuật Gia Ðịnh. Người đàn bà trong những bức tranh kia là vợ ông ta,  hiện sống ở Cali. Còn ông ta, ông ở lại chính là bởi nửa cái thế giới  chết kia không có được ở bên này để ông ta vẽ. 
Nhìn tôi thật lâu, bà buồn bã : 
- Tôi thì ở đâu tôi cũng có cái nửa thế giới chết ở kề bên. Ông tiếp cận được nó thì cái việc biên tập kia sẽ thành... 
Thu hết can đảm, tôi nói : 
-  Thưa bà, tập hồi ký bà trao là một chuỗi ngày tháng và sự kiện. Ðọc,  tôi không thấy được, hiểu được con người của bà. Vì thế tôi không biết  phải làm sao ngay cả ở cái mức cảm nhận tối thiểu giữa nhà văn với nhân  vật, nói chi đến cái nửa thế giới bà vừa nói đến. Còn biên tập là việc  viết lại cho mạch lạc, ngay ngắn để ai đọc cũng hiểu thì bà chỉ cho tôi  ba bữa nữa, tôi làm xong ngay. Còn truyền đạt được gì, tôi không biết.  Vì chỉ có sự kiện, thì chưa có gì cả...Vì sự kiện , nói gọn, chỉ là  phương tiện thô, chất xúc tác, cái móc nối giữa những khoen xích tạo ra  đời sống của văn bản... 
Bà ngắt ngang : 
- Nếu chỉ viết lại mạch  lạc, ông nghĩ tôi cần đến nhà văn à ? Một thanh niên học xong cử nhân  văn chương, thông minh vừa đủ, và lương thiện, là làm được ngay. 
- Thế thì... công việc của tôi là từ những sự kiện đó tạo dựng một thế giới, một nửa là cõi chết ư ? 
- Ðiều đó cần. Ðể nửa kia là cõi sống. Nhưng phải thực sự là một nhà văn, mới làm được...
Bà  ta nhìn tôi. Vẫn một chút diễu cợt khinh khi, một chút thương hại. Phần  mình, tôi tê điếng, nửa ngạc nhiên, nửa bực bội. Ngạc nhiên, nhưng  thích thú vì bỗng dưng nhân vật dạy tôi hành văn. Bực bội, có lẽ tự ái  bị đụng chạm. Tôi, nhà văn, làm sao thụ động thế này trước nhân vật đang  thách thức đến tận sự sống còn và lẽ tồn sinh của ngòi bút. Tôi lẳng  lặng phà khói thuốc, rồi chậm rãi như đặt cái láng cuối của một trận xì  -phé đánh đến trắng tay: 
- Công việc bà vừa nói, là tiểu thuyết.  Muốn viết được, thì cái khoảng cách giữa nhà văn và nhân vật không còn.  Ðây là một cuộc phiêu lưu, và kết cục, có thể là hài, có thể là bi, cho  cả hai. Lẽ sống của tôi là viết, cuộc phiêu lưu đó tất là dịp may. Còn  đối với bà, nhân vật, thì trò này nguy hiểm như làm xiệc... 
Bà ta mỉm cười : 
-  Sống và làm xiệc, như nhau. Có gì mà nguy hiểm hỡi nhà văn. Giọng diễu  cợt, bà tiếp - Còn sẩy chân ngã từ dây đu ngã xuống, đó là điều tất  nhiên. Ai trên đời này lại không sẽ rồi cũng ngã một lần nhỉ ? 
Tôi đứng dậy. Tự trong sâu thẳm, một sự thúc giục không khiên cưỡng được cất thành tiếng : 
-  Nếu là nhân vật, bà phải chấp nhận chỗ đứng của tôi. Ngược lại, tôi sẽ  tuân thủ qui luật của những con chữ, khi thì làm chủ, lúc lại là nô lệ  cho bà. Từ nay, tôi gọi bà là Thu Huyền. Tại sao ? Tôi thích thế. Và có  lẽ ai tên Huyền mắt cũng sâu và buồn. Còn Thu, vì tôi yêu mùa này... Thu  Huyền thế là rất có cá tính. Nhưng nàng vẫn thiếu... 
Lần này, bà ta ngửng lên, hoảng hốt : 
- Thiếu gì... 
Lúc  đó, tôi hôn lên môi bà và gọi, Thu Huyền, Thu Huyền của tôi ơi. Thú  thật, tôi không hiểu động cơ nào đằng sau hành động của mình . Chẳng lẽ  nó đến từ niềm tuyệt vọng của nhà văn khi anh ta bất lực trong việc săn  đuổi để nắm bắt nhân vật. Nhất là khi anh ta đã nhận gia công biên tập  cho một cuốn hồi ký chỉ có tháng năm và những sự kiện.