Chỉ mục bài viết |
---|
Tố Thủ Kiếp - Ngọa Long Sinh - Hồi 25 - 36 |
Trang 2 |
Trang 3 |
Trang 4 |
Trang 5 |
Trang 6 |
Trang 7 |
Tất cả các trang |
Hồi 29
Rủ Nhau Làm Bậy
Cù Thức Biểu nhìn Điền Tú Linh một lát rồi hỏi:
- Không biết tướng công định cải trang cho cô nương đây thành hạng người nào?
Vô Tâm cười nói:
- Tuỳ ý tiên sinh.
Tú Linh cười:
- Lão tiền bối cứ dịch dung cho tiện thiếp thành một nam tử vì tiện thiếp còn phải đi cùng đường với Nhâm tướng công.
Cù Thức Biểu ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
- Nữ cải nam trang, tuy bề ngoài có giống nhưng cử chỉ nói năng vẫn không giấu được ai. Nhưng thôi được, để ta thử cố xem. Mời cô nương theo lão phu sang bên này. Nhâm tướng công hãy đứng đây đợi một lát.
Điền Tú Linh vâng lời, theo ông ta ra khỏi thạch ốc.
Một lát sau lại thấy ông già khác, tay xách chiếc khăn gói bằng vải lam, bước vào. Nhâm Vô Tâm ngẩng trông lên, thấy ông già ấy chính là Thi Thuý Phong, một vị danh y quê Hà Sóc, liền đứng lên đón, lão cười nói:
- Nhâm tướng công hãy thay bộ y phục này vào đi. Lão phu sẽ xin vì tướng công mà sửa đổi nét mặt cho khác đi một chút..
Trong khăn gói, có một bộ y phục học trò bằng vải màu lam nhạt, giầy tất đủ cả. Nhâm Vô Tâm vội cởi áo cũ thay vào áo mới, rồi ngồi xuống ghế đá cho Thi Thúy Phong hoá trang.
Thi Thuý Phong lấy trong mình ra một chiếc hộp sắt, đặt lên bàn, cười nói:
- Xin tướng công hãy tạm nhắm mắt lại, để lão phu bắt đầu.
Vô Tâm theo lời nhắm mắt lại, chỉ thấy hai tay Thi Thuý Phong nhè nhẹ đưa đi đưa lại trên mặt mình, dần dần chàng cảm thấy da mặt nhờn nhờn ươn ướt, nhưng chỉ một lát là khô ráo dễ chịu ngay. Kế lại nghe Thi Thuý Phong cười nói:
- Xong rồi!
Vô Tâm cũng cười hỏi:
- Xong rồi kia à? Nhanh thế?
Rồi chàng mở mắt ra, đỡ lấy tấm gương trên tay Thi Thúy Phong, đưa lên mặt soi, chỉ thấy trong gương hiện ra khuôn mặt già nua gầy guộc, râu mọc lún phún đầy cầm, rõ ra một chàng tú tài kiết xác, thân già trước tuổi, còn đâu là chàng hiệp sĩ Nhâm Vô Tâm hoà hoa phong nhã mọi khi nữa.
Nhâm Vô Tâm thán phục vô cùng, vừa cười vừa nói:
- Tiên sinh diệu thuật vô song, đáng phục, đáng phục!
Thi Thuý Phong mỉm cười hỏi:
- Nhâm tướng công có biết tại sao lão phu lại hoá trang cho tướng công một hình dạng xấu xí, tiều tuỵ như vậy không?
Nhâm Vô Tâm ngẩn người ra một lúc, rồi lắc đầu cười gượng, Thi Thuý Phong liền giải thích:
- Trong giang hồ hiện thời không thiếu gì gái dâm đãng lẳng lơ, tướng công cải trang như thế này sẽ tránh được bao nhiêu là điều phiền phức.
Nhâm Vô Tâm bật cười:
- Lão tiền bối quả thực là dày dạn kinh nghiệm giang hồ, nhưng tại hạ…
Chàng vừa nói đến đây đã nghe tiếng Cù Thức Biểu cười ha hả, từ ngoài cửa nói vào:
- Nhâm tướng công không biết những câu chuyện phong lưu giai thoại của Thi lão tiên sinh lúc thiếu thời à? Nếu không thế thì làm sao có những kinh nghiệm hay ho ấy?
Mọi người đều cất tiếng cười vang. Trong khi đó Cù Thức Biểu đã dắt một chú tiểu đồng đội mũ nhỏ, mặc áo xanh bước vào. Chú tiểu đồng này mày rậm, mắt to, sắc mặt đầy vẻ ngây thơ thành thật, tuổi chỉ vào cỡ mười ba, mười bốn. Dầu người tinh mắt đến đâu cũng không thể nhận ra đó chính là Điền Tú Linh, đệ ngũ phu nhân của nhà Nam Cung thế gia nữa.
Điền Tú Linh đảo mắt nhìn quanh phòng một lượt, rồi cất giọng thỏ thẻ:
- Kỷ nhi xin đợi lệnh Nhâm tướng công sai bảo.
Cù Thức Biểu cười nói:
- Nhâm tướng công xem thử Điền cô nương cải trang có giống không?
Nhâm Vô Tâm vỗ tay cười sằng sặc bảo:
- Khéo quá! Tuyệt quá! Dù Nam Cung phu nhân có trông thấy, chắc cũng không thể nhận ra được.
Đoạn chàng chắp tay vái nàng một vái, nói:
- Thế này thì thật là uỷ khuất cho Điền cô nương quá!
Tú Linh mỉm cười nói:
- Huyền Quang đạo trưởng địa vị tôn quí như vậy mà còn hoá trang làm người hầu cho Bách Nhẫn đại sư, huống hồ tiện thiếp có xá kể gì? Xin tướng công đừng bận tâm đến điều ấy.
Nhâm Vô Tâm thở dài:
- Bọn ta tuy sức không thắng nổi Nam Cung phu nhân, nhưng chí khí thì còn vượt mụ xa. Hay dở gì thì ta cũng phải liều mạng với mụ một chuyến, dù không thắng được mụ, ít nhất cũng làm cho mụ thất điên bát đảo mới nghe.
Rồi chàng lại nói với hai vị danh y:
- Bây giờ xin hai vị xếp cho một số y phục cũ và vài món đồ nghề dùng để chế thuốc, cần nhất là ít dược liệu quí giá và mấy cái đơn thuốc bỏ đi, cho vào cái hộp bằng sắt, nhưng phải là cái hộp đẹp, chế tạo tinh xảo, để người ta vừa trông thấy là biết ngay bên trong đựng vật gì quí giá.
Thi Thuý Phong ngạc nhiên, không hiểu chàng cần dùng mấy vật ấy làm gì.
Cù Thức Biểu cười hỏi:
- Có phải Nhâm tướng công định dùng những vật đó để đánh lạc hướng đối phương chăng?
Nhâm Vô Tâm đáp:
- Vâng, đúng thế!
Cù Thúc Biểu liền đáp:
- Những vật đó thì đã có sẵn, để lão phu đi lấy cho tướng công.
Nói xong hấp tấp kéo tay Thi Thuý Phong đi ra khỏi phòng.
Chỉ trong chốc lát, hai người đã đem đủ những đồ cần dùng đến.
Thi Thuý Phong cười nói:
- Chiếc hộp này là gia bảo của Thạch tiên sinh ở Kinh Đô. Chỉ nội chiếc hộp không cũng đã quí giá lắm rồi, huống hồ bên trong lại còn bao nhiêu là thuốc quí nữa.
Nhâm Vô Tâm nghiêng người cảm tạ, lại dặn Điền Tú Linh chờ đợi trong giây lát, rồi cầm hộp và các thứ ra khỏi cửa..
Chỉ trong phút chốc, chàng đã ra khỏi động bí mật, xem xét khắp bốn phía trong khoảng chu vi chừng vài chục trượng. Khi biết chắc là không có ai theo dõi, chàng mới đi mạnh chân ra con đường chính, giẫm đạp bừa lên cây cỏ, làm thành nhiều vết chân, để ai trông thấy cũng tưởng là vừa có một bọn người đông đúc vừa ra khỏi động.
Sau đó chàng lại đem sống áo và các đồ dùng làm thuốc vứt rải rác ở các bụi cây ở hai bên vệ đường.
Những dấu chân trên mặt đất chỉ có đi mà không có về, vì lúc trở về chàng đều trổ thuật khinh công, chân không chấm xuống đất. Với các vật dụng vung vãi lung tung, đủ chứng tỏ là những người trong động đều đã đi chỗ khác và trong lúc vội vàng đã đánh rơi rất nhiều đồ vật.
Chàng dàn nghi trận ra xa tới hơn một dặm, lại cẩn thận kiểm soát một lượt, rồi mới yên trí ra về.
Sau đó, chàng còn đem những cỏ khô, dây mây và những tảng đá trước kia vẫn dùng để lấp lối vào động, dẹp hết ra cả hai bên, trong động đã không có người thì hà tất cần gì phải che đậy.
Làm xong bấy nhiêu việc, chỉ hết chừng ba bốn giờ, lúc này mặt trời đã lặn, sao hôm đã lác đác một vài ngôi, sắc trời có vẻ u ám.
Trong động, Cù Thức Biểu, Thi Thuý Phong cùng Điền Tú Linh chờ lâu sốt ruột, đã sai người dọn cơm, vừa ăn vừa đợi. Trong khi ăn, Điền Tú Linh vẫn mặt ủ mày chau, biếng cười biếng nói. Một lát, nàng chợt ngẩng lên hỏi hai vị danh y:
- Hai vị tiền bối có biết trên đời này có một loại độc dược mà người uống vào vẫn vô sự, nhưng khi nào người hạ độc muốn cho nó phát ra thì nó sẽ phát ra không?
Thi Thúy Phong ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
- Lão phu đã phí mất ba chục năm tâm huyết, nghiêm cứu các loại độc dược trên đời này, mãi tới bây giờ vẫn chưa thấy có loại độc dược lạ nào như vậy.
Cù Thức Biểu nói tiếp:
- Theo lời Điền cô nương nói thì có lẽ loại độc dược ấy chính là một loại trùng độc ở Miêu Cương?
Tú Linh vội hỏi:
- Người bị trúng trùng độc, người khác có thể xem mà biết được không?
Cù Thức Biểu nói:
- Lão phu tuy không có thuốc chữa chứng đó, nhưng có thể xem biết được.
Tú Linh ngập ngừng:
- Vậy nhờ tiền bối xem dùm coi có phải vãn bối đã bị trúng loại trùng độc ấy không?
Cù Thức Biểu nhìn nàng một lát, rồi lắc đầu:
- Cô nương thần khí sung túc, mắt trong và sáng thế kia, quyết không phải là người bị trúng trùng độc. Cô nương thấy trong người thế nào mà lại cho rằng mình bị trúng trùng độc?
Tú Linh thở dài:
- Đó chính là một sự bí mật giữa cụ, bà, con, cháu dâu nhà Nam Cung chúng tôi. Vì tổ bà tôi không hề tín nhiệm một ai, bà lại sợ chúng tôi bội phản, nên đã bắt chúng tôi uống thuốc độc trước.
Hai vị danh y đưa mắt nhìn nhau, lẳng lặng.
Một lát sau, Cù Thức Biểu mới nói:
- Xin cô nương đưa tay để lão phu coi thử mạch xem sao.
Tú Linh vội đưa tay ra, Cù Thức Biểu dùng hai ngón tay để bắt mạch cho nàng, thái độ cực kỳ thận trọng. Một lúc lâu ông mới buông tay, ngẩng lên nói với Thi Thúy Phong:
- Mời Thi huynh xem thử.
Thi Thúy Phong bước lại gần, rồi cũng đặt tay lên mạch nàng.
Xem xong ông lại hỏi Cù Thức Biểu:
- Cù huynh thấy thế nào?
Cù Thức Biểu lắc đầu:
- Tiểu đệ không thấy triệu chứng gì là Điền cô nương đã bị trúng độc.
Thi Thuý Phong cũng nói:
- Mạch của cô nương rất bình thường, không có gì khác lạ, cả hai chúng tôi cùng đồng ý như nhau, dám chắc người khác xem cũng thế thôi.
Tú Linh ấp úng:
- Thế hay là… có khi tiện nữ chưa bị trúng độc?
Thi Thuý Phong bèn nói:
- Điều ấy cũng không thể quyết đoán được, có khi Nam Cung phu nhân đã chế ra được một thứ thuốc độc riêng, người uống phải sau một khoảng thời gian chừng độ hai ba năm mới phát ra, cũng chưa biết chừng.
Tú Linh buồn bã:
- Tiện thiếp dẫu chết cũng chẳng tiếc gì, nhưng thực không muốn chết trước khi mọi sự việc chưa được làm sáng tỏ.
Vừa nói tới đây, Nhâm Vô Tâm vừa bước vào, trên vạt áo của chàng dính đầy bùn đất và cỏ may.
Cù Thức Biểu cười nói:
- Nhâm tướng công đi đâu về mà trông cỏ vẻ vất vả vậy? Hãy ngồi xuống đây uống vài chén rượu cho ấm bụng đã.
Nhâm Vô Tâm ngồi vào bàn, ăn uống một chút, rồi nhìn Điền Tú Linh cười nói:
- Kỳ nhi, chúng ta phải đi ngay bây giờ.
Tú Linh ngây người ra một lúc, mới chợt nhớ là chàng gọi mình, bèn bật cười đáp:
- Xin tuỳ lệnh tướng công!
Nhâm Vô Tâm lại nói với Cù Thức Biểu và Thi Thúy Phong:
- Tại hạ đã bố trí bên ngoài xong xuôi rồi. Nhưng các vị cũng nên cẩn thận bỏ bớt một gian thạch thất bên ngoài, đừng dùng gì tới, cửa ngõ lấp hết đi. Sau khi tại hạ đi rồi, cũng nên đốt một ít cây khô ở trước động cho có dấu vết tàn phá, thế là không còn lo gì nữa.
Nhâm Vô Tâm nói xong, chắp tay cáo từ. Mấy tên tiểu đồng hầu cận chàng đã sửa soạn sẵn hai gói hành lý cầm ra trao cho Nhâm Vô Tâm và Điền Tú Linh mỗi người một gói.
Lúc này, các vị lão nhân và mấy người trong động đều tề tựu đông đủ, cùng đưa tiễn hai người ra tới cổng ngoài, rồi mới từ biệt.
Ra khỏi cửa động, Tú Linh quay đầu lại, quả thấy quang cảnh nơi đây giống hệt như một nơi vừa có đám đông người đi qua.
Hai người đi lẩn vào trong bóng đêm, chợt thấy phía trước mặt loé lên một tia lửa, bèn vội vàng nhảy tránh về một bên. Nhâm Vô Tâm thấy bên đường có một cây tùng bách, lá rườm rà, bèn đưa tay ra hiệu cho Tú Linh, rồi cả hai cùng nhảy lên cây, ngồi nấp vào trong đám lá rậm.
Vừa ngồi yên một lát, lại thấy ánh lửa loé lên lần nữa, trước mắt đã hiện ra hai người đàn ông, một người câm cây hoả tập, còn một người cầm lưỡi chuỷ đang đi như bay trên mặt tuyết, thỉnh thoảng dừng lại như muốn tìm kiếm vật gì.
Tuy ánh lửa chập chờn, lúc mờ lúc tỏ nhưng nhờ được bầu trời đầy sao phản ánh lên mặt tuyết, nên trong vòng ba thước còn có thể nhận diện được sự vật. Nhâm Vô Tâm và Điền Tú Linh ngồi trên cây trông xuống, đã thấy rõ hai người đàn ông cùng mặc y phục dạ hành, một người chân tay thô lớn, bàn tay rất dài, trông có vẻ như một cao thủ về môn ngoại công. Còn một người thì tầm vóc thấp bé, thân pháp nhanh nhẹn nhẹ nhàng, trên mặt hai người đều che một miếng vải đen.
Nhâm Vô Tâm nhìn kỹ một lát, rồi dùng công phu “truyền âm nhập mật” hỏi Điền Tú Linh:
- Cô nương đã luyện công phu “ truyền âm nhập mật” chưa?
Tú Linh lắc đầu. Chàng lại nói:
- Nếu vậy, tại hạ hỏi điều gì thì cô nương cũng chỉ cần gật hay lắc đầu cũng đủ.
Tú Linh gật đầu. Chàng hỏi:
- Người cao lớn kia hình như thuộc về Bắc Phái, tên là Ác Thiên Vương Lý Bá…
Tú Linh không đợi chàng nói hết, đã vội gật lấy gật để. Vô Tâm lại nói:
- Còn người thấp bé kia không biết có phải là Hoàng Phủ Thiếu Hồng, người đời thường gọi Tứ Bát Thuý Hoa Điệp,một caothủ nổi danh khắp lục tỉnh phía Bắc phải không?
Tú Linh lại gật đầu, sắc mặt lộ vẻ kinh dị, nghĩ thầm:
- Nhâm Vô Tâm quả là bậc kỳ tài. Chàng đối với hảo sĩ trong thiên hạ, sao mà biết rành mạch đến thế?
Lại nghe Nhâm Vô Tâm hỏi:
- Hai người này đều là nhân vật trong Thất Thập Nhị Địa Sát của Nam Cung thế gia chăng?
Tú Linh lại gật đầu. Lúc này, Lý Bá hình như phát hiện được cái gì, bèn cầm hoả tập giơ cao lên, gọi khẽ:
- Hoàng Phủ huynh lại đây xem thử cái này là cái gì?
Hoàng Phủ Thiếu Hồng nhảy tới bên cạnh hắn. Lý Bá cúi xuống, nhặt trong bụi mây khô ra một chiếc hộp sắt, trên nắp hộp chạm mấy viên ngọc quí, dưới ánh sao trong lóng lánh như kim cương.
Hắn đưa cho Hoàng Phủ Thiếu Hồng xem, rồi nói bằng một giọng hơi có vẻ xúc động:
- Cái hộp trông có vẻ quí giá, không biết bên trong đựng gì?
Hoàng Phủ Thiếu Hồng cau mày, không đáp, chợt cầm lưỡi chuỷ sáng loáng như nước, vung lên chém một nhát vào chiếc khoá đồng, rồi mở nắp hộp ra. Hai người cùng ngồi xuống bới bới tìm tìm trong hộp một lát, Lý Bá chợt thở dài nói:
- Mấy lão già này chạy trốn như đoàn chuột, đến nỗi có cái hộp quý cũng đánh rơi.
Hoàng Phủ Thiếu Hồng nói:
- Những vật này là cần câu cơm của họ, không hiểu sao họ lại vứt đi?
Lý Bá lắc đầu cười:
- Huynh đệ nói thế không đúng! Chắc hẳn bọn họ sợ có người theo đuổi, trong lúc vội vàng, chỉ mãi chạy cho nhanh, đâu còn thời giờ kiểm soát đồ vật, nên mới bỏ mất chiếc hộp quí giá thế này, chứ đâu phải họ vứt đi.
Nhâm Vô Tâm và Điền Tú Linh chỉ đưa mắt nhìn nhau cười. Giữa lúc ấy chợt thấy một bóng đen vừa cao vừa gầy từ xa chạy đến. Cái bóng này cũng bịt mặt bằng một chiếc khăn đen, chỉ để lộ hai con mắt sáng quắt như điện. Hắn đi đã gần tới sau lưng Lý Bá và Hoàng Phủ Thiếu Hồng, mà hai người này vẫn không biết gì cả. Đủ hiểu khinh công của hắn cao đến bực nào.
Gã tiến sát đến sau lưng Hoàng Phủ Thiếu Hồng, đôi mắt đăm đăm nhìn chiếc hộp trong tay Lý Bá, lẳng lặng không nói gì. Lý Bá và Hoàng Phủ Thiếu Hồng vẫn không biết có người đứng sau lưng, đầu óc hình như để cả vào chiếc hộp sắt. Một lát, Lý Bá chợt cười khẽ nói:
- Những dược liệu và mấy cái đơn thuốc này chắc toàn là vật quí. Chi bằng chúng ta đem thẳng về, đừng để người khác tranh mất công.
Hoàng Phủ Thiếu Hồng hỏi:
- Đem thẳng về đâu?
Lý Bá cười nói:
- Đưa thẳng về cho Nam Cung phu nhân, chứ còn đem về đâu nữa? Nếu được lão phu nhân cao hứng, chưa biết chừng…
Hoàng Phủ Thiếu Hồng liền ngắt lời:
- Nhưng hành động của chúng ta hôm nay thuộc về Điạ Xương cai quản, mình không nói qua lão ta một tiếng thì sao được?
Lý Bá thở dài:
- Hoàng Phủ huynh, chúng ta đều là những nhân vật có tiếng tăm hiển hách trong giang hồ, từ ngày vào làm môn hạ của Nam Cung thế gia, không những phải chịu sự cai quản của người khác mà địa vị còn dưới cả anh đầu lĩnh hạng bét. Ngay cả Nam Cung phu nhân, mặt mũi thế nào, mình cũng chưa được biết, vậy thì hà tất gì phải trung thành như vậy!
Hoàng Phủ Thiếu Hồng đáp:
- Lão phu nhân bận trăm công nghìn việc, thì giờ đâu mà tiếp chúng ta.
Lý Bá cười nhạt:
- Thế sao lão Địa Xương Tiêu Nhị thì muốn vào hầu lão phu nhân lúc nào cũng được?
Hoàng Phủ Thiếu Hồng đáp:
- Người ta là đầu lĩnh, mình bì thế nào được.
Lý Bá lạnh lùng nói:
- Ấy đó, chính vì lẽ ấy, tiểu đệ mới bàn với đại huynh về việc đem thẳng chiếc hộp này đến chỗ của lão phu nhân, để phu nhân biết huynh đệ mình là người mẫn cán, rồi ta sẽ thừa dịp bắt cẳng lão quỉ ốm kia đi, có phải là nhất cử lưỡng tiện không? Nếu bây giờ ta đem cái hộp này nộp qua tay lão, lão nhận là công lão thì huynh đệ ta còn xơ múi gì nữa.
Nhâm Vô Tâm nghe đến đây liền quay lại nhìn về người áo đen đứng phía sau Hoàng Phủ Thiếu Hồng, thấy mắt hắn ánh lên một tia sáng dữ dội, liền nghĩ bụng: “Tên này có lẽ là một trong sáu tên đầu lĩnh Thất Thập Nhị Địa Sát đây chăng? Nếu đúng thì phen này tên Lý Bá sẽ phải chết với hắn?”
Kế lại nghe Hoàng Phủ Thiếu Hồng bảo:
- Lý huynh nếu quả định làm thế thì tiểu đệ quyết không làm theo.
Lý Bá biến sắc nói:
- Sao vậy?
Hoàng Phủ Thiếu Hồng cười nhạt:
- Tiểu đệ nghĩ tình huynh đệ đã chơi với nhau bao nhiêu ngày, nên không khi nào lại tố cáo chuyện này với ai. Lý huynh muốn vào yết kiến Nam Cung phu nhân thì xin cứ tuỳ tiện.
Lý Bá ngẩn người ra một lát, rồi chợt giậm chân xuống đất, giận dữ nói:
- À, thì ra ta không có mắt…
Vừa nói đến đây, chợt nghe phía sau có một giọng nói lạnh như thép vang lên:
- Đúng đó! Quả là nhà ngươi không có mắt thật!
Cái tiếng nói đó, thật chẳng khác gì mũi dao nhọn đâm suốt trái tim Lý Bá. Lý Bá rùng mình, quay phắt đầu lại, mục quang chạm phải luồng nhãn tuyến đầy sát khí của hắc y nhân, tức thì chiếc hộp sắt rơi xuống đất, đánh “bộp” một tiếng.
Hoàng Phủ Thiếu Hồng cũng giật mình quay lại, thốt lên một tiếng kinh hoàng, nhưng đôi mắt hắn không thấy lộ vẻ gì là khủng khiếp. Có lẽ hắn đã biết người áo đen đến đó từ lâu nhưng vì muốn bảo toàn tính mạng và địa vị nên cam tâm bán rẻ bằng hữu.
Gã áo đen trừng mắt nhìn Lý Bá một lúc, rồi thốt nhiên cúi xuống nhặt chiếc hộp, mở ra xem qua một lượt rồi đặt xuống trước mặt Lý Bá.
Lý Bá ấp úng:
- Cái… cái này…
Gã áo đen hừ một tiếng, lạnh lùng cười:
- Lý huynh đã muốn đem cái hộp này nộp tận tay lão phu nhân thì cứ tự tiện đem ngay đi.
Lý Bá lùi lại một bước, lắp bắp bào chữa:
- Vừa rồi… vừa rồi… tại hạ chỉ là nói đùa… nói đùa…
Gã áo đen dịu giọng nói:
- Giữa chúng ta, chức vị tuy có kẻ trên người dưới, nhưng đều trung thành với Nam Cung thế gia, tình nghĩa như huynh đệ, ai đưa đi cũng chẳng thế.
Hắn cười khanh khách mấy tiếng, rồi lại nói tiếp:
- Vả lại, chúng ta còn phải ở đây để tra xét, nếu Lý huynh chịu mang cái hộp này về trước, để phu nhân khỏi trông đợi thì càng hay lắm.
Lý Bá chớp chớp đôi mắt, ấp úng:
- Nhưng… nhưng…
Người áo đen cười ha hả:
- Lý huynh đừng từ chối nữa. Tại hạ chỉ hơi áy náy một chút, chứ tuyệt nhiên không có gì khác, Lý huynh đừng ngại.
Lý Bá vẫn đứng yên, không dám động đậy, mắt hết nhìn gã áo đen lại nhìn Hoàng Phủ Thiếu Hồng.
Hoàng Phủ Thiếu Hồng chỉ đưa mắt nhìn ra phía xa, chẳng nói năng gì.
Lý Bá không biết nghĩ sao, chợt ngẩng đầu lên nói bằng giọng quả quyết:
- Đầu lĩnh đã sai bảo, thuộc hạ xin vâng lệnh nhưng chẳng hay đầu lĩnh còn sai bảo gì nữa không?
Gã áo đen lắc đầu:
- Không còn việc gì khác nữa.
Lý Bá hỏi:
- Lúc trở về, thuộc hạ có còn phải đến đây nữa không?
Người áo đen lắc đầu, Lý Bá cúi xuống lấy chiếc hộp, rồi thủng thỉnh quay đi. Người áo đen luôn miệng cười khẩy, chờ cho Lý Bá quay đi liền giơ hữu thủ phóng một chưởng vào sau lưng hắn.
Một chưởng ấy bề ngoài trông nhẹ như không, vậy mà cả thân hình cao lớn lực lưỡng của Lý Bá không sao chịu nổi, hắn chỉ kịp “hự” một tiếng, rồi ngã ngay xuống đất, chiếc hộp văng đi một nơi, máu đỏ loang ra khắp mặt tuyết.
Gã áo đen cười sằng sặc:
- Lý Bá ơi Lý Bá! Ngươi đừng trách ai, chỉ nên trách mình chọn bằng hữu không tin, nếu Hoàng Phủ Thiếu Hồng bảo ngươi trước, thì ngươi đâu đến nỗi phải bỏ mạng tại đây.
Hoàng Phủ Thiếu Hồng từ nãy đến giờ vẫn đóng vai khách bàng quan, lúc này mới giật mình kinh hãi nói:
- Sao… sao đầu lĩnh lại nói vậy?
Thiếu Hồng cúi đầu, không biết nói gì nữa.
Gã áo đen lại lạnh lùng nói tiếp:
- Ta vừa tới đây, ngươi đã biết ngay, còn vờ làm bộ không trông thấy. Phen này ta giết Lý Bá, chắc ngươi khoái lắm nhỉ?
Thiếu Hồng lẳng lặng một lát, chợt ngẩng lên cười nói:
- Đại Kha xét quả không sai, thuộc hạ đã biết Lý Bá có lòng muốn phản Đại Kha từ lâu, nên mới để mặc cho hắn tự nói ra, để Đại Kha liệu bề mà đối phó.
Người áo đen lạnh lùng nói:
- À thì ra thế? Chứ không phải người thù ghét gì Lý Bá?
Thiếu Hồng cúi đầu nói:
- Thuộc hạ đối với Đại Kha lúc nào cũng một lòng một dạ, xin Đại Kha đừng ngờ.
Gã áo đen cười ha hả rồi nói:
- Tên Lý Bá chết ở đây là do Nhâm Vô Tâm sát hại, phải thế không?
Thiếu Hồng vội đáp:
- Phải phải, chính mắt thuộc hạ trông thấy.
Nhâm Vô Tâm ngồi trên cây, bất giác rủa thầm một tiếng, chợt nghe gã áo đen cười ha hả nói:
- Thì ra chính mắt ngươi trông thấy. Nhưng tại sao Nhâm Vô Tâm lại sát hại Lý Bá?
Thiếu Hồng chớp mau đôi mắt, rồi nói luôn một hơi:
- Nhâm Vô Tâm bảo hộ mấy lão già đi trốn, mấy lão già đi rồi, Nhâm Vô Tâm ở lại đoạn hậu, vừa gặp Lý Bá nấp trong bụi cây nhìn ra, hắn liền phóng chưởng đánh chết.
Người áo đen nói:
- Nếu thế thì hoá ra Lý Bá vì trung thành mà chết? Như thế công lao to lắm!
Thiếu Hồng mỉm cười:
- Người đã chết rồi, dù có công lớn cũng chẳng làm gì. Cái hộp kia là do Đại Kha phải hết sức chiến đầu với quần ma mới giành được.
Người áo đen cười ha hả:
- Đúng đúng! Cái hộp ấy là do ta giành được. Nhưng nếu lão phu nhân lại hỏi ta vì sao giành được chiếc hộp mà lại không biết bọn chúng chạy đi đâu, thì biết nói sao?
Thiếu Hồng ngẫm nghĩ một lát, rồi nói:
- Bọn họ đi đâu thì trừ Nhâm Vô Tâm ra, đến mấy lão già mà hắn đưa đi cũng còn không biết, huống hồ người ngoài? Vả lại, Nhâm Vô Tâm võ công cao quá, ai mà bắt được hắn?
Nhâm Vô Tâm cười thầm, tự nghĩ: “Quá khen!”
Hồi 30
Gã áo đen lại cười ha hả nói:
- Đúng đúng! Nhâm Vô Tâm võ công cao lắm, thật là quỉ khốc thần sầu, nhưng mà… lão phu nhân dặn ta chỉ giữ việc theo dõi xem bọn chúng di cư đi đâu, tại sao ta lại ra mặt cướp bảo vật của họ?
Thiếu Hồng nhăn nhở cười lớn:
- Vì hành tung của bọn ta đã bị Lý Bá làm bại lộ rồi mà. Nhâm Vô Tâm là hạng người nào, há chịu để chúng ta theo dõi? Trước tình thế đó, Đại Kha chỉ còn cách liều mạng mạo hiểm đoạt lấy chiếc hộp bí mật trong tay hắn.
Gã áo đen vỗ tay cười hơ hớ:
- Đúng, đúng! Diệu, diệu! Câu chuyện bịa ấy thực là hợp tình hợp lý, không còn khe hở chỗ nào! Lát nữa ngươi cứ thế mà nói, nghe không? hi hi…
Chợt nghe từ xa xa có tiếng cười, nói góp:
- Chuyện gì mà hợp lý thế? Và nói cho ai nghe…
Tiếp theo tiếng nói là một bóng người vừa thấp vừa béo, chân tay ngắn ngủn bay vèo đến.
Người này cũng vận y phục đen, mặt bịt vuông lụa đen như ba người trước, chỉ để lộ hai con mắt ti hí nhìn ra.
Khi tới trước mặt hai người, gã béo lùn vẫn cười, nói tiếp:
- Tiểu đệ nghe đồn Hoàng Phủ huynh có cái lưỡi Tô Tần từ lâu, huynh mới bịa ra chuyện gì hay thế? Huynh có thể kể cho tiểu đệ nghe được không?
Thiếu Hồng gượng cười nói:
- Nào có chuyện gì đâu?
Gã béo lùn lại cười nói:
- Đêm đông lạnh lẽo không có rượu uống thì ta nói chuyện vui cũng đủ quên rét, sao Hoàng Phủ huynh lại không chịu…
Người áo đen gầy lạnh lùng ngắt lời:
- Hãy nói việc chính đã, rồi sẽ nói chuyện chơi sau, ngươi đi tra xét chung quanh đây có thấy gì lạ không?
Gã béo lùn nói:
- Bọn lão già trong động này đã trốn hết rồi, thuộc hạ vào trong đó chỉ thấy cây cối ngã nghiêng, mà còn thấy cả vết cháy nữa.
Gã áo đen cao gầy hỏi:
- Ngươi có vào tận trong động tra xét không?
Gã béo lùn đáp:
- Thuộc hạ đã vào tận nơi tra xét tường tận rồi. Bọn họ trước khi đi đã thiêu huỷ mấy căn động, và còn nhận thấy dấu chân rất nhiều người đi thẳng tới con đường này.
Nhâm Vô Tâm ngẫm nghĩ cười thầm: “Người ta thường bảo người lùn hay làm biếng, quả thực không sai. Hắn vừa làm biếng vừa nói dối, thành ra lại có lợi cho mình.”
Người áo đen gật đầu. Gã lùn lại quay qua hỏi Thiếu Hồng:
- Hoàng Phủ huynh…
Hoàng Phủ Thiếu Hồng cười ngắt lời:
- Huynh đài muốn nghe chuyện gì? Chuyện của tiểu đệ kia kia…
Gã lùn miệng thì hỏi: “Đâu?”, mắt thì nhìn theo tay hắn trỏ.
Thiều Hồng đáp: “Ở kia!”, tay thốt nhiên hạ thấp xuống, điểm ngay vào huyệt Hoa Cái của gã lùn.
Huyệt này ở dưới cuống họng, bốn tấc sáu phân, chính là Hoa Cái của ngũ tạng, một trong sáu tử huyệt của con người, nếu bị điểm trúng, thì huyết sẽ đọng lại ở trái tim, nhất định phải chết.
Gã lùn chợt quay phắt lại, đôi mắt trợn ngược, tưởng như lòi cả con ngươi ra ngoài, vừa định quát hỏi, nhưng tiếng quát chưa thốt ra khỏi cuống họng thì thân hình đã ngã xuống.
Gã áo đen lạnh lùng cười nói:
- Tên này cũng bị Nhâm Vô Tâm giết chết ư?
Thiếu Hồng lắc đầu cười nói:
- Không phải! Hắn bị một cao thủ cùng đi với Nhâm Vô Tâm sát hại. Nếu không vì có nhiều cao thủ đi hộ tống mấy lão già thì Đại Kha đã có thể tóm được cả bọn rồi, đâu phải chỉ có cướp được cái hộp.
Gã áo đen vỗ vai hắn, cười khì khì:
- Hiền đệ quả không hổ là hiền đệ của ngu huynh! Trong số bảy mươi hai vị hào kiệt của nhà Nam Cung thế gia, có lẽ chỉ mỗi mình hiền đệ là xứng đáng làm tri kỷ của ngu huynh mà thôi.
Thiếu Hồng đôi mắt long lanh, nhưng lại vội cúi đầu xuống, cười nói:
- Tiểu đệ khi nào dám nhận là tri kỉ của Đại Kha, chẳng qua chỉ một lòng trung thành với Đại Kha mà thôi!
Người áo đen trầm ngâm một lát rồi nói:
- Bẩy mươi hai vị hào kiệt chúng ta lẽ ra phải có sáu vị đầu lĩnh, nhưng hiện thời mới có hai, nếu hiền đệ không chê, thì để ngu huynh tiến cử với lão phu nhân.
Thiếu Hồng nói to:
- Đại Kha có ý tài bồi, tiểu đệ không bao giờ dám quên ơn!
Gã áo đen cười ha hả một hồi rồi nói:
- Chúng ta đừng chơi nhàn nhã như thế này, lát nữa về nói với bọn họ rằng chúng ta vừa huyết chiến một trận với Nhâm Vô Tâm cũng thật khó tin.
Thiếu Hồng ngẫm nghĩ một lát, rồi ngẩng lên nói:
- Điều đó cũng dễ!
Nói xong nhảy lên, bất thình lình phóng một chưởng vào vai người áo đen. Thân hình hắn nhanh như một con cắt, tiếng nói chưa dứt, tay phải hắn đã đập vào vai người áo đen. Không ngờ người áo đen thân pháp còn nhanh hơn, cái thân hình gầy guộc của hắn lập tức theo đà chưởng phong bay vèo đi.
Hắn nổi giận sừng sộ hỏi:
- Làm cái gì thế?
Vừa nói đến đây, như chợt nghĩ ra, hắn lại cười xoà nói tiếp:
- Ừ, thế mà hay, chúng ta giả vờ đánh nhau một trận, cho nó có vẻ thực hơn.
Rồi hắn quay mình xông tới, thân hình chập chờn bay qua bay lại, thoắt cái đã được bảy chiêu. Hai người chiến đấu tới mấy chục chiêu, rồi mới phủi tay cười xòa. Đoạn mỗi người cúi xuống, ôm xốc một cái xác lên, trổ thuật khinh công, chạy biến vào trong đêm tối.
Trên cành cây, Tú Linh đã được chứng kiến từ đầu đến cuối tấn bi hài kịch hiếm có ấy, chờ cho hai người đi đã xa, nàng mới thở ra một hơi dài, nói:
- Tiện thiếp những tưởng bọn Thất Thập Nhị Sát đều thề chết trung thành với Tổ bà, ai ngờ… hừ! Cơ trí thâm trầm, thủ đoạn ghê gớm như Tổ bà mà cũng không làm cho bọn thủ hạ trung thành hoàn toàn được, thì đủ biết muốn làm một vị minh chủ võ lâm đâu phải dễ.
Nhâm Vô Tâm mỉm cười nói:
- Từ xưa đến nay, những người làm nên nghiệp bá, có thể chia làm ba loại: một là, bụng dạ quảng đại, lấy đức làm người phục, khiến cho những kẻ thủ hạ đều được hưởng ơn mưa móc. Hạng này thì hiếm lắm; hai là, cố làm ra vẻ nhân nghĩa, dùng quyền thuật mà thu phục nhân tâm, khiến cho người ta phải hết lòng tận trung với mình, đó cũng đáng gọi là nhân kiệt. Hán Cao Tổ khi xưa dùng Trương Lương, Tiêu Hà, Hàn Tín cũng theo lối ấy.
Chàng ngừng giây lát rồi nói tiếp:
- Còn những kẻ chỉ lấy uy thế lấn hiếp người ta, dùng sức mạnh ép người ta, hoặc dùng thủ đoạn tàn độc khiến cho người ta sợ hãi, khiếp đảm mà phải theo, thì đó là hạ sách. Cách này lúc đầu có thể bắt buộc người ta theo mình được, nhưng rồi chỉ trong một thời gian, thế nào cũng bị chúng phản lại. Ta cứ xem Kiệt, Trụ, Tần thì đủ rõ.
Tú Linh than rằng:
- Vậy thì thủ đoạn ấy thành công cũng chóng mà hại cũng nhanh.
Nhâm Vô Tâm gật đầu nói:
- Đúng vậy! Lệnh tổ bà muốn nhanh chóng hoàn thành nghiệp bá nên mới dùng thủ pháp ấy. Có lẽ cùng là sự bất đắc dĩ. Nhưng có biết đâu rằng con đê đắp vội, tất phải dễ vỡ, mà một khi đã vỡ thì không còn cách gì hàn gắn được nữa.
Tú Linh ngồi ngẩn người ra một lát, không biết nói gì. Nàng tuy đã bội phản nhà Nam Cung nhưng không dễ gì trong phút chốc đã cắt đứt được thân tình. Lúc này, quả nàng cũng đang lo cho sự thành bại của nhà Nam Cung.
Nhâm Vô Tâm lẳng lặng hồi lâu, rồi lại nói:
- Người áo đen vừa rồi võ công cao lắm, lai lịch tất không phải tầm thường…
Tú Linh ngắt lời:
- Tiện thiếp cũng không rõ. Tuy nhiên, theo ý tiện thiếp thì người ấy tuy võ công cao, lai lịch quỉ bí nhưng tâm địa không đến nỗi nham hiểm, xảo quyệt như tên Hoàng Phủ Thiếu Hồng. Tên ấy mới thật đáng sợ!
Vô Tâm mỉm cười:
- Cô nương cho rằng người áo đen tâm cơ không bằng Hoàng Phủ Thiếu Hồng sao? Nếu vậy thì cô nương lầm to.
Tú Linh tươi cười nói:
- Lần này thì nhất định tướng công đoán sai. Tên Hoàng Phủ Thiếu Hồng nói đến nỗi gã áo đen khâm phục sát đất, tướng công không thấy ư?
Vô Tâm cười nói:
- Bề ngoài nhìn vào thì tưởng thế, nhưng kỳ thực thì gã áo đen làm gì mà không thấu suốt ruột gan tên Hoàng Phủ Thiếu Hồng? Có điều hắn muốn lợi dụng tên kia, nên mới giả vờ làm bộ ngu xuẩn, để tên kia khỏi đề phòng…
Chàng ngừng một lát, nói tiếp:
- Tuy nhiên, hắn cũng không muốn để Hoàng Phủ Thiếu Hồng coi thường hắn, vì nếu để gã coi thường thì chưa chắc gã đã chịu phục tòng mệnh lệnh. Do thế, hắn mới dùng võ công để trấn áp Hoàng Phủ Thiếu Hồng, cô nương thử nghĩ xem một người âm trầm giảo hoạt như hắn, làm sao có thể thua Hoàng Phủ Thiếu Hồng được?
Tú Linh gật đầu, chịu là chàng nói đúng. Lúc này, trời đã gần sáng, bức màn đêm đã từ từ hé ra một góc. Chờ cho trời sáng, hai người mới nhảy xuống, nhắm phía mặt trời mọc tiếng lên. Vừa đi được một quãng, chợt nghe tiếng vó ngựa rầm rập từ đằng xa chạy đến. Tú Linh sợ hãi nói:
- Lại có người tới, chúng ta phải tìm chỗ nấp ngay mới được.
Vô Tâm cười nói:
- Bây giờ hai chúng ta đang đóng vai hai thầy trò đạp tuyết tìm mai, việc gì phải trốn?
Tú Linh ngần ngừ:
- Không biết mình cải trang có giống không?
Vô Tâm cười đáp:
- Cù Thức Biểu tinh tế, cẩn thận lắm, trong bao phục này chắc có đủ các đồ cần dùng.
Tú Linh cởi bao phục ra, quả thấy bên trong có đủ sách vở, giấy bút. Vô Tâm bèn cầm lấy một quyển thơ thì một đàn thiện mã đã rầm rầm kéo đến.
Vó ngựa như sắt, dẫm nát cả những tảng tuyết đóng thành băng, phía sau đàn ngựa, tuyết bắn lên phơi phới như phun hoa. Những người ngồi trên mình ngựa, kỹ thuật đều rất tinh vi, nên mặc dù ngựa phi nước kiệu mà họ vẫn ngồi vững như bàn thạch.
Nhâm Vô Tâm tay cầm cuốn sách, vừa đi vừa ngâm, mắt vẫn không buồn nhìn lên. Chợt nghe một tiếng quát hỏi, rồi một gã đại hán mặc áo gấm ngồi trên lưng con ngựa trắng, tay phải cầm chiếc roi vung lên, tay trái gò dây cương lại, tức thì con ngựa nhảy chồm hai chân trước lên như người đứng, miệng hí vang trời.
Nhâm Vô Tâm có ý làm ra vẻ sợ hãi, lùi lại mấy bước, trừng mắt nhìn người cưỡi ngựa.
Người cưỡi ngựa nhảy vụt xuống đất, bước tới trước mặt Vô Tâm, hỏi:
- Huynh đệ tại hạ đi lạc đường, không nhận rõ phương hướng, không biết Nam Cung thế gia ở đâu, mong các hạ làm ơn chỉ dùm.
Nhâm Vô Tâm làm bộ ngơ ngác, hỏi lại:
- Nam Cung thế gia à? Nam Cung thế gia là cái gì cơ?
Gã đại hán sầm mặt gắt:
- Bằng hữu cố tình giả đò ngớ ngẩn, định che mắt ai?
Hắn nói tiếng Quan Đông, lại nhân lúc nóng giận nên nói líu tíu chẳng biết đằng nào mà nghe. Nhâm Vô Tâm ngẫm nghĩ cười thầm, nhưng ngoài mặt vẫn giả bộ ngây ngô đáp:
- Tiểu sinh chỉ biết có họ Nguyên, họ Bạch, họ Lý với Lý Bạch, Đỗ Phủ mà thôi. Còn Nam Cung thế gia là ai, quả tiểu sinh không hiểu.
Gã đại hán cười nhạt:
- Nam Cung thế gia ở ngay gần đây, trời xuống tuyết lớn, mà vừa mới bảnh mắt, ngươi đã len lén tới đây ngao du, lại còn leo lẻo chối không biết Nam Cung thế gia là cái gì! Ha ha…, bằng hữu đóng kịch tài lắm!
Hắn lùi lại phía sau, cầm cây roi vung lên, hô to:
- Các huynh đệ, mau vây tên này lại!
Vô Tâm nói bằng giọng run run:
- Tiểu sinh đến đây chỉ định đạp tuyết tầm mai, tuyệt không có một hành vi nào mờ ám, các vị hảo hán lầm rồi.
Chàng nói chưa dứt câu thì sáu con ngựa đã xong lại, vây kín hai người vào giữa.
Gã mặc áo gấm vừa rồi, cười nhạt nói:
- Trời rét thế này mà còn có nhã hứng đạp tuyết tầm mai, thì trừ khi là người điên hử?
Nhâm Vô Tâm thở dài nói:
- Văn võ hai đường, tính tình khác biệt, thói quen của văn nhân, không phải các vị hảo sĩ võ lâm có thể hiểu được. Tin hay không, thì xin tuỳ ở các vị.
Người áo gấm lại quát:
- Không tin!
Nhâm Vô Tâm nói:
- Các vị không tin, tiểu sinh cũng đành, chứ nào biết làm sao! Hảo sĩ võ lâm giong ngựa giang hồ, lấy sự báo ân trả oán chém giết làm vui, nhưng văn nhân chúng tôi lại lấy câu thơ chén rượu, đạp tuyết tầm mai làm thú. Hảo hán có tin không?
Người áo gấm lại quát:
- Không tin!
Vô Tâm thở dài nói:
- Chúng tôi là những kẻ văn nhân, sức không trói nổi con gà, gặp các vị võ hiệp hảo hán, dẫu có lý cũng không biết nói thế nào cho rõ được.
Tú Linh đứng bên cũng thở dài, nói góp:
- Thật đúng là có lý cũng chẳng biết nói thế nào cho rõ!
Gã áo gấm cười nhạt:
- Ta chỉ cần ngươi nói cho ta biết rõ lai lịch.
Nhâm Vô Tâm giật mình nhưng ngoài miệng vẫn giữ giọng ngây ngô, hỏi:
- Lai lịch gì? Tiểu sinh chỉ là một kẻ…
Người áo gấm lại cười, ngắt lời:
- Chỉ là một kẻ thư sinh, phải không? Hà hà, ngươi đừng cho ta là một thằng ngốc, kỳ thực ngươi mới chính là thằng đại ngốc.
Nhâm Vô Tâm hỏi:
- Thế là thế nào? Tiểu sinh quả thực không hiểu.
Gã áo gấm cười ha hả:
- Kẻ văn nhân đạp tuyết tầm mai, mà lại biết cả thuật khinh công đạp tuyết không ngấn ư?
Nhâm Vô Tâm giật mình, nhưng vẫn cố giữ vẻ trấn tỉnh:
- Hảo hán nói thế là thế nào? Tiểu sinh vẫn chưa hiểu.
Tú Linh cũng nói góp:
- Công tử tôi có biết khinh công khinh kiết gì đâu? Hảo hán đừng lầm…
Người áo gấm cười sằng sặc:
- Công tử ngươi đến đây đạp tuyết tầm mai, sao trên đôi giầy đó vẫn sạch trơn, không dính dấu tuyết?
Nhâm Vô Tâm đơ cổ, không biết cãi thế nào, bất giác nhìn xuống đôi giầy, quả thấy giầy vẫn sạch trơn như mới, còn đang lúng túng, đã thấy bảy đại hán từ trên lưng ngựa nhảy cả xuống, tay phải cầm cây roi, luôn luôn vung vẩy, mười bốn con mắt sắc như dao dồn cả lên mặt chàng.
Gã áo gấm lại cười nói:
- Ba mươi hai lộ hảo hán ở Quan Đông cũng chẳng thiếu gì kẻ gian ngoa giảo quyệt, nhưng chưa từng có kẻ nào dám giở trò trước mặt huynh đệ ta. Bằng hữu nên nói thật đi thì hơn.
Nhâm Vô Tâm cười nói:
- Ngươi muốn tại hạ nói thật cái gì?
Gã áo gấm nghiêm nét mặt nói:
- Ngươi có phải là môn hạ của Nam Cung thế gia không?
Nhâm Vô Tâm lắc đầu:
- Không phải!
Gã đại hán sừng sộ:
- Ngươi vẫn còn chối, phải không? Ta lại hỏi ngươi lần nữa, nếu không phải thì tại sao ngươi lại loanh quanh dối trá như vậy?
Vô Tâm cười khanh khách:
- Nam Cung thế gia tiếng tăm lừng lẫy trong võ lâm mấy chục năm nay, chủ nhân nhà ấy, năm đời đều vì công đạo võ lâm phấn đấu mà thác, thật không hổ cái tiếng “Võ lâm đệ nhất gia”! Nếu tại hạ là môn hạ nhà Nam Cung thì việc gì phải chối?
Người áo gấm hừ một tiếng rồi nói:
- Đã vậy, tại sao vừa rồi ta hỏi thăm nhà Nam Cung thế gia, ngươi lại giả vờ làm như chưa từng nghe thấy tên ấy bao giờ, là nghĩa gì?
Vô Tâm chưa kịp trả lời thì gã lại tiếp:
- Ta không cần biết ngươi có phải là người nhà Nam Cung thế gia hay không, nhưng đã nói dối như vậy thì cũng không phải là hạng người tử tế.
Nói xong, hắn lại vung roi, quát:
- Các huynh đệ mau bắt tên này lại, để ta tra hỏi cho rõ ràng!
Sáu người kia cùng dạ ran một tiếng, rồi cầm roi xông vào, Nhâm Vô Tâm cau mày hỏi:
- Các vị muốn động thủ thật ư?
Gã áo gấm cười sằng sặc nói:
- Các ngươi không nghe thấy người ta thường có câu rằng: “Quan Đông có bảy ngọn Phá Lục Tiên, dưới đánh ma quỉ, trên đánh tiên” à? Địa vị của bảy huynh đệ ta như thế nào, mà nói đến động thủ lại còn phải hỏi giả hay thật?
Tú Linh không đợi Nhâm Vô Tâm lên tiếng, lập tức quát:
- Mặc kệ Phá Lục Tiên với Phá Lưỡng Tiên của các ngươi! Các ngươi muốn động thủ thì cứ động thủ đi!
Nhâm Vô Tâm thầm nghĩ: “Điền cô nương vẫn còn cái thói thiên kim tiểu thơ, việc gì cũng không chịu nhường nhịn. Trận đánh nhau hôm nay thật là oan uổng!”
Trong khi ấy, ba ngọn roi của đối phương đã vung tới. Thì ra bảy cây roi này đều tết bằng tóc, buộc bằng dây vàng, có thể vừa dùng làm roi ngựa, vừa dùng làm binh khí. Nếu lại đem nội lực dồn lên ngọn roi, thì đứng đằng xa có thể điểm lên các đại huyệt khắp trên mình địch thủ. Cán roi có mũi nhọn, nếu đánh xáp lá cà thì quay cán lại làm thành mũi chuỷ, thật là một món binh khí ngoại môn gồm cả nhuyễn ngạnh, đánh xa đánh gần cũng đều thuận tiện.
Nhâm Vô Tâm luôn luôn né tránh trong chưởng ảnh, ngọn roi, chàng không muốn đánh lại mà cũng không muốn nói rõ cho họ khỏi ngộ nhận. Giữa lúc ấy, chợt lại nghe tiếng vó ngựa rầm rập chạy đến, thoáng chốc đã tới gần.
Vô Tâm liếc mắt trông thấy một đoàn năm kỵ sĩ, đi đầu là một con la nhỏ lông xanh, xương xẩu gồ ghề, đuôi trụi, tai ngắn, trông chẳng thuận mắt chút nào nhưng cước lực của nó có lẽ còn nhanh hơn cả tuấn mã. Theo sau là bốn con vừa lừa vừa ngựa, ngựa thì ngựa tồi còn lừa thì cũng lừa ốm, trong bề ngoài, không ai có thể biết rằng sức chúng chạy nhanh không kém gì ngựa thiên lý.
Người cưỡi la, đầu trọc, lông mày ngắn, thân hình gầy ốm, khuôn mặt xám ngoét, mũi lớn, miệng rộng ngoắc lên tới gần mang tai. Lão mặc bộ áo mà da đồng, rách mướp, lưng còn thắt chiếc dây lụa màu lam, trông tựa như một ông sư kiết xác, ngày ngày cầm bát đi khất thực. Người nào la ấy, trông thật tương xứng một cách khôi hài.
Hàng thứ nhì là một con lừa hoa, trên lưng đã không có yên cương, lại còn đặt ngang lù lù hai túi vải to kếch. Một ông già tóc bạc, thân thể khô đét, quần áo lam lũ, ngồi chễm chệ trên hai cái túi, chân bỏ thõng chạm xuống tận đất, đứng phía sau trông giống như trẻ con cưỡi chó, mà đứng mé bên thì lại trông giống như con la có sáu chân.
Hàng thứ ba là hai con lừa lông đen nhánh như đồng lum, hình dạng màu lông, cao thấp giống nhau như hệt. Người ngồi trên lưng lừa đều bụng lớn, mặt tròn, da dẻ hồng hào, tuy đầu tóc đã bạc phơ mà thái độ chẳng khác gì trẻ con, vừa đi vừa cười đùa nhí nhảnh. Hai người đã giống nhau như hai giọt nước, lại cưỡi hai con lừa giống nhau sánh vai cùng đi, khiến cho ai trông thấy cũng tưởng là mình hoa mắt, trông một người hoá ra hai.
Con ngựa đi hàng thứ tư, hình thù càng cổ quái, đó là một giống ngựa chân thấp, còn thấp hơn cả con la, người ngồi trên lưng ngựa là một ông già râu quai nón, người cao như cây phướn, mắt tròn, mày rậm, râu cứng như rễ tre, áo thì vừa chật vừa ngắn, tay áo không dài quá khuỷu tay, ống quần không che kín đầu gối, hai cánh tay gân nổi lên như gân chảo. Trông lão ta tuổi đã gần bảy mươi, mà sức lực còn khoẻ mạnh hơn trai tráng.
Bọn Quan Đông Thất Tiên cũng nhận ra hình dạng kỳ quái của bọn người mới tới, nhưng tay vẫn không ngừng liên thủ tấn công Vô Tâm và Tú Linh.
Lão già cưỡi la đi đầu thấy hai bên đánh nhau, bèn ngoái đầu trông lại, người cưỡi lừa đi hàng thứ nhì, sắc mặt tỉnh bơ như không trông thấy. Còn lão già béo lùn đi hàng thứ ba lại quay đầu cười nói với người bên cạnh:
- Bùi lão nhị trông kìa, ở đây người ta dùng cả roi ngựa đánh người, mà đánh lại không trúng, mới tức cười chứ! hì, hì…
Lão già bên cạnh cũng cười khanh khách:
- Đánh trúng hay không trúng, không thành vấn đề, có điều bảy người đánh hai trông chướng mắt quá, phải không Bùi lão đại?
Bùi lão đại cười ha hả:
- Chẳng cần chúng mình phải lắm lời, coi chừng có người đã nhịn không nổi nữa rồi kia kìa!
Câu nói chưa dứt, ông già cưỡi ngựa đi hàng thứ tư đã vỗ tay vào vế ngựa đánh “bộp” một tiếng, con ngựa tức thì vượt qua bốn người, xông vào bọn Quan Đông Thất Tiên.