Một phụ nữ nông thôn chất phác, chịu thương chịu khó, tần tảo sớm hôm mà quá nửa đời người mới có một bộ quần áo mới. Thời thiếu nữ, trong cuộc sống của một người dân mất nước và trong chiến tranh, bà phải chịu cảnh đói rách, tủi nhục. Miền bắc được giải phóng, khi cuộc sống khấm khá hơn thì bà lại chăm chút, nhường nhịn chồng con. Bộ quần áo mới là niềm hạnh phúc, là mơ ước suốt cuộc đời làm lụng vất vả của một người nông dân Việt Nam vào những năm 60 thế kỷ này. Ông Vạn vác bừa về tới cổng, thì bóng nắng đã lẳn vào chân. Bãi hoa mười giờ đỏ rực, trông lùm lùm như mâm xôi gấc. Màu đỏ nhuộm lên buồng chuối, gốc chanh... Và cả mái nhà mới lợp. Thứ hoa này ông lấy giống từ hồi đi họp huyện, bây giờ nó đã lan ra một bãi khá to ở trước sân.
Ông Vạn có tính hay háu đói, đi làm hết buổi thì cuốc thẳng một mạch về nhà. Bà Vạn lại hay la cà, có hôm quá trưa cũng chẳng chịu về, hôm nhặt mớ củi, hôm nắm rau đồng, và con cua, ốc... chẳng có lại rẽ vào gò Thông bẻ nắm lá xanh về ủ phân. Lắm hôm ông chờ vợ về ăn cơm, cứ rít chán thuốc lào, lại ra cổng ngóng. Từ ngày có bãi hoa này ông đã đỡ bực, không phải ngồi chực niêu cơm như trước nữa.
Hôm nay ông Vạn lại về trước. Vào nhà vớ cái điếu cày, rít hơi thuốc dài, rót chén nước chè tợp một ngụm hãm khói. Rồi tranh thủ ngả lưng xuống giường, xương xẩu trong người giãn ra nổ cục cục thoải mái. Nằm một lúc ông vùng dậy nhìn quan nhà. Mấy đứa trẻ đi chơi vắng cả. Chỉ có đàn gà phá phách trong bếp. Nhà cửa có vẻ tanh bành rác rưởi. Ông đứng dậy quét dọn, rồi đặt niêu cơm lên bếp. Niêu cơm đã chín từ lâu. Ông Vạn sốt ruột lại chạy ra ngắm bãi hoa, nhổ vài khóm cỏ, tưới thêm mấy gáo nước. Quay sang nhìn mấy con lợn con béo mụp, đang cầy đầu nhặt thóc ở cây rơm. Mõm nó nhai nham nháp. Ông Vạn gật đầu, mồm lẩm bẩm: "Đã đến trật bán rồi đây". Lúc ấy bà Vạn cũng vừa vác bừa về tới cổng. Bà lẳng lặng bước vào nhà, cái đầu hơi cúi xuống, chân đi rất nhanh. Manh áo nâu bạc phếch đeo trên người khẽ bay bay về phía sau. Ông Vạn nhìn theo chợt thấy trên vai áo vợ toạc ra dài gần một gang tay. Miếng giẻ lập lều theo nhịp chân đi hở một miếng da lưng nâu rám. Ông Vạn nhăn mặt: "Hừ! Gai góc đâu lại vừa cào toạc ra kia rồi, rách thế mà bảo may vẫn còn gan".
Bà Vạn đã bưng niêu cơm lên nhà, hai đứa trẻ đi chơi cũng kéo về, nhảy tót lên giường ngồi xếp bằng tròn vây quanh mâm cơm. Tay chúng vớ lấy đũa, hai mắt hau háu nhìn vào những món ăn. Trong nhà vui nhộn hẳn lên. Bữa cơm hôm nay thêm món cua rang của bà Vạn mới bắt. Ông Vạn nhá giòn rau ráu. Mỗi bát cơm đầy, và ba miếng đã hết. Lũ trẻ tíu tít tranh nhau tìm càng cua to, làm nghiêng cả bát canh rau xuống mâm, nước chảy lênh láng. - Mẹ chúng bay, ăn uống gì mà nhộn thế, ông thì cho cái cốc bây giờ. Bữa cơm ngon lành chuyện trò cũng giòn tan. Bà Vạn nói hết chuyện bừa, sang chuyện cấy. Lúc vui mồm lại cất tiếng khen bà Lược: - Gớm bà Lược mới may bộ quần áo bằng vải gì mà đẹp đẹp là, chẳng biết bao nhiêu tiền mà sang thế. Ông Vạn bắt chuyện luôn: - Thì bảo may lại chẳng may, người ta mặc thì khen. Giỏi lắm chục bạc chứ mấy. - Chục bạc kia! Gần hết năm mươi cân thóc à? Chết chết! Bộ quần áo mất nửa tháng ăn. Ông Vạn khó chịu, ngoảnh sang lườm vợ: - Người đâu mà cứ nói đến tiền là co rúm lại. Ăn thì cũng phải mặc chứ. Ai người ta lại như bà ấy. Cũng liệu mà may lấy một bộ thỉnh thoảng có đi họp hành chăng. Còn sáu chú lợn con đấy. - Họp hành đâu lại đến cái con mẹ này.
Bà Vạn thấy chồng nói sợ lại khêu ra chuyện quần áo, liền lảng sang chuyện khác. Ông Vạn nín lặng, hai mắt nheo nheo đăm đăm nhìn ra ngoài sân nghĩ ngợi. Một cơn gió rít lên. Lũy tre trước ngõ trút xuống những chiếc lá khô rào rào. Ông Vạn khẽ rùng mình lẩm bẩm: "Sang đầu mùa rét rồi đây..." Ông liền đặt đũa bát xuống mâm, đứng dậy rót chén nước súc miệng, rút chiếc tăm cặp vào mồm rồi đi thẳng vào buồng. Ông đi tìm dao. Gian buồng tối mờ ẩm ướt, bề bộn thúng mủng, bồ, cót và những đùm quần áo ẩm sì, muỗi réo vo ve. Lục hết xó này đến xó nọ, ông khẽ reo lên một tiến nhỏ "à đây rồi". Con dao bỏ mãi trong xó tối, bên cạnh mấy cái que đẽo nham nhở. Chắc là thằng Trí mang nghịch bỏ đây. Ông cúi xuống nhặt. Khi ngẩng lên đầu đội luôn cái bị rách của bà Vạn rơi xuống đất. Mùi hôi hám bốc lên. Mấy cái mạng nhện chằng vào mặt nhặm nhụa. "Cái của nợ này". Ông tiện chân đá luôn một chiếc, cái bị lăn lông lốc, ộc ra nào giẻ rách, nào lọ thủy tinh... Mấy cái cúc lăn lọc cọc trong hộp bơ gỉ cũng ộc ra xếp thành hàng đến tận chân vách.
Ông cau mặt nhìn cái bị, vừa ghét lại vừa thương. Nó chẳng còn ra hình thù cái bị cói nữa. Cái quai ken hàng trăm lượt dây bẹ chuối sù ra bằng cái nùn rơm. Thân bị đụp vào đến chục miếng giẻ. Cái miệng đã bai ra toang hoác rách lướp tướp đầy những cói nát. Cái bị này bà Vạn xách về từ hồi vợ chồng mới lấy nhau, tính ra vừa hai mươi nhăm năm. Ngày ấy nó cũng rách thế này rồi. Thế mà đã đeo đi hết Lào Cai, Yên Bái rồi đấy. Ông bần thần một chốc, toan quay ra. Nhưng nghĩ thế nào, ông lại quay vào nhặt nhạnh cẩn thận, rồi treo cái bị lên chỗ cũ. Ông chép miệng thở dài: "Hừ! Bảo vứt đi thì không vứt, cứ đeo đẳng mãi". Ông Vạn cầm dao ra bụi tre đứng ngắm nghía từng cây một, rồi lách vào tận giữa bụi chọn đẵn một cây bánh tẻ, để đan rọ lợn. Gai tre cào vào người cũng chẳng thấy đau. Hình ảnh cái bị cứ bám riết lấy óc. Cuộc đời của hai vợ chồng từ thuở lấy nhau đến nay hiện lên rõ mồn một.
Ông nhớ lại từ năm đã lâu lắm, giữa trận đói tháng ba, có hai mẹ con người đàn bà quê ở dưới xuôi dắt díu nhau đến ở nhờ cái điếm ngoài cổng làng. Tên gọi là mẹ con bà Lành. Mẹ thì quanh năm mò cua bắt ốc. Cái Lành đi dắt trâu thuê cho nhà lý Cựu. Quần áo can vá hàng trăm mảnh. Bà Lành chỉ đi nhặt mụn giẻ của thợ may để can thành váy áo. Bộ váy đụp của bà Lành, không biết có tự bao giờ. Đến khi chết, để lại cho cái Lành, ông Vạn đã thấy nó dày tới bốn lượt. Nặng chình chịch như khố tải đẫm nước mưa. Cuộc đời hai mẹ con như vậy, lại có cái tên là Lành. Dân làng gọi thế như thấy chua chắt quá, mới gọi chệch sang là "Can", vì bà mặc rách rưới can vá như tổ đỉa. Tên cái Lành cũng tự nhiên được gọi là cái "Can". Đĩ Can đi dắt thuê con trâu đực cày của nhà lý Cựu, nó phá đi ngóng cái suốt ngày. Đĩ Can cứ lẽo đẽo chạy theo trâu kêu khóc. Cu Vạn lớn hơn, cũng chạy lừa bắt trâu hộ. Bọn trẻ trông thấy thế liền gán ghép: "Cu Vạn lấy con đĩ Can". Bọn trẻ con nói: "Váy của đĩ Can thằng cu Vạn khiêng không nổi đâu". Thế rồi duyên giời xe, hai người lấy nhau thật.
Vợ chồng lấy nhau cũng đủ sự cay đắng. Ông chẳng muốn nghĩ đến làm gì. Nhưng còn một điều đến chết cũng không quên được. Cái ngày sắp cưới nhau đĩ Can dành dụm được bốn hào bạc định may một chiếc áo mới. Những chỉ đủ mua bốn vuông vải thô, may được tầng trên, còn tầng dưới không biết làm sao, đành liều ăn cắp cái vạt áo cũ của vợ lý Cựu. Nó tra soát mãi không ra. Đến hôm đĩ Can mặc áo đi gặt thuê, vợ lý Cựu trông thấy nó nheo nhéo chửi từ đằng xa, rồi chạy xộc đến, túm tóc đĩ Can dúi xuống đất. Nó tát nó đấm túi bụi. Váy, áo đĩ Can nó xé rách tơi tả, người tô hô. Lúc ấy nó mới nhả ra. Đĩ Can vội cầm chiếc nón úp vào bụng chạy về nhà. Đành lấy bộ váy áo đụp của mẹ mặc vào, len lén về nhà chồng.
Cuộc đời cứ thế xô đẩy mãi. Đĩ Can đeo đẳng bộ quần áo can vá của mẹ cho đến ngày cải cách ruộng đất. Đội cải cách đến xin mang đi triển lãm nỗi khổ của nông dân, đĩ Can mới dứt được bộ quần áo nặng nề tội nghiệp ấy. Từ Cải cách đến nay, ông Vạn đã định may quần áo cho vợ nhiều lần. Những cứ lo chữa nhà xong, lại đến tậu trâu. Năm ngoái năm nay bảo bà ấy may mà mặc, thì nhất định không may, cứ vá chằng vá đụp. Cái ăn cái uống ở trong xó bếp với nhau, có miếng đầy miếng vơi ai biết được. Còn cái mặc thì nó phơi ra đấy. Người ta cười vào mũi ấy chứ! Cái bà này! Cái bà này! Thật không hiểu bụng chồng tí nào!
Ông Vạn vằm mạnh lưỡi dao vào gốc tre, bật ra những miếng dăm trắng mọng. Chỉ ba nhát dao, cây tre nổ ôm ốp rồi gục xuống. Ông vác tre lại gốc cây ngồi chẻ nan. ánh nắng buổi trưa xiên vào giữa gáy bỏng rát ông vẫn không đổi chỗ ngồi. Hai đứa trẻ xúm lại lột lụa bụng tre làm cờ, chạy tung tăng trước sân. Ông âu yếm nhìn theo: đứa nào cũng hao hao nửa giống bố, nửa giống mẹ. Một lúc, bà Vạn vác cuốc từ trong nhà đi ra, tưởng bà đi làm đồng. Nhưng bà lại ra đánh đống phân ngay gần chỗ ông ngồi. Ông để ý nhìn: miếng rách lập lều trên vai áo, bà Vạn đã vá rồi. Ông lắc đầu, da trán cau cau: "Không đi may cho bà ấy, rồi đến cùn đời vẫn cứ ăn mặc thế thôi". Người đâu lại có người suốt đời chịu cực khổ. Đến lúc có ăn có mặc vẫn cứ phải bóp chắt để nhường nhịn chồng con. Chẳng nghĩ đến ăn ngon mặc lành. Làm thì hì hục như trâu lăn suốt ngày. Từ khi vào hợp tác xã bà lại là người làm ăn khỏe mạnh đảm đang nhất. Mấy lần được bầu là gương mẫu rồi, vụ mùa vừa qua tính điểm bà ấy cao nhất trong hợp tác xã. Chính bản thân ông cũng còn kém vợ gần hai trăm điểm. Hơn tháng nay vừa được bầu vào tổ trưởng lao động. Lại cứ ăn mặc rách rưới thế kia thì còn ra làm sao?
Ông Vạn cứ ngồi thần ra nhìn vợ, quên bẵng cả việc đan rọ lợn. Hôm nay ông mới để ý những miếng vá trên quần áo bà Vạn. Miếng nọ chèn lên miếng kia, nhưng cái mụn nào cũng phẳng phiu ngay ngắn. Mũi kim nhỏ lí nhí thẳng tắp. Tưởng như những đường cấy của bà Vạn ở ngoài đồng. Cái Lý nhìn thấy bố ngồi cứ mân mê chiếc rọ lợn, chẳng đan xong. Nó chạy lại giục: - Bố! Bố đan đi! Ông Vạn chợt nhớ ra, nhìn xuống: "Thế là lỗi rồi". Ông kỳ cục dỡ ra đan lại. Cái Lý chạy đi chơi với em. Ông Vạn lại ngồi thẫn thờ, nhìn vợ. Một lúc nó lại chạy đến. Nó đang sốt ruột chờ lấy một cái rọ lợn, mang đút đá vào để khiêng với thằng Trí. Nhưng lần này nó không giục ngay cứ ngồi chầu hẫu nhìn lên mặt bố, rồi lại nhìn sang chỗ mẹ. Thấy hay hay nó cũng nhe răng cười: - Bố! Bố đan đi. Bố cứ nhìn mẹ mãi. Ông Vạn giật mình, lườm con một cái: - Con này chỉ nói càn. - Thật ị! Bố nhìn mẹ thật ị! Có cái rọ đan mãi chẳng xong. Ông Vạn nhay nháy mắt nhìn con, như có ý bảo: "Đừng nói nữa mẹ mày nghe thấy". Bà Vạn ngẩng đầu lên, mặt mũi cũng đỏ bừng. - Bố con nhà mày y như bố con phường chèo ấy. Bố mày thèm vào nhìn mẹ, cái con mẹ khai dinh dích này ấy.
Cái Lý càng cãi khỏe: - Bố nhìn thật ị. Khéo bố nhìn để đan rọ đút mẹ vào đấy! Ông Vạn nhe răng cười, nói gióng giả: - Bố đem rọ bán lợn để may quần áo cho mẹ mày đấy! Bà Vạn nghe tiếng, chống cuốc xuống đất, quay ngoắt cổ lại giãy nảy lên như đỉa phải vôi: - Này, đừng có may với vá mà chẳng xong với tôi đâu! - Chả xong cũng may.
Ông lắc lắc cái đầu cười khà khà: bà này cứ phải đi may cho rồi mới xong. Cũng như cái giường năm ngoái, sắm đoạn bảo nằm nhất định không nằm, cứ bám lấy cái chõng tre nát. Đến nước phải phá đi quăng vào đống củi, bà ấy mới chịu nằm. Lại đến cái màn, căng được mấy hôm, rồi đem cất luôn đi, kêu là nằm màn bí hơi, không chịu được. Nhưng có phải đâu, chỉ sợ nó cũ mất. Nói mãi nào có để vào tai. Đến khi thằng Trí bị sốt, anh y tá bảo: Vì bị "muỗi đốt". Lúc ấy ông mới la cho một chặp. Bà này nói ngọt không được, cứ là phải bắt ép. Ông Vạn sung sướng đã tìm được "biện pháp" hay, liền giơ dao lên ngang mặt chặt vào thanh tre kê trên đòn, bốp! bốp! bốp!
* * *
Phiên chợ hôm ấy bán lợn xong, ông Vạn mua vải may cho vợ bộ quần áo thật. Ông còn tạt vào hàng mậu dịch mua cho con mỗi đứa một chiếc áo bông hoa. Trên đường từ chợ về làng, người đi đông nghịt. Rủi cho những người đi ngược chiều phải tránh bà con về, chào hỏi mỏi miệng. Dọc đường về đủ các thứ chuyện: chuyện cửa chuyện nhà, chuyện chồng chuyện con, chuyện hợp tác xã... Ăn mặc cũng đủ màu sắc: áo hồng, áo trắng, áo xanh... Nhiều nhất là áo gụ quần thâm của các bà trung nữ. Người gánh, người mang đủ thứ. Chăn chiếu, vải hoa... Có người còn thiếu bồ cót đựng thóc, đi mua về gánh nghênh ngang chật cả lối đi. Ông Vạn hôm nay cũng đi trong đám người này. Ông mặc bộ quần áo "phăng". Cái túi dết đầy lặc lè đeo bên cạnh sườn. Tay phải xách nửa cân thịt lợn. Tay trái vắt hai chiếc áo bông hoa. Ông cứ lùi lũi chen đi trước mọi người. Vừa chen ông vừa ngắm nghía hai chiếc áo bông làm cho những người cùng đi cũng phải chú ý: - Bao nhiêu tiền đấy hả ông? Ông giơ áo lên ngang mặt, ngoái cổ lại tươi tỉnh trả lời: - Chỉ mất có ba cái chân con lợn con thôi đấy! Của đứa lớn sáu đồng, đứa bé bốn đồng, thế là vừa chục bạc. - Thế còn bà ấy không có cái gì à? - Bà cháu đã có cái khác ở trong túi này.