Soan còn nhớ như in cái hôm Triều bỏ nhà đi ra hậu phương (trong kháng chiến chống Pháp, người các vùng bị chiếm thường gọi vùng tự do là “hậu phương”). Mỗi lần nhớ, lại thương.
Hồi ấy đương đồng cạn, đêm nào vợ chồng cũng đi tát nước, gà gáy về lúi húi thổi cơm, ăn xong thì vừa tang tảng, chồng lại sắp gánh cho vợ đi hàng xáo. Hôm ấy, cơm xong, Triều sửa soạn gồng gánh sớm hơn thường ngày. Nhưng vừa rửa bát dưới ao lên, đột nhiên Triều quơ cái thanh tre dựng cửa bếp, không nói không rằng, quật luôn hai cái vào lưng vợ. Soan oằn người, gieo thúng gạo, gieo theo cả người xuống. Triều điềm nhiên phết cho hai cái nữa. Khi đó, Soan đã hết ngơ ngác và bắt đầu nổi giận. Chị lăn ngay ra đấy. Hai chân giãy như tuồng trẻ dỗi mẹ, rồi rũ tóc ra, gào khóc.
Bà Cam, mẹ chồng, đương quét sân, thấy to tiếng, nhưng bà không ngẩng lên, như đã quen những chuyện ấy. Bà vừa lia cái chổi, vừa lẩm nhẩm: “Sáng mùng một vừa mở mắt ra đã quạc mồm như con quạ khoang”. Ở bên kia rào găng, mụ Nắp đứng chắp hai tay sau lưng, nhìn nghếch sang, chép miệng một mình: “Mát ruột, mát ruột. Cái đồ lười vãi thây chỉ mộ ăn không mộ làm thì cũng phải được đòn đánh thế mới bớt rửng mỡ”.
Hôm ấy lại là ngày phiên chợ. Cả xóm trong đi chợ qua, nghe tiếng xô xát, bảo nhau. “Cái anh Triều nom nhu mì thế mà dữ đòn, đánh vợ cứ như đòn mật thám”. Những miệng hớt lẻo ấy loang ra chợ, và chị Soan lại bỏ buổi chợ hôm ấy, thế là cả bốn xóm đều nói dăng dăng: mới sáng mùng một mà thằng Triều nện vợ một trận đau.
Soan gào một lúc rồi ngồi dậy, vén hai mé tóc xoã xượi, vạch ra cái mũi khóc đã bóng đỏ, khạc mấy cái, đứng lên nhấc hai thúng gạo vào buồng. Rồi không kể lể, không xụt xịt nữa, lẳng lặng nằm queo xuống giường, quay mặt vào trong vách. Đó cũng là cái thói quen mỗi khi có chuyện dỗi bỏ, Soan vẫn nằm vạ như thế.
Trong khi ấy, Triều cầm cái sào nứa, hầm hầm đi thẳng ra ngõ. Bà Cam quét sân xong, ngẩng lên đã thấy con trai thấp thoáng cắp cái nón mê ra tận giữa cánh đồng. Bà đoán Triều đi mua bèo hoa dâu. Việc ấy đáng lẽ vợ nó đi được, bà càng xót con. Hễ cứ vợ chồng Triều cãi nhau, bà lại cho là thằng Triều hiền lành lấy phải con vợ thần nanh đỏ mỏ. Bà cất chổi vào xó ngõ, rồi quay vào. Thấy cửa buồng đã che cánh cót, bà biết con dâu lại nằm dỗi rồi. Bà xuống đuổi con gà mái mẹ đương cục cục với lũ con bới đống dấm trấu vừa vun lên. Mụ gà mái ấp ham con, cứ xòe cánh ra quặc lại. Bà vừa xuỳ xuỳ dồn, vừa chửi, không ra chửi gà, không ra chửi người: “Cha đẻ mẹ mày! Gan à? Công bà quét còng cả lưng đấy. Gan à? Tiền trăm bạc chục mua về đấy chứ chả nước lã đổ hồ đâu, ngay xương lắm thì bà chẻ xác ra... Gan à, gan này... gan này...”. Soan nằm trong buồng, tuy nghe không thủng, nhưng cứ cái giọng to nhỏ trì triết ấy thì Soan đã thuộc, Soan biết bà đương xói móc. Soan nghẹn đến cổ, nước mắt lại ứa ra. Đau chồng đánh một phần, đau mẹ chồng rức lác còn cay đắng gấp trăm. Nước mắt Soan cứ nối nhau bò nghiêng một bên má rồi rỏ xuống từng giọt.
Cơn tức cũng dần dần vơi, Soan nằm nghĩ loăng quăng trong cái góc buồng tối. Chợt trông thấy một vệt ánh nắng thả xuống, rọi vào mấy củ khoai dưới gậm giường. Biết thế là mặt trời đã lên cao, nắng ra tới giọt tranh, mất buổi rồi. Con chim chào mào ở đâu bay đến hót trước sân, nghe rõ tiếng chân nó đậu rào rạo vào cái sào nứa cọc rào mùng tơi. Như thế là ngoài sân vắng, mẹ chồng đã đi cào cỏ. Soan liền ngồi dậy, quấn tóc, ra hè tìm cái rổ sảo, bốc đống khoai lang ngồi đầu hè nhặt khoai hà. Nghe tiếng lao xao ngoài gốc vối bờ ao, Soan đứng lên bậc cửa, nhìn thấy bà Cam cầm cái cào cỏ, đương chuyện với mụ Nắp. Mụ này đưa hai ngón tay vuốt mép trầu: - Cô ả nằm ngửa quen rồi, cái quân làng Trường ấy mà. Bà Cam gật gật, ừ ào. Thật thì bà cũng không nghe mụ Nắp nói, bà đương kể lại cái chuyện ban sáng “thằng Triều nó đánh vợ nó”. Trong khi mụ Nắp cũng chẳng nghe chuyện bà, mụ cũng cứ “cái con làng Trường nằm ngửa quen rồi”, hai người cùng nói và cũng không ai nghe chuyện nhau. Đứng xa không rõ, nhưng Soan đoán “họ lại chỉ thối mồm”. Soan bực, cáu quá, Soan vơ một cây nứa. Soan đập chát chát lên cái cột. Ngoài kia nghe động, hai người bỏ đi hai ngả. Bà Cam xách cào cỏ, trở về. Soan vội bê sào khoai lủi nhanh vào buồng, lại nhấc cái phên che kín cửa lại như lúc nãy. Bà Cam về lấy túi trầu bỏ quên. Thấy cửa buồng vẫn che, bà chép miệng hai cái, rồi lại vác cào cỏ ra ruộng. Mẹ chồng đi khỏi, Soan lại ngồi dậy, bưng cái sảo ra đầu hè nhặt khoai. Ánh nắng lên, mồ hôi xâm xấp ra lưng, Soan ngoái tay sờ thấy hai vết đòn lằn con trạch, đau rát. Soan lại ứa nước mắt. Nhưng Soan không thể ngờ được những roi đòn vũ phu thế. Bởi nửa đêm, nó còn hùng hục như quỷ giãy. Lúc đi tát nước, lại cười đùa ngặt ngẽo, thế mà giở mặt chóng thế. Triều đi hôm ấy không về. Tan chợ hôm sau, vẫn chưa thấy về. Soan ngờ ngợ, quơ tay lên dây treo áo thì thấy quang hẳn hai cái quần và cái áo nâu cũ. Sợ quá, quên cả những chuyện mẹ chồng nàng dâu đương giận nhau, Soan chạy ra, môi run không bắt được tiếng: - U ơi! Nhà tôi nó đi rồi. Bà Cam vào xờ lại cái thừng vắt áo trong hóc cột. Hai mẹ con ngẩn ngơ. Nhà bỗng vắng hẳn đi. Một phiên chợ nữa cũng không thấy Triều về. Một hôm, lúc chặp tối, có người ở xóm trên đến. Anh ta gọi Soan và bà Cam lại, nói nhỏ: - Anh ấy nhắn tôi về bảo cả nhà yên tâm.
Hai người ngơ ngơ không hiểu. Người xóm trên mới kể: anh ấy và anh Triều ra hậu phương đi tòng quân. Vào phòng tân binh khám sức khỏe thì Triều trúng, được nhận ngay. Người mẹ chồng và nàng dâu nhìn nhau. Bất giác, thấy lẻ loi, cô đơn quá. Những chuyện giận dỗi mấy hôm nay đã bỏ quên đâu tất cả. Đêm ấy, mãi đến lúc sảy xong hai mẻ gạo, khuya lắm, vào giường nằm, Soan vẫn còn như chiêm bao mất tiền. Bây giờ mới sáng dần cái việc anh ấy đi. Ra họ đã ý tứ sửa soạn với nhau từ bao giờ! Nghĩ lại mới tỏ ra. Nhớ có hôm vợ chồng đi tát nước chiều, trông đường cái ù trắng bụi ô-tô, Soan bảo chồng: - Xe nó bắt lính ở Ninh Giang sang kìa. Triều cười nhạt: - Rồi nó vào bắt lính làng này ấy. - Nói dại! - Dại với càn gì! Nó muốn lùa hết con giai vùng này đi lính mà. Nhưng tao đã có bài của tao rồi. Hừ, ai đi đạo cứ đi đạo, ai đi đời cứ đi đời, chứ trâu hoá ra bò thế nào được. Không bao giờ tao chịu thân phận lính tráng cho chúng nó đâu. Rồi Triều cười, tiếng cười khô không khốc. Còn Soan thì im lặng.
Ra anh ấy đã nói bóng, cười bóng như thế. Soan bỗng đột ngột giận chồng. Rồi lại tủi. Sao bỗng dưng nó lại đánh mình rồi bỏ đi. Hay là nghĩ mình chợ búa đi hôm về tắt giai gái thế nào... Hay mình cũng muộn mằn... Nhưng những ý nghĩ ấy chỉ thoáng qua, mà một nỗi lo khác hiện ra. Lệ thường ở đây có người đi, lý trưởng biết đi ra “ngoài kia”, chúng nó đến hạch, có khi đánh đập, bắt bẻ nộp phạt, vòi tiền. Song nay anh ấy đi, cả bốn bên hàng xóm đều biết là chỉ vì giận vợ, đánh vợ mà đi. Đã rào trước đón sau có mưu mẹo cả rồi. Thế là Soan lại thấy thương chồng. Lấy nhau đã được ba cái Tết, nhưng vẫn còn son rỗi. Bây giờ lại đi, biết bao giờ về? Mà đêm ngày thì cứ đùng đoàng thế này, biết có còn mà về với nhau không. Soan nằm nghiêng qua nghiêng lại trên ổ lá chuối khô, cánh tay Soan duỗi dài, buông xuống giường. Cái giường rộng hơn mọi khi nhiều. Ăn cơm sáng hôm sau, Soan nói với mẹ chồng: - U ạ, nhà con nó gan quá. Bà Cam nói: “Tao biết rồi”, rồi buông bát, mếu, nghẹn không ăn được. Bà đứng dậy, ra bậc cửa ngồi một lúc mới xách cái cào cỏ đi. Soan cũng không ăn nốt được. Chỉ có cô gái bé vẫn ngồi đến no mới đứng dậy rồi cũng cầm cào cỏ theo. Nhưng bà Cam ra đồng quơ quàng mấy nhát, cứ bồn chồn như ai cào ruột gan mình, lại bỏ về nhà người con gái lấy chồng xóm dưới. Chưa hết buổi, Soan đã đi gọi bà về. Soan sợ cái nhà vắng quá. Bà ngồi nhà một lúc, cũng không yên, lại ra đồng cào cỏ. Không đứng đâu ngồi đâu yên hồn. Bà Cam có nhiều con, đứa thì đi xa, đứa thì phải tù trên tỉnh, đứa ở riêng, đứa chết năm đói. Bà ở với Triều là con trai út. Bà Cam về tới gốc vối thì gặp mụ Nắp. Gốc vối ấy ở ngay cổng nhà mụ, lại là cầu ao. Chỗ ấy cũng gần như cái chỗ chuyện mảnh, chuyện thoáng của các nhà láng giềng, những đầu mối chuyện hũ mắm cáy, bát nước dưa, chuyện mẹ chồng nàng dâu, chuyện làng nước xa gần, ai phải lòng phải bề ai, ai đánh con chửi cái, đều là tin tức ở gốc gối cầu ao ấy mà ra. - Này người ta nói thằng Triều nhà bà đi Việt-Minh? Bà Cam chối đây đẩy: - Vợ chồng nó đánh nhau quá nó giận bỏ đi, cả làng biết đấy, bà biết đấy, tôi biết nó đi đâu! Nhưng, chẳng kịp nghe bà Cam trả lời, mụ Nắp đã lại nói: - Chẳng đi thì thằng Triều cũng chẳng thể ở được ở nhà. Cái con ngay lưng ấy mà đáo để! Chứ có ai mà giận vợ đến nỗi phải biệt tích đi tìm cái khó nhọc. Nó là quân Đắc Kỷ chứ không phải con người.
Hôm ấy, bà Cam không bắt chuyện nói xấu con dâu với mụ Nắp. Từ khi quận về đóng cái bốt tổng dũng chỗ cây đa đầu đồng, bà Cam càng buồn. Nhà bà gần bốt quá, đứng trong sân cũng trông thấy lô cốt, trông rõ cả thằng lính ngồi gác và cái kẻng bằng một dóng sắt treo ngoài mái tôn. Cứ tối đến, chốc nó lại gõ, inh ỏi khó chịu như gõ vào tai. Nhưng khổ nhất là, thâu đêm, trên lô cốt thường bắn phóng xuống. Đạn lung tung vào bụi tre, vào sân, vào nhà. Có người đã phải đạn, chết. Các nhà ở dọc bờ tre trông sang bốt, hãi đạn, tối nào cũng phải vào ngủ nhờ trong làng. Chỉ có việc tối đi ngủ nhờ mà hai mẹ con cũng hay vằng nhau. Nhà mụ Nắp tường gạch cửa kín, nhà ngang khuất hai lần tường, đạn khỏe đến đâu cũng không phá được. Tối tối, bà Cam và cái Gái cắp chiếu sang nhà mụ Nắp. Nhưng Soan thì đi nằm nhờ nhà khác. Mụ Nắp nói mát: “Cô ấy cành cao lá dài. Bà Cam có cô dâu út kiêu kỳ nhỉ”. Nhưng Soan nhất định không chịu vào nhà mụ Nắp. Soan ghét “con mẹ lắm mồm hay đưa chuyện”. Bà Cam tức tím ruột, mà không nói nổi con dâu. Vì có đi ngủ đâu, nhưng nửa đêm đi cấy, gà gáy đi tát nước, Soan vẫn lăn lưng làm chẳng thiếu một việc. Nhưng rồi năm này sang năm khác, nhà cửa càng nhạt nhẽo, cứ gà lên chuồng thì mẹ con mỗi người một nơi. Khi chiều, khi đêm, thật buồn. Soan nhớ chồng, chẳng biết làm thế nào khuây được. Có lần Soan lại dỗi về nhà mẹ bên làng Trường. Vì chuyện gặt ruộng làm của nhà mụ Nắp. Cánh đồng triều, mùa nước cả ngập đến cổ, Soan phải túm từng đầu lúa, lặn xuống mới cắt được mà vứt lên thuyền. Phải năm mất mùa, cắt suốt đêm quang ruộng mà chưa nổi được lưng thuyền thúng lúa. Từ khi Tây về đóng bốt, thóc gặt được, bà Cam cũng đem để nhờ nhà mụ Nắp. Tây đi càn thường lùng xét nhà tranh không hay vào nhà ngói. Gửi thế cho chắc chắn. Soan nói: - Mùa này mất, chỉ cắt được có vậy thì mang về. U đem gửi, nhỡ bà ấy mà trừ nợ thì toi công. - Mày rõ trứng khôn hơn vịt... Bà Cam mắng. Soan dỗi cơm, vào buồng nằm. Bà Cam xách giỏ đi bắt cua. Soan nằm ngoảnh mặt vào vách. Nhưng mà sao nằm dỗi vắng chồng, nó buồn thế, chán thế, lâu thế! Quơ tay lên cái thừng vắt áo trên đầu giường, chỉ có muỗi vo vo bay ra. Thế là Soan trở dậy, đi về nhà mẹ đẻ.
Sang làng Trường, mẹ đuổi Soan cũng không về. Rồi nói mãi hoá nhàm, vả lại vốn mẹ chiều con, cũng thôi. Một hôm, bà Cam sang gọi Soan. Hai bà dâu da ngồi nhai trầu nhọp nhẹp, thăm chuyện gặt hái, rồi bà Cam khóc, mẹ Soan cũng khóc. Những giọt nước mắt cùng cảnh. Bố đẻ Soan năm trước phải đại bác chết ngay đầu ngõ. Nhà cửa từ bấy giờ hắt hiu như mưa rầm về chiều. Hôm ấy, mẹ đẻ Soan bắt Soan về, bà nói: “Mày phải thương chồng mày...”. Nghe nói thế, Soan trở về. Trước chặp tối, bà Cam đương sắp chiếu bảo cái Gái đi ngủ nhờ, bà nghe tiếng chào “u ạ”, rồi tiếng mở cửa liếp buồng. Biết con dâu về, trong bụng đã hồ hởi, nhưng vẫn làm mặt lạnh, không nói. Bà cắp cái chiếu ra ngõ, bà quay lại, đứng ngoài sân, nói vọng vào: “Nhà mày dấm cái bếp rồi hãy đi!”. Cảnh nhà lại như thường, và thế cũng là yên rồi. Nhưng, cũng chỉ yên thoảng yên thì. Một lần kia, không biết lại vì việc gì, Soan cãi rồi vào nằm góc nhà, che kín cửa liếp. Chợt một bọn lính quận đi tuần ở đâu xộc vào, bảo bà Cam: - Gớm cho mụ già! Con cháu đi chui hầm, đêm mới hiện lên chứ gì. Mày là phụ lão cứu quốc thổi cơm tiếp tế, chúng ông khám mà thấy... Trong buồng, Soan rón rén mở vách - trước nay cái vách vẫn mở sẵn đề phòng khi chạy tháo, Soan chui ra vườn. Soan chạy một mạch về làng Trường.
Thôn xóm ê chề phải chịu luôn mấy trận càn lăn đi lăn lại, cả vùng. Làng nọ đứng cạnh đồng trông thấy làng kia mà không ai dám qua. Bà Cam không dám đi gọi con dâu. Soan thì ở lỳ nhà mẹ. Bà Cam khóc ngày khóc đêm, lúc chửi thằng Tây, lúc chửi đàn gà hay bới, lúc chửi con dâu, lúc gọi: “ới Triều! Thằng Triều ở đâu không về mà cho cái con trời đánh không chết kia một trận”. Cứ chặp tối lúc mọi người đi tìm chỗ ngủ tránh đạn thì những tiếng lầm rầm chửi lại từ căn nhà vắng tanh vắng ngắt cất lên. Mẹ chồng nàng dâu, hai người cùng đầy đoạ, làm khổ nhau. Những chuyện nhỏ nhen, lặt vặt không đâu và những giận dỗi, những riếc lác, móc máy. Lại một năm nữa qua. Rồi một hôm, đương nghe nhiều tiếng súng dữ dội thì có tin ngừng bắn. Mừng quá, Tây còn ở trên bốt, trên tỉnh mà ai cũng cứ đi tênh tênh ngoài đường. Mừng quá, Soan bỏ cả cơn dỗi mẹ. Soan ở làng Trường về. Soan quẩy về thúng khoai riềng và một bu hai con gà nhép. Bà Cam lẳng lặng coi như không có chuyện gì cả. Bà đem cho con gà một nắm ngô. Mẹ chồng nàng dâu cùng ăn khoai riềng và nhìn ra cánh đồng. Thật thì cũng chẳng khác lạ, nhưng Soan nói: “Hoà bình có khác, trông cánh đồng cũng khác”. Bà mẹ chồng cười nhăn nheo nói theo đuôi: “Ừ, có khác thật”.
Tối ấy, nhiều nhà ngủ yên ở nhà, người phản nọ chuyện trõ sang phản kia rất khuya. Trong giấc ngủ đêm mịn màng, không gợn tiếng súng. Soan trở mình qua lại và thở dài, gãi ngón chân xuống chiếu. Soan thao thức lại cái hôm Triều đi. Triều đội nón, cầm chiếc sào, lủi thủi giữa cánh đồng kia. Thế mà đã năm, sáu năm rồi. Trong làng, nhiều người đi kháng chiến, rồi cũng lần lượt biết tin. Riêng Triều thì chỉ biết là Triều đi bộ đội, rồi cũng thôi, bằn bặt. Vì thế càng nhớ. Nhưng Soan kín đáo, không bao giờ nói ra. Bà Cam nghe người ta tính: làng ta có bốn anh hy sinh. Có anh thì biệt tích. Có anh về rồi... Anh ấy về rồi, anh kia về rồi, chỉ còn anh Triều chưa có tin. Bà Cam nghĩ: “Phải, còn thằng Triều sắp về”. Nhưng hai mẹ con cùng im lặng, không nói, hồi hộp, lo lắng. Bà Cam bây giờ tươi tỉnh hơn, song có chuyện gì cũng vẫn kể với mụ Nắp. Nhiều khi bà cũng giận mụ Nắp, nhất là cái năm mụ ấy khấu mất thuyền thóc thì bà Cam bỏ hai ba tháng không sang nhà. Nhưng rồi phai phai đi, vả lại tuần rằm mùng một vẫn sang đèn hương bên điện - bà Cam đội bát hương ở điện đồng Nắp - thế là rồi lại lân la, lại chuyện, thỉnh thoảng lại đứng to nhỏ dưới gốc vối. - Ra bà lão này gan to, con giai đi bộ đội mà cấm có cho ai biết. Chuyến này thì bà lên xe xuống ngựa rồi. Tôi có phải lên địa chủ thì đừng quên tôi nhé. Mẹ lại phàn nàn hộ bà Cam: - Người ta đi đông đi tây về cả, mà sao anh Triều bên ấy chẳng tin tức gì. Hay là vợ Tây, vợ Tầu đâu rồi. Phải, mà những như cái ngữ vợ ở nhà thế thì anh ấy cũng cầm bằng cởi cái áo rách vứt đi chứ tội gì! Cứ mỗi lần chuyện với mụ Nắp, những câu tai ác của mụ lại thêm chồng chất thật nặng, thật cay trong đầu bà. Bà Cam vừa quẩy bánh khoai về, mụ Nắp đã sang. Mụ đảo mắt một lượt, rồi rướn cổ, rà rà ngồi xuống, khẽ hỏi: - Đâu rồi? Bà Cam chép miệng: - Biết được người ta đi đâu. Bà ngồi chơi. Thế là hai bà lão lại ngồi cà kê kể xấu con dâu và mọi chuyện làng xóm khác. Tháng tám năm sau, đội cải cách về xã, Soan được ra làm cán bộ xóm. Tối đến, chưa dứt tiếng kẻng gọi họp, người các ngõ đã đổ ra. Tíu tít bề bộn những hội ý, họp xóm, họp xã, chẳng mấy lúc Soan có nhà. Một hôm, Soan về nói với mẹ chồng: - Từ giờ u đừng sang nhà con Nắp nữa. - Người ta thế nào mà con nọ con kia, mày ăn nói xô bồ quá. - Nhà nó thì địa chủ đến nơi, u chưa biết à?
Nghe hai chữ “địa chủ” thì bà Cam im. Phải như mọi khi, nghe Soan nói thế, thể nào là cũng choác lên. Nhưng lúc này bà lặng lặng. Khi Soan lại tất tưởi đi, thì bà lẩm bẩm: “Phải, chưa biết... tôi chưa biết... chị biết nhiều, biết nhiều... Cứ chạy long lên thế thì rồi có khối cái đổ vào mồm, rồi rã họng ra... Nó mà ở nhà thì nó đánh tuốt xương chứ lại coi người nửa con mắt được à”. Không nghe rõ câu, nhưng Soan đã biết tính mẹ chồng hay nói làm bàm sau lưng. Bà lão lại đương chửi mình. Thế là, Soan tối sầm mặt lại. Trong bụng đương tấp nập tính toán việc xóm, bỗng lại lạnh ngắt. Rồi bà Cam vẫn cứ thì thầm với mụ Nắp. Vẫn cái tính người già ưa trò chuyện và than thở. Làm sao mà mụ Nắp khéo thế, cứ những lúc nhà chỉ có một mình bà Cam, mụ lại dò sang. Mụ vờ hỏi: - Chị Soan có nhà không? - Người ta đi đâu, chắc lại đi họp rồi. - Chẳng biết tôi gọi thế có được không đấy. Bây giờ, bà biết chưa, ai cũng phải gọi chị ấy là bà Soan. Có người xóm trên chào, chị ấy nghe không thủng, chị ấy bắt chào lại. Con dâu bà hách ra lửa đấy. - Chết, chết... - Việc gì mà chết, danh giá mới được thế chứ. - Giá với rổ chẳng thấy đâu, làng nước người ta chửi cho ủng mả đã. Thằng Triều nhà tôi mà ở nhà thì nó đánh cho... - Này thật đấy, thời đế quốc cũng không khinh người đến thế! Mà bà ạ, tôi nghĩ thế cũng chỉ mang tiếng ác chứ được gì đâu. Từ ngày chị ấy ra công tác, xem chừng càng lỏng tay việc nhà. Một mình bà thì bao giờ mới cấy hết? Bà Cam thở dài. Quả thật, lúa người ta xanh ngọn rồi mà ruộng mình còn trắng nước. Bà Cam bực, nhưng không nói. Dù sao, từ ngày Soan ra làm công tác, bà Cam cũng nể nể, ngại nói, mà chỉ bực bội ngầm. Đêm bà thở dài, rền rẫm, thườn thượt, buồn rứt. Đi họp khuya về, cũng thường nghe mẹ chồng thở dài. Nhưng Soan cho những chuyện ấy là “lạc hậu”, mẹ chồng là “lạc hậu”. Vì thế, dù có nghe thở dài, chép miệng, Soan cũng chỉ hơi khó chịu, khi nào khó chịu quá thì ra điếm nằm với chị em du kích. Nhưng, thật thì Soan cũng buồn. Mỗi lần thấy mặt bà Cam chảy chữ nãi, tối như trời mưa, tiếng thở dài rền rẩm, Soan muốn đối đáp ngay, nhưng nghĩ đến xung quanh, thì Soan đành bấm bụng. Có khi Soan khóc một mình. Khối đứa cùng một cảnh làm dâu mà sao chúng nó tốt số. Nàng dâu đi về quá bữa, mẹ chồng mở rá úp mâm cơm bảo ăn. “Chẳng bù với mình, mẹ chồng chưa mở rá úp cơm đã đi nói xấu nàng dâu mười hôm không hết chuyện”. Soan tiếc cái đời con gái ở với mẹ đẻ chẳng bao giờ có thể trở lại được. Có lúc Soan tha thiết nhớ Triều. Giá Triều mà có nhà, thế nào phen này cũng được cùng nhau làm công tác. Bây giờ Soan không như trước nữa rồi. Nhưng tiếc những cái đã qua thì chỉ càng buồn hơn mà thôi.
Buổi trưa ấy, cơn tức của bà vẫn còn nguyên. Thì Soan bỗng ở đâu về. Cơn tức vì sao thì cũng không rõ. Giận đấy, không đấy, vốn như cơm bữa. Bà Cam nghe tiếng con chó sủa nhủng nhẳng nửa quen nửa lạ ngoài đầu ngõ, nhìn ra, trông thấy Soan. Nhưng, cô con dâu cứ vào gần tới đâu thì bà mẹ chồng càng sững sờ. Soan thắt lưng bao da, khẩu súng trường nhấp nhô sau vai. Hôm mới hoà bình, bộ đội ta vào lấy tỉnh, bà Cam đi xem duyệt binh, trông thấy một đội các chị du kích chít khăn vuông, áo nâu mới, đeo súng, cũng oai như thế này. Soan đã vào đến trong sân. Những điều tức giận từ hôm qua, từ lúc nãy của bà Cam cứ phao phảo đâu mất. Soan hạ khẩu súng xuống, “chào u”, thì bà Cam nói một câu hiền lành mọi ngày: - Về mà ăn cơm. - Con vội đi bây giờ, con mang lẻ gạo đi đường thổi ăn thôi. Ô hay! Mấy sào ruộng nước còn chan chan, chưa cắm xuống được một cây mạ gọi là, lại “mang lẻ gạo đi”, nghe cái giọng chỏng lỏn ấy, bà Cam vụt nổi cơn, những toan thốc cho một hồi. Nhưng, ngoài gốc rạ có tiếng lạt sạt, bà nhìn ra thấy cái lão tổng Sa đứng đấy từ lúc nào, hai vai áo xo lên rù rù như con gà ốm. Chánh tổng Sa, nhà ngói bát vần một dãy, ruộng nhà ông chánh rải từ cổng làng rải ra. Là người làng đây, nhưng cả khi còn con gái, bà cũng chưa được tường mặt tổng Sa. Hách dịch sấm sét trong vùng này, bây giờ trông thấy tổng Sa như cái tã rách phơi bờ rào thì bà Cam rất lạ. Bà ngây nhìn. Soan quát: - Đứng đấy, ai cho mày đi! - Thưa...
Tổng Sa lúng túng, lập cập, lẩn thẩn quay một vòng rồi lại đứng yên một chỗ. Bà Cam sợ sệt khẽ hỏi Soan: - Đem người ta đi đâu bây giờ? Rồi bà vào vại, xúc một bát gạo, bọc vào khăn vuông cho con dâu. Lát sau, Soan đeo súng lên, bà Cam bần thần theo ra tận ngõ ngoài. Không phải để chửi nguýt, rủa Soan. Mà bà Cam đương nhìn theo sự thật cái đời con người quyền quý chết rồi, mà nàng dâu mình đeo súng đi kia, đích là người ta đã đến thời “được ngồi ghế cao”. Lúc bà trở vào, mụ Nắp đã đứng trong bờ rào. Mụ Nắp hỏi bà: - Đeo súng đi thế thì bao giờ về? - Chẳng biết. - Cũng bận lắm nhỉ? Ruộng nhà bà cấy hết chưa? Câu nói kháy ấy kéo bà Cam nhớ thửa ruộng làm rồi chưa cấy được, nước vẫn trắng nhởn, khi ấy khắp đồng, lúa nhà người ta đã bén rễ. Nhớ thế, bà Cam lại chán ngắt và khó chịu. Ấy, từng lúc, bà cứ giận, cứ sợ, cứ lạ, cứ mừng, không ra thế nào.