Bà Mây được xây tặng ngôi nhà "Tình nghĩa" hai chục mét vuông. Thân tộc, xóm giềng, cơ quan đoàn thể đến chúc tụng, pháo nổ đì đùng vui hơn ngày Tết. Năm nay bà tròn tám mươi. Lấy chồng từ tuổi mười lăm, sinh được hai đứa con trai. Chồng hy sinh ở Điện Biên khi thằng thứ hai mới lên năm. Năm 62 người con đầu cưới vợ, được đứa con gái thì đi bộ đội. Sau đó bốn năm, Vũ Văn Bình, cậu thứ hai thi vào đại học cũng vừa độ tuổi nghĩa vụ quân sự. Nghe nói Bình đỗ, nhưng giấy báo điểm về muộn nên anh đã vào quân ngũ. Bà mẹ ngậm ngùi, nhớ thương nuối tiếc khi chiến tranh thực sự bước vào nhịp độ khốc liệt. Nhà chỉ còn đàn bà trẻ con. Họ sống chờ đợi cho đến khi cuộc chiến kết thúc. Song những người đàn ông đều không trở về. Thay vào đó là hai giấy báo tử cùng đến một lúc! Xã phải bí mật tách làm hai đợt truy điệu cách nhau bốn tháng. Một năm sau cô con dâu xin đem con về nhà mẹ đẻ rồi lấy chồng bên kia sông Ninh. Bà mẹ Mây sống độc thân từ thuở ấy. Tuổi sáu mươi trời còn để cho bà sức khỏe đủ chống chọi với gian truân. Nhưng sang tuổi bảy mươi thì mọi sự đều biến đổi. Đứa cháu gái lấy chồng ngoài phố huyện cũng ít khi về thăm nom giúp đỡ bà. Hợp tác xã nông nghiệp suy tàn chẳng còn đủ sức bao cấp cho diện "ưu tiên" ngày một rộng. Bà sống tùng tiệm bằng mảnh đất phần trăm. Bốn gian nhà tranh giột nát mỗi năm một thu nhỏ lại đến nay chỉ như một túp lều. Kèo cột, rui mè mòn mỏi muốn ụp xuống cùng với tuổi già tàn tạ của bà. Họ hàng làng xóm cũng còn người chạy đi chạy lại. Song người tốt bụng thường lại nghèo nên chẳng ai cưu mang nổi. Một hôm có người đàn bà dung nhan tươi tắn, dáng vẻ phúc hậu, áo quần nền nã, khoác chiếc túi lớn, lần hỏi đến nhà bà. Chị nói giọng miền trong hơi khó nghe.
- Con có công việc buôn bán qua vùng này. Trời gần tối con muốn nhờ bà cho nghỉ lại một đêm được không ạ? Bà Mây ngần ngại. - Nhà tôi nghèo, chiếu manh, giường chiếc. Đêm nằm năm ở, muốn rộng rãi sạch sẽ, để tôi nói với bà Cầm nhà liền ngõ đây thôi. Còn nếu chị vui lòng nằm chung với già thì ở đây cũng được. - Con cảm ơn bác. Thân gái dặm trường con không muốn đến nhờ vả nhà có đàn ông. Được nằm bên bác là con mừng lắm rồi. Bà Mây vẫn thấy hơi lạ lùng và có phần nghi ngại. Thời nay thiếu gì kẻ gian lợi dụng lòng tốt của người khác để lừa đảo kiếm chác. Nhưng nhà mình thì chẳng có gì đáng để mất nên bà vui vẻ thu dọn cho khách có chỗ nghỉ ngơi tươm tất. Người khách lạ xin nấu nhờ bữa cơm. Chị có sẵn gạo, thức ăn trong túi. Bà Mây ra vườn tuốt cho nắm rau ngót. Chỉ một loáng bữa cơm ngon lành đã dọn ra. Gạo trắng thơm phức. Giò chả, gà luộc, cá thu kho toàn những thứ mà từ lâu lắm bà Mây chỉ thấy trong ký ức! - Con mời bác ăn cơm với con! - Chị cứ tự nhiên, tôi ăn rồi.
Thực ra bà nấu một bữa ăn hai. Còn lưng cơm nguội khô nhăn vẫn trong đáy niêu. - Con nấu đủ cho hai mẹ con. ít nhiều bác dùng một lưng cho con vui! Nói rồi chị kéo bà lại ngồi bên mình, rót rượu ấn vào tay, tiếp thức ăn đầy bát, mời chào đon đả thân tình như con cái trong nhà. - Chị có tiền mua thức ăn ngon sao không dùng bữa ngoài hiệu cho gọn, mang theo làm gì thêm lách cách? - Dạ con ăn trưa ngoài phố huyện, nghe nói đường vào đây còn xa, sợ trong này không có hàng quán nên phải chuẩn bị tí chút. - Trong này cũng chẳng thiếu, có tiền là đủ cả... Chắc chị buôn bán kiếm được nên mới tiêu pha rộng rãi thế này? Thiếu phụ cười hiền lành. - Nhà con cũng làm ruộng như quê ta đây thôi. Nhưng gần rừng liền biển nên kiếm cũng dễ. Con xin thưa thực với bác là con chẳng phải dân buôn. Con đi tìm em trai con. Cha mẹ mất sớm, chỉ còn hai chị em. Cậu ấy giận vợ chồng con bỏ nhà ra đi, nghe nói đã lấy vợ, lập nghiệp ngoài này. Con phải chuẩn bị tiền bạc cho chuyến đi tới đích. - Thế cậu ấy tên là gì? - Em con tên là Bình. Vũ Văn Bình. - Thì ra cùng họ tên với thằng con thứ hai của tôi! - Bà cụ thở dài. - Nhưng em Bình nhà tôi hy sinh năm 1973 rồi!
Người đàn bà thất sắc, tay run run vội buông bát đũa ngồi chết lặng như người mất hồn. Bà mẹ ngạc nhiên hỏi khách. - Có chuyện gì thế chị? - Dạ con nghĩ đến em con, nghĩ đến cái chết ở nơi đất khách quê người. - Chị lau nước mắt cười gượng. - Có lẽ con hỏi thăm nhà cậu Bình mà người ta chỉ tới đây. - Theo tôi biết thì làng này không có anh rể ngụ cư nào là Bình. Có thể người đưa tin hiểu lầm chăng? - Con cũng nghĩ vậy... song tâm tưởng lại cứ tin chắc là em con đang sống quanh quẩn nơi đây. Nó mai danh ẩn tích cũng là muốn tránh mặt con thôi. Con sẽ còn đi lại vùng này, bác cho phép con thỉnh thoảng lưu nhờ đôi ba bữa. - Chị cứ coi đây là nhà mình. Tôi cũng sẽ dò hỏi giúp mấy làng quanh đây, có tin gì tôi mách chị. Đêm đó bà Mây nằm cạnh khách chuyện trò thâu đêm. Lâu lắm bà mới có dịp dốc bầu tâm sự, chia sẻ buồn vui với một người xa lạ. Thế mà khách lại chăm chú lắng nghe, hòa chung tiếng cười giọt lệ như người thân trong nhà... Sáng hôm sau bà tỉnh dậy thì đã thấy chị ta chuẩn bị cơm nước chu đáo bày đặt gọn gàng mời bà đi dùng bữa. Bà mẹ cảm động và thầm nghĩ: y như cô Tấm trong quả thị chui ra vậy. Ăn uống xong chị xin phép bà đi tìm em, gần trưa mới về. Bà hỏi, chị thở dài, chưa thấy tăm hơi gì. Chị mở túi lấy bộ đồ ướm vào người bà ngắm nghía. Lại có cả chiếc áo bông dày dặn bằng láng hoa đen.
- Trong ta không có thứ này hay sao mà chị phải ra đây mua? - Dạ con mua để biếu bác đấy? Bác mặc chiếc áo bông vào xem có vừa không? Con hẹn với chủ hàng là nếu mẹ tôi mặc không đẹp thì tôi sẽ mang ra đổi chiếc khác? - Chị mua cho tôi? - Bà ngạc nhiên tròn mắt nhìn người khách lạ. - Ôi tôi không dám nhận đâu! Tốn phí thế này tôi biết lấy gì đền ơn chị! Thiếu phụ cười đôn hậu: - Mấy thứ này cũng rẻ thôi, xin bác đừng bận tâm. Con mà tìm được cậu cháu thì ơn bác lớn gấp trăm lần chứ bộ quần áo nào so sánh được? - Nhưng mà... - Bà Mây xúc động nghẹn ngào không nói được. - Trời Phật xui khiến hay sao mà anh Bình, con mẹ lại trùng họ trùng tên với cậu em con. Xin mẹ hãy coi con như con gái mẹ. - Mẹ cảm ơn con! Tên con là gì mẹ chưa biết mà con đã bỏ hàng đống tiền mua quà cho mẹ... Mẹ thật có lỗi với con. - Tên con là Huệ mẹ ạ. Từ đấy bà Mây có cô con nuôi người đường trong. Huệ đi rồi, thu xếp chăn gối bà thấy một gói tiền khá lớn. Bà tưởng chị quên nên ngong ngóng chờ quay lại nhưng không thấy. Bà lo lắng đem giấu kín sợ kẻ gian biết đến cuỗm mất thì mang tiếng. Nửa năm sau chị Huệ quay lại. Mới nhìn thấy chưa kịp hỏi han bà đã vội đi lục gói tiền mang ra trả. Chị ôm lấy bà mẹ ứa nước mắt. - Mẹ ơi đấy là số tiền con định đưa biếu mẹ nhưng lại sợ mẹ không nhận. Con đặt dưới gối để khi cần mẹ tiêu. Thế mà mẹ vẫn giữ đến giờ? - Mẹ nghèo nhưng con có để bạc triệu thì mẹ vẫn giữ cho con. Tấm lòng con còn quý hơn vàng! Từ đấy biếu gì chị phải đưa tận tay, dặn dò kỹ lưỡng. Thấy vách lở chị nhào bùn trát kín, thấy mái dột chị leo lên dọi lại. Tuy hàng năm chị mới ra nhưng bà mẹ cảm thấy ấm lòng, còn có người để mà mong đợi mà nhớ thương. ...
Nhưng từ ngày bà được xây "căn nhà tình nghĩa" thì lại không thấy chị Huệ ra. Bẵng đi một năm rồi, ruột gan bà cứ héo hon buồn thảm. Nhà cao cửa rộng làm gì khi nỗi nhớ mong cứ chìm trong tuyệt vọng. Từ khi bà có chốn ở khang trang, cái Tuyến, cô cháu nội lấy chồng trên huyện cũng năng phóng xe về thăm. Người con dâu tái giá bên kia sông thỉnh thoảng cũng đáo qua. Nhưng lòng dạ bà vẫn không nguôi ngoai hình bóng người con nuôi xứ lạ... Rồi một hôm Huệ dẫn theo một chàng trai cao lớn, dung nhan tuấn tú về thăm. - Thưa mẹ, hôm nay con đưa cháu Vũ Bình Minh, con trai con ra thăm bà. - Cháu chào bà ạ? - Ôi! Cảm ơn con, cảm ơn cháu! Hơn năm qua mẹ mong đỏ mắt chẳng thấy con ra. Mẹ cứ lo chưa gặp con thì chết không nhắm mắt nổi. Đêm hôm đó Bình Minh nằm nhà ngoài, Huệ và bà Mây chung giường buồng trong chị mới kể lại những điều sâu kín của mẹ con mình cho bà Mây nghe.
Năm 87 tiểu đoàn 12 chuẩn bị vượt Trường Sơn vào chi viện cho chiến trường B6. Bộ đội được đi phép lần lượt. Bình về thăm mẹ và gia đình để khởi đầu cuộc trường chinh không hẹn ngày về. Bà Mây thương nhớ con nhưng vẫn động viên anh trả phép đúng hạn để thay phiên cho những anh em đi sau. Bình đóng quân ở một làng nghèo ven biển miền trung. Một nửa tiểu đội anh ở nhờ nhà anh Hạc, một thương binh chống Pháp, cụt chân trái. Hai anh chị chưa có con nên nhường cả ba gian nhà ngoài cho bộ đội. Khi Bình về thì bốn anh em còn lại vui mừng giao tất cả quân trang vũ khí cho anh để đi phép đồng loạt. Đêm hôm đó anh Hạc rời buồng vợ ra nằm chung với Bình ở nhà ngoài. Hai người lính của hai cuộc chiến tranh thì thào tâm sự với nhau hết chuyện này sang chuyện khác. Hạc cũng người ngoài Nam Hà, cha mẹ mất sớm phải đi ở đợ. Đến tuổi trưởng thành anh đi bộ đội, vào chiến đấu ở mặt trận Trị Thiên. Anh bị thương nặng, chuyển ra khu Bốn rồi về Ty Thương binh. Thời đó Hội Phụ nữ có phát động phong trào xung phong nhận thương binh nặng về nuôi dưỡng. Nếu thương yêu nhau thì thành vợ chồng. Còn không hợp thì hết hạn lại chuyển về Ty để chị em khác nhận.