Hồi thứ 25
Dương-Qua làm Hoa Bang khất cái
Hồng-lăng-Ba đưa mắt nhìn chàng, tằng hắng một tiếng rồi nín thinh không đáp.
Dương-Qua quay lại Lục-vô-Song bảo:
- Khỏi cần sư đệ giúp sức, để một mình ta tranh tài cùng bọn này để làm rạng rỡ danh dự cho phái Toàn-Chân một phen. Vậy Sư-đệ cứ đứng ngoài lược trận và làm trọng tài luôn thể nhé.
Lý-mạc-Thu thấy vậy lẩm bẩm:
- ủa, té ra hai đạo sĩ trẻ tuổi này là môn đệ của Trùng-dương-Cung. Xưa nay bang Khất Cái và phái Toàn-Chân giao tình rất hậu, chẳng hiểu vì sao bọn đệ tử lại trở mặt gây sự cùng nhau đến nỗi xung đột đánh chém quyết liệt như thế này.
Dương-Qua thấy nếu để chần chờ e hai người ăn xin nói ra làm tiết lộ hình tích của Lục-vô-Song nên vội vung kiếm tấn công ngay.
Chàng xông tới, miệng réo, tay múa:
- Này hai bạn, một mình ta chấp cả hai, hãy liệu hồn mà chống cự đấy nhé.
Lục-vô-Song thấy Dương-Qua bày vẽ nhiều chuyện cũng phát bực, rủa thầm trong bụng:
- Thật thằng ngốc này khéo ba hoa, tự nhiên nhận mình là đồ đệ của phái Toàn-Chân. Sư phụ ta đâu có lạ gì kiếm pháp quyền thuật của Toàn-Chân phái mà hòng nói khoát. So qua vài thế cũng đủ cho bà nhận xét và phác giác ra chân tướng của nàng cho mà xem.
Nguyên dưới thời Nam Tống lúc bấy giờ có rất nhiều đảng phái, nhưng các giáo phái có tiếng tăm cũng không có được bao nhiêu Phái Toàn Chân là một trong chín phái quan trọng, tiếng tăm đang lừng lẫy đương thời. Nhưng nếu kể về số đông và phạm vi hoạt động thì Bang-Khất-Cái do Trương-Thiên-Sư chỉ đạo lớn hơn nhiều. Trụ sở chính của "Chính Khất-Cái" đóng tại núi Long Hổ thuộc tỉnh Giang Tây.
Giữa Toàn Chân phái và Khất-Chính-Cái có nhiều giao tình liên hệ rất mật thiết, môn đệ đôi bên rất nể nhau.
Vì vậy nên khi vừa nghe Dương-Qua tự xưng môn đệ Toàn-Chân phái, cả hai người hành khất thảy giựt mình, trong bụng đã nao núng, vội hỏi lớn:
- Mi thuộc Toàn Chân phái, nhưng ở trong Chi-Bộ nào.
Dương-Qua e rằng nếu để nói giằng dai sợ làm lộ tẩy Lục-vô-Song nên chẳng đáp nữa, dùng một ngón độc vung trường kiếm chém ngang một nhát rồi đổi thế khác đâm xóc vào bụng hai người.
Thấy đòn xuất thủ của đối phương rõ ràng là phương thức chân truyền của Trùng-Dương kiếm pháp, cả hai nghĩ thầm:
- Hai đứa mình dẫu sao cũng là hai nhân vật cao cấp của hạng tám túi, lẽ nào hùa nhau đi hiếp đáp một đạo sĩ còn non nớt theo loại đàn em hay sao?
Đang lúc phân vân tìm cách đối phó cho đứng đắn, bỗng Dương-Qua vũ động thanh kiếm, dùng toàn những thế ác liệt chém đâm tới tấp, hai người không thể nào đứng yên phải lật đật tung thiết bổng ra chống đỡ.
Nhìn bề ngoài, hai cây Thiết bổng có vẻ nhẹ nhàng nhưng thật ra rất nặng vì cây nào cũng đúc toàn bằng thép lọc vô cùng cứng rắn, trui luyện năm bảy lần.
Thế là hai cây thiết bỗng lộng lên như đôi thần long vờn sóng, thanh trường kiếm tung hoành như một đám bạch quang, soắn chặt lấy nhau, phát gió vùn vụt, rít lên nghe nhức óc, dùng toàn những thế tuyệt diệu phi thường, khiến cho những kẻ đứng xem phải bồi hồi thán phục.
Đánh một hồi lâu, hai thiết bảng dần dần yếu thế, bị lưỡi trường kiếm áp đảo rõ rệt. Hai người ăn mày vừa đánh vừa thối lui ra sau.
Dương-Qua hứng chí, dùng tư thế "liên thinh nhị cửu nhứt bái" tấn công ráo riết. Cứ một đường kiếm vừa tung ra đã biến thành hai thế, và chín đường biến thành mười tám thế, liên miên trường tận, kỳ ảo vô cùng. Đấy là một kiếm pháp tuyệt kỳ của Toàn-Chân phái được mệnh danh là "Nhất khí hóa tam thanh".
Với thế võ này, một người có thể ứng phó dễ dàng cùng ba đối thủ. Vì vậy nên hai người ăn xin không thể nào đương cự nổi, càng lúc càng lúng túng và sụt lùi ra rất xa, muốn tìm cách tẩu thoát.
Lý-mạc-Thu theo dõi trận đấu, thấy Dương-Qua xuất thủ rất tinh điệu, kiếm pháp biến ảo vô cùng phải chột dạ và nghĩ bụng:
- Toàn-Chân kiếm pháp quả danh bất hư truyền. Ngay một đạo sĩ còn nhỏ tuổi, thời gian tập luyện chưa bao nhiêu mà đã có một bản lĩnh ghê gớm như thế này thì sau đây được truyền thụ đúng mức hắn sẽ tiến bộ đến đâu nữa. Trong vòng năm mười năm nữa, tài này thế nào cũng giữ tay chương giáo Toàn-Chân và chừng ấy ta đây cũng chưa xứng là đối thủ của hắn.
Hồng-lăng-Ba và Lục-vô-Song cứ đứng ngẩn người mà nhìn theo không biết nói lời gì nữa. Dương-Qua vừa đánh vừa nghĩ thầm:
- Nếu ta để cho hai thằng này rảnh tay, chúng sẽ nói chuyện rồi vô tình phát giác chuyện bí mật cho Lý-mạc-Thu biết được thì nguy lắm. Âu là ta phải tấn công cho thật gắt để chúng không hở tay thốt được lời gì.
Chàng tung vút người ra phía sau hai đối thủ, vẹt phăng đôi thiết bảng, nhắm lưng đập tới.
Hai người thất kinh vội vàng ngồi sụp xuống tránh né. Nhưng Dương-Qua đã nhảy qua một bên tấn công liền. Chàng dùng khinh công nhảy nhót bốn phía như bươm bướm, đâm tả chém hữu, khi thiệt khi hư, khiến hai người hoa cả mắt hết thấy đường chống đỡ, mệt thở muốn hụt hơi.
Đây là lối khinh công đặc biệt luyện theo lối "Hỏa hầu" trong thế trận "Thiên cang Bắc đẩu" của Toàn-Chân phái.
Lối đánh đỡ, tấn công các mặt, dùng theo kiếm pháp Toàn-Chân, nhưng về lối thở hút, vận công thì Dương-Qua lại áp dụng theo "Ngọc-nữ tâm-kinh" của phái Cổ Mộ.
Với lối nội công và khinh công ảo điệu của Cổ Mộ phái thân pháp của Dương-Qua biến chuyển không cùng cho nên hai đối thủ càng lúc càng cảm thấy bất lực, chỉ lăm le tìm dịp để thoát thân.
Nhưng khốn nỗi làn kiếm quang của Dương-Qua loang loáng bám sát không chỗ nào hở, hai cây thiết bảng hình như bị một sức mạnh vô hình hút lấy, muốn thu lại để chạy cũng không được nữa. Cả hai thì thầm, phen này cũng đành liều với định mạng.
Một chập sau hai người ăn mày cảm thấy mắt hoa đầu váng, trời đất quay cuồng, đứng không vững nữa.
Lý-mạc-Thu thấy vậy động lòng mách nước hộ:
- Tại sao hai ngươi không đâu lưng nhau để chống cự.
Nghe nói, hai người sực nhớ lại, vội vàng xây lưng cùng nhau mà cầm cự.
Dương-Qua nghĩ:
- Con ác phụ cũng giỏi mách nước đấy. Bây giờ ta không nhảy lung tung nữa, xem bọn bay đối phó cách nào.
Nghĩ xong chàng đứng im một chỗ vung kiếm chém liên hồi.
Hai người ăn mày lâm ngay vào thế bị động, không thể nào chống cự nổi nữa bèn quay mình trốn chạy.
Dương-Qua khẽ nhún chân một cái đã đứng sát ngay bên lưng họ, cả hai cảm thấy một lần lãnh khí phía sau lưng, hình như cả thanh kiếm thép nằm ngang trên da thịt mình, hoảng hốt cuống cuồng. Nhưng Dương-Qua chỉ đuổi theo cho họ sợ chứ không dụng tâm sát hại. Chàng chỉ dùng lưỡi kiếm áp trên vai và lưng mỗi người mà thôi chứ không chém.
Biết đối phương không muốn giết mình nên hai người ăn mày mừng rỡ và yên trí dùng khinh công lao vút về phía xa, không bao lâu đã cách Lý-mạc-Thu hơn hai dặm.
Dương-Qua phi thân bay theo chận lại cười cười nói:
- Thôi đừng chạy nữa, mình là bạn với nhau cả mà.
Hai người vung thiết bảng đánh nữa. Nhưng Dương-Qua đã dùng kiếm gạt rồi đưa tay trái giật một cây ném ra phía sau. Còn cây thứ hai vừa bổ tới đã bị chàng quất mạnh một kiếm sút tay rơi xa mấy trượng. Bị mất hết vũ khí, cả hai thất kinh đành đứng lặng yên nhìn nàng.
Dương-Qua cười hề hà kiếm lời an ủi:
- Sư môn của bần đạo cùng quý Bang đã có tình giao hảo từ trước đến nay, không thể nào chỉ vì một sự nông nổi hiểu lầm nhau mà đi làm sứt mẻ hòa khí của đôi bên. Ngay giờ phút này kẻ thù nguy hiểm của quý Bang là Lý-mạc-Thu, một con ác phụ của phái Cổ Mộ đang đứng trước mặt đó, sao chúng ta không hợp nhau để trừ khử có hơn không?
Hai người tuy có nghe danh Xích-Luyện-Tiên-Tử Lý-mạc-Thu nhưng chưa rõ mặt mày ra sao, nay nghe Dương-Qua mách cũng hỏi lại:
- Có thật là hắn không? Đạo huynh đừng dối chúng tôi nhé.
Dương-Qua đáp:
- Bần Đạo đâu dấu liệt vị. Chính Bần Đạo cũng đang bị hắn bức bách không biết lối nào thoát được, phải dùng kế ra đây để cùng liệt vị bàn tính cách đối phó.
Chàng chạy lại nhặt hai cây thiết bảng, hai tay trao cho mỗi người có vẻ thân mật và kính cẩn lắm rồi nói thêm:
- Xích-Luyện-Tiên-Tử có một bảo bối vô cùng ác liệt mà khi nào hắn cũng mang theo bên mình, quý vị có biết là thứ gì không?
Một người suy nghĩ một tý và đáp:
- Theo tôi đoán có lẽ là cây "phất trần" của hắn, xâu nhạc "loan linh" trên cổ lừa, và chiếc áo "hoàng sam" có phải chăng?
Dương-Qua cười dài và nói:
- Không phải đâu! Ba món ấy đâu có gì là lợi hại, mà món bảo bối nguy hiểm nhất của hắn là lưỡi phi dao mỏng, hình cánh cung mà đệ tử của hắn dùng để phóng vào lưng một người trong quý Bang đó.
Hai người nghe nói cùng "à" một tiếng, suy nghĩ thêm một chập rồi đồng nói:
- Phải rồi, lưỡi phi đao ấy quả là lợi hại. Bây giờ chúng ta có những ba người, nên thừa dịp là lại tấn công hắn cho rồi, có gì đâu mà sợ.
Người kia cũng phụ họa theo. Nhưng Dương-Qua khoát tay nói:
- Phải bình tĩnh mà trù liệu không nên hấp tấp nông nổi mà hư việc.
Người ăn mày cãi lại:
- Tại sao lại hư việc được?
Dương-Qua nghiêm giọng từ từ nói:
- Xích-Luyện-Tiên-tử là tay lợi hại, đã lừng danh xưa nay, trên giang hồ ai cũng chạy mặt. Liệt vị tuy có bản lãnh, nhưng chưa hẳn là đối thủ của nó. Ngay như người bạn của liệt vị cũng vì ỷ tài mà bị đệ tử của hắn phóng đao gây trọng thương đấy. Cần phải cẩn thận đề phòng cho lắm mới được.
Bị Dương-Qua nói khích, người ăn mày nóng tính nổi giận vung cây thiết bảng, trợn mắt đỏ mặt hét:
- Dầu nó là Xích-Luyện-Tiên-Tử hay thứ chi chi đi nữa ta cũng quyết thử một trận cho biết sức.
Nói rồi quay mình toan bước đi.
Người kia có vẻ thận trọng hơn nghĩ bụng:
- Chỉ có một đạo sĩ trẻ tuổi này mà cả hai đứa còn cự địch không xuể huống chi là Xích-Luyện-Tiên-tử Lý-mạc-Thu! Nóng nảy hấp tấp chi gây nên tai họa cho mình mà thôi.
Việc này cần phải bàn tính thật chu đáo mới được. Nghĩ ngợi xong, người ấy kéo áo bạn lại nói:
- Không nên hấp tấp, phải tính toán kỹ đã.
Nói rồi hắn chấp tay lễ phép hướng về phía Dương-Qua nói:
- Xin đạo hữu cho biết phương danh quý tánh.
Dương-Qua đáp:
- Bần đạo họ Tát tên Hoa-Tư.
Chàng đáp rồi chắp tay bái hai người nói tiếp:
- Giờ đây xin tạm biệt, hẹn gặp nhau vào một dịp sau.
Dương-Qua vừa đi khuất dạng thì người ăn xin cúi đầu, lẩm bẩm mãi cái tên Tát-Hoa-Tư và nghĩ thầm:
- ồ, con người có cái tên xa lạ quá, nhưng bản lãnh quả thật cao cường, tài không đợi tuổi!
Hắn cố moi trong ký ức tìm xem cố nhớ lại cái tên này nhưng vẫn hoàn toàn xa lạ.
Đang lẩm bẩm một mình bỗng có người vỗ mạnh trên vai nói lớn:
- Sao mà ngây thơ vậy. Chuyện gì cứ lẩm nhẩm như người đọc kinh thế?
Người ăn mày thấy bạn phá rối câu chuyện mình đang suy nghĩ phát cáu, nhăn mặt nói:
- Cứ phá người ta hoài. Tại sao lại gọi là ngây thơ được?
Người nọ đáp:
- Chẳng phải ngây thơ sao? Kẻ tử thù đang đứng trước mặt không lo giải quyết cho rồi, để đi lẩm nhẩm một cái tên không hề quen biết. Chả ngây thơ sao?
Tuy cãi vã nhau hăng lắm nhưng rốt cuộc chẳng người nào dám đả động đến Lý-mạc-Thu.
Dương-Qua bỏ đi, nghĩ buồn cười cho hai chàng ăn mày bất tài mà nói dốc, miệng lớn lối mà nhát gan hơn thỏ. Nhớ đến Lục-vô-Song chàng bỗng lo lắng cho nàng, không biết có xảy ra điều gì bất trắc hay không.
Khi về đến nơi thấy nàng vẫn bình yên ngồi trên mình ngựa mắt hướng về phía mình có vẻ trông đợi lung lắm.
Vừa gặp nhau, Lục-vô-Song vội giục lừa chạy lại gần. Thấy chàng lộ sắc mặt vui vẻ, nàng cũng mừng vội hỏi:
- Làm gì lâu quá, để ta chờ thật sốt ruột. Sao, êm thấm tốt đẹp cả đấy chứ?
Dương-Qua mỉm cười gật đầu rồi cầm thanh trường kiếm đi lại phía Hồng-Lăng-Ba lễ phép nói:
- Đa tạ đạo hữu đã có lòng tốt cho mượn gươm để đánh bại kẻ thù.
Hồng-Lăng-Ba đưa tay tiếp nhận thanh gươm tra vào vỏ.
Thấy Dương-Qua sắp quay lưng trở lại, Lý-mạc-Thu cất tiếng nói:
- Khoan đã. Hãy chờ ta nói tý việc cần.
Lý-mạc-Thu thấy Dương-Qua bản lãnh cao cường, ngại về sau trở thành một cao thủ võ lâm, nàng không thể nào địch nổi. Chi bằng nhân lúc tài nghệ hắn chưa phát triển đúng mức, ra tay trừ phứt cho rồi để khỏi hậu họa.
Nghe hai chữ "khoan đã" Dương-Qua đoán biết cuộc sóng gió sắp xảy ra trên đầu mình, nhưng vẫn bình tĩnh đứng dừng lại, cách xa Hồng-Lăng-Ba chừng mấy thước.
Thấy chàng cố ý đứng xa mình hơn, Hồng-Lăng-Ba cười lớn nói:
- Đạo hữu bản lãnh cao kỳ mà óc nhận xét cũng tinh tường lắm.
Lý-mạc-Thu muốn thừa thế đánh cho Dương-Qua một phất trần rồi mạng, nhưng nghĩ lại mình như thế này mà đi đánh bất ngờ một đứa trẻ trong tay không binh khí thì quả là hèn hạ, nên cất phất trần vào lưng rồi hỏi:
- Trong Toàn-Chân phái, ai là sư phụ của ngươi?
Dương-Qua vừa cười vừa đáp ngay, không một chút ngập ngừng hay do dự:
- Thưa, tôi là đệ tử của Vương-Trùng-Dương chân nhân.
Dương-Qua thừa rõ Lý-mạc-Thu không thân mật mà cũng chẳng nể vì một nhân vật nào trong Toàn-Chân phái. Ngay như Khưu-xứ-Cơ đạo trưởng, có võ nghệ tuyệt luân đạo hạnh hơn người, mà nàng cũng chẳng xem ra gì huống hồ chi Xích-đại-Thông, hay Triệu-chí-Kính!
Vì nhờ Vương-trùng-Dương có nhiều liên hệ với phái Cổ-mộ và hơn nữa chính người là kẻ đã lưu truyền "Cửu âm chơn kinh" cho mình nên Dương-Qua mới nhận ẩu như vậy cho qua chuyện.
Lý-mạc-Thu nghĩ bụng:
- Thằng này tuổi chưa bao lăm, nếu xét theo lứa ấy chỉ đáng là đệ tử của bọn Doãn-chí-Bình hay Triệu-Chí-Kính, chẳng hiểu vì sao mà võ thuật quá ư tinh điệu? Cứ xem lối đánh đỡ của nó thì quả thật là từ Toàn-Chân phái xuất thân rồi.
Thấy Lý-mạc-Thu đăm chiêu suy nghĩ, Dương-Qua bỗng sực nhớ lại ngày nào mình đã cải trang chọc ghẹo Hồng-lăng-Ba, mấy phen đấu cùng Lý-mạc-Thu nữa. Nếu đứng nói chuyện lâu e bọn chúng nhận diện ra được thì phiền lắm, chi bằng kiếm cách chuồn đi cho rảnh nợ.
Nghĩ xong chàng cúi đầu bái tạ rồi nhảy lên lưng ngựa toan đi.
Nhưng Lý-mạc-Thu đã lẹ làng chuyển mình chận ngay trước mặt bảo:
- Khoan đi, ta có việc cần hỏi thêm.
Dương-Qua ngó lên nói:
- Phải cô muốn hỏi thêm tôi có gặp cô gái thọt chân, mang sách chạy về phía nào đấy chứ gì?
Lý-mạc-Thu ngạc nhiên quá, gật đầu đáp:
- Quả đúng thế. Tại sao mi đoán giỏi như vậy. Thật đáng khen. Vậy mi có thể cho biết hắn mang sách đi đâu rồi không?
Dương-Qua thong thả kể chuyện:
- Cách đây không lâu, hai anh em tôi ngồi nghỉ chân bên đường có trông thấy một cô bé chân đi khập khễnh cùng đánh nhau kịch liệt với ba tên ăn mày. Nàng đã dùng "ngân hồ phi đao" phóng trúng lưng một người. Nhưng sau đó thất bại nàng đã bị mấy tên bắt được đem đi mất rồi.
Lý-mạc-Thu vốn là người hiểm độc và bình tĩnh. Đối với nàng dầu việc gì quan trọng đến long trời lở đất vẫn cứ giữ vẻ điềm nhiên không hề cảm động. Nhưng lần này khi được biết tin Lục-vô-Song bị bọn ăn mày bắt được, cuốn "ngũ độc bí truyền" lọt vào tay Cái Bang thì nàng thấy bàng hoàng cả người, nỗi ưu tư lộ ra trên nét mặt.
Thấy mặt nàng đã tái, Dương-Qua biết câu chuyện của mình đã làm cho nàng tư tưởng xao động nên kể thêm
- Hai người có lục soát trong người nàng thấy một cuốn sách nàng nhất định giành lại, nhưng sức yếu không làm gì được. Sau đó tên cao lớn hơn chiếm sách mang đi.
Lục-vô-Song nghe chàng kể lể ngon lành như chuyện thật cũng ngắn cho tài nói láo của chú Ngốc này. Nàng nghĩ:
- Hắn quả con người có lợi khẩu hèn chi lúc đầu hắn muốn lừa gì mình cũng lầm hết!
Liếc thấy vẻ mặt Lục-vô-Song lộ vẻ ưu tư, Dương-Qua tìm cách trêu chơi:
- Này sư đệ, nghĩ cũng đáng giận nhỉ! Mình vô tình mà chứng kiến việc này, còn cô nương đây quyết tâm tìm kiếm mà tìm chẳng ra, để đến nỗi phải lê gót đi khắp bốn phương, tốn biết bao nhiêu công của mà chẳng ích gì cả.
Lục-vô-Song sợ quá chẳng dám nói gì, chỉ gắng gượng "vâng" nhỏ một tiếng rồi cúi mặt xuống ngay.
Vừa lúc đó từ phía sau núi có tiếng ngựa hí quân reo vang dậy, một đoàn quân rất đông đang rầm rập tiến về phía này, cờ xí rợp trời, cát tung đầy đất.
Đó là một đoàn quân Mông Cổ do một viên quan điều khiển đang đi về vùng này thị sát. Lúc này quân Kim không còn nữa mà quân Mông Cổ đã thay thế để cai trị toàn cõi đất Bắc.
Lý-mạc-Thu mãi lo theo dõi câu chuyện của Lục-vô-Song và cuốn sách, nào thèm quan tâm đến đám quân này. Nàng đứng tránh qua một bên nhường đường cho đoàn người ngựa kéo đi.
Đoàn kỵ binh phi như gió, cát bụi mịt mù. Bao nhiêu quân binh ủng hộ một viên quan văn nhưng cỡi ngựa cũng tài tình lắm.
Đoàn kỵ binh qua khỏi, áo quần nàng bị bụi đóng một lớp rất dày, Lý-mạc-Thu bèn dùng cây phất trần phủi bụi trên mình.
Lục-vô-Song lấm lét đứng nhìn. Cứ mỗi lần thấy chiếc phất trần giơ lên là nàng tái mặt và tưởng tượng hình như nó sắp bổ vào đầu mình.
Phủi sạch bụi xong, Lý-mạc-Thu hỏi:
- Rồi sao nữa kể thêm đi?
Dương-Qua đưa tay chỉ về phía Bắc, miệng nói tiếp:
- Mấy người ấy bắt nàng đem đi theo hướng này. Theo họ bàn tán định dẫn về Đồng Quan thì phải.
Nghe xong Lý-mạc-Thu gật đầu có vẻ bằng lòng và tươi cười nói:
- Cám ơn chú lắm. Chính ta là Lý-mạc-Thu, sư phụ của cô gái ấy đây. Thiên hạ thường gọi ta là Xích-Luyện Tiên-Tử hoặc Xích-Luyện Mã-đầu. Chú em có nghe danh hiệu ấy bao giờ chưa?
Dương-Qua giả bộ suy nghĩ một chặp rồi lắc đầu nói:
- Dạ chưa hề nghe bao giờ. Nhưng có một điều tôi không phục là vì như tôi thấy Cô-nương đẹp lắm.
Danh từ-tiên-tử dùng để gọi cô thì thật là xứng đáng. Nếu dùng tiếng mã-đầu quả không đúng một tý nào hết.
Xưa nay Lý-mạc-Thu vẫn chú trọng việc giữ gìn thân thể và sắc đẹp, vì vậy cho nên tuy tuổi đã quá năm mươi, nhưng da dẻ nàng vẫn hồng hào, thân hình đầy đặn, nét mặt xinh tươi đẹp đẽ không kém một phụ nữ ba mươi. Chính Lý-mạc-Thu cũng tự hào nhan sắc của mình đã giúp mình trẻ gần một nửa số tuổi đã có.
Nay được Dương-Qua tán dương mình đẹp thật chẳng khác nào đã gãi nhắm chỗ ngứa, cho nên nàng khoái chí lắm và có cảm tình cùng chàng ngay.
Nàng vui vẻ hân hoan vô cùng, tay cầm chiếc phất trần phẩy nhẹ một cái và hỏi Dương-Qua.
- Chú em xưng mình là đệ tử Vương-trùng-Dương chân nhân lẽ ra ta cho nếm một cây phất trần để bỏ bớt tánh nói dóc, nhưng ta cũng thương tình tha cho một bận. Tuy nhiên ta muốn dùng phất trần để chỉ điểm cho chú vài ngón, có bằng lòng không?
Dương-Qua lắc đầu lia lịa đáp:
- ồ, không nên đâu. Bình sinh bần đạo không bao giờ muốn tranh chấp với bọn hậu bối như cô.
Lý-mạc-Thu nổi giận nói:
- Thằng này hết muốn sống sao mà dám gọi ta là hậu bối?
Dương-Qua đáp:
- Sư phụ tôi là Vương-Trùng-Dương chân nhân, cùng vai vế với Sư-Tổ của cô là Lâm-Triều-Anh, như vậy so với tôi, cô há chẳng phải là kẻ hậu bối hay sao?
Lý-mạc-Thu căm giận cành hông nhưng cố giữ vẻ điềm tĩnh bảo Hồng-Lăng-Ba:
- Mi cho hắn mượn lại thanh kiếm.
Dương-Qua vội gạt đi:
- Khỏi cần, khỏi cần mượn!
Nhưng Hồng-Lăng-Ba đã rút gươm ra. Thình lình nghe rắc một tiếng khô khan, lưỡi gươm đã gãy lìa làm đôi nằm nguyên trong vỏ, chỉ còn một cái cán không trên tay mà thôi.
Hồng-lăng-Ba ngạc nhiên quá nhưng cũng đoán được là Dương-Qua chơi nghịch bấm trước vào lưỡi gươm khiến cho khi rút mạnh bị gãy hai làm nàng không có vũ khí để sử dụng nữa.
Thấy Lý-mạc-Thu giận tái cả mặt, Dương-Qua nhanh nhảu nói:
- Này, thật tâm bần đạo không bao giờ muốn hạ thể đi đánh nhau với bọn hậu bối. Nhưng thấy hai thầy trò người thiết tha van nài, bần đạo đồng ý chỉ dùng tay không cho người đánh thử ba phất trần.
Nếu sau ba ngón đó mà không làm gì bần đạo được thì phải rút lui đi cho rảnh mắt. Hễ đánh thêm một cái thứ tư nữa thì bần đạo không thể tha thứ được đâu nhé.
Dương-Qua muốn dùng đòn tâm lý, lấy lời lẽ đạo mạo nói chuyện để cho nàng nể nang mà rút lui đi chăng. Không ngờ Lý-mạc-Thu tự tin nơi tài nghệ mình và cho rằng chỉ một vài cái phất trần cũng đủ hạn hắn rồi, đâu cần phải ra tay đến lần thứ ba nữa.
Nghĩ vậy nên nàng nói lớn:
- Hay lắm, nếu tiền bối đã muốn như vậy, hậu bối xin ra tay trình bày tài mọn.
Dương-Qua nói:
- ừ, cứ tự nhiên, không sao.
Thế là một luồng sáng bạc vung lên, không biết bao nhiêu là phất trần loang loáng đập vào mình chàng như bươm bướm.
Lý-mạc-Thu đã dùng ngay thuật "Võ khổng bất nhập", một tuyệt ký lợi hại nhất trong lối đánh phất trần. Cứ một ngón đánh ra, liền thành muôn ngàn ngón khác, bao phủ khắp người địch thủ, không biết đâu mà chống đỡ nữa. Ngoài ra, nàng còn nhắm điểm luôn cả ba mươi sáu yếu huyệt của Dương-Qua.
Thì ra trong lúc đứng ngoài xem chàng đánh nhau với hai tên ăn mày tám túi, Lý-mạc-Thu đã ngán cái bản lãnh cao cường của Dương-Qua rồi, không dám coi thường chàng nữa. Khi ra tay nàng đã dùng thế võ hiểm ác nhất để hạ sát ngay cho rồi.
Dương-Qua tiền khai khinh công tránh né nhưng lanh lẹ mấy cũng không kịp nữa. Nhảy bên trái thì bị trúng bên phải, bước tới trước bị điểm sau lưng, trong nháy mắt đã bị điểm trúng nhiều yếu huyệt, thân thể tê rần, tay chân rúng động.
Chàng hoảng kinh, vội vàng lộn đầu xuống đất đưa chân lên trời theo phương pháp "trồng chuối" của dưỡng phụ Âu-dương-Phong đã truyền thụ. Hai tay chống đi lanh như tên bắn.
Nhờ lối này nên máu chảy lộn ngược, các đường huyệt đạo tự động khai phúng, thân thể trở lại bình thường như trước.
Lúc cảm thấy trong người hết tê tái vận động được tự nhiên. Dương-Qua đứng dậy như cũ.
Lý-mạc-Thu thấy Dương-Qua đã bị điểm huyệt nhưng không hề bị ảnh hưởng tý nào thì ngạc nhiên quá. Nhưng nàng nghĩ bụng:
- Mày đã giỏi, ta sẽ điểm luôn cả bảy mươi hai yếu huyệt khắp người xem mày có khỏi chết được không?
Thừa lúc nàng đang do dự, Dương-Qua bất ngờ đưa tay điểm "ủy trung" của nàng.
Lý-mạc-Thu vội vàng né tránh và nghĩ bụng:
- Theo thuật điểm huyệt "tam vô tam bất thủ" của ta vừa dùng thì địch thủ nhất định phải bị mù mắt, nghẹn họng và bủn rủn tứ chi, chẳng hiểu vì sao thằng oắt con này vẫn không bị ảnh hưởng gì hết cũng lạ.
Thật ra Lý-mạc-Thu ngạc nhiên là đúng. Vì trong đời nàng đã trải qua biết bao nhiêu lần tranh tài cùng các võ lâm cao thủ, sát hại biết bao nhiêu mạng, bách chiến bách thắng, làm chấn động quần hùng, không ngờ hôm nay thế võ hiểm ác nhất lại vô hiệu lực đối với một đạo sĩ tuổi chưa quá hai mươi.
Đang lúc Lý-mạc-Thu đang hoang mang ngơ ngẩn như vậy, Dương-Qua đã xuất thần vận dụng nội công há miệng dùn mình một cái lanh như chớp đứng thẳng người lên lao lại đớp ngay cây phất trần vào miệng, giật phắt khỏi tay nàng.
Thật là một chuyện bất ngờ hi hữu.
Nguyên thuật này vốn của Âu-dương-Phong truyền lại. Ngày xưa trong dịp luyện kiếm trên đỉnh Hoa-Sơn, Âu-dương-Phong đã áp dụng thuật này cắn đứt ngón tay của Hoàng-dược-Sư.
Hôm nay Dương-Qua cũng nhờ ngón ấy cướp được cây phất trần của Xích-Luyện-Tiên-Tử khiến cho bao nhiêu thành tích chiến thắng trước đây của nàng đã tiêu tan theo mây khói.
Thật là một điều ngoài sức tưởng tượng của mọi người! Hồng-lăng-Ba thất kinh la lên một tiếng, lúng túng chưa biết nên xử sự ra sao thì Lý-mạc-Thu vẫn giữ bình tĩnh tung Xích-luyện thần chưởng ra để cướp lại cây phất trần.
Trong lúc sắp tung thần chưởng Lý-mạc-Thu bỗng "ồ" lên một tiếng, rồi la lớn:
- Té ra là mi! Còn sư phụ của mi đâu rồi?
Trong lúc đánh nhau, mồ hôi ra nhiều làm trôi hết mực và cát bụi trên mặt của Dương-Qua, nên Lý-mạc-Thu nhìn thấy nhận diện được ngay.
Đồng thời Hồng-lăng-Ba cũng nhận ra Lục-vô-Song và la lớn:
- Sư muội đây rồi, sư phụ ơi!
Dương-Qua lanh như chớp, dùng khinh công phóc lên lừa của Lục-vô-Song ngồi ngay phía sau lưng nàng rồi vung tay phóng mấy mũi ngọc phong châm vào lừa của Hồng-lăng-Ba.
Lý-mạc-Thu giận lắm xông đến tấn công ngay.
Dương-Qua nhẹ nhàng nhảy xuống đất, dùng cây phất trần phe phẩy về phía sau gọi lớn:
- Cô hãy chạy theo tôi mau.
Miệng nói, tay giắt lừa chạy tới.
Khi lừa chạy có trớn rồi, Dương-Qua lại tung mình nhảy lên ngồi lại chỗ cũ. Lục-vô-Song giật cương, lừa tung bốn vó phi đi như bay, Dương-Qua cứ dùng phất trần hươi về phía sau, nửa để tự vệ, nửa để trêu tức.
Thuật khinh công của Lý-mạc-Thu đã đến mức cao siêu, dẫu xa cách một vài dặm đường cũng có thể đuổi kịp trong chốc lát. Hôm nay vì sự việc xảy ra quá bất ngờ khiến cho nàng rủ chí, hết tin tưởng nên chẳng muốn làm gì hơn là đuổi theo cầm chừng cốt để thu hồi được cây phất trần lại mà thôi.
Con lừa của Hồng-lăng-Ba vừa bị trúng ngọc phong châm đau quá lồng lên đạp đá lung tung rồi đến ngay trước mặt Lý-mạc-Thu cất bốn vó lên trời mồm rống lên rất quái gở.
Lý-mạc-Thu phát cáu trợn mắt nạt Hồng-lăng-Ba:
- Bây giờ mi lại làm cái trò gì lạ vậy?
Hồng-lăng-Ba thưa:
- Chẳng hiểu vì sao hắn trở chứng lồng lên la hí như thế này, đệ tử đã ghìm cương hết sức mà không được.
Nói xong nàng vội nắm cả bờm nó ghì lại. Con lừa nhảy tung lên mấy cái rồi ngã đùng trên mặt đất ném Hồng-lăng-Ba nhào theo.
Bị té bất ngờ, Hồng-lăng-Ba gọi lớn:
- Sư phụ ơi, xin chờ con với.
Lý-mạc-Thu phải dừng lại chờ. Nhờ phút rắc rối này. Dương-Qua cùng Lục-vô-Song đã chạy thoát được một đoạn khá xa.
Cứ chạy mãi một hồi lâu nữa hai người quay đầu nhìn lại chẳng thấy thầy trò Lý-mạc-Thu đuổi theo cũng hơi yên bụng.
Lục-vô-Song hỏi:
- Này cậu, ta lo quá, không biết có tẩu thoát được lần này nữa không?
Dương-Qua làm thinh nhảy xuống lừa, áp tai trên mặt đất nghe ngóng rồi đáp:
- Không nghe thấy vó ngựa đuổi theo nữa, bây giờ mình có thể đi chậm hơn, khỏi lo lắm.
Hai người cứ buông cương cho lừa đi nước kiệu đều đều.
Lúc bấy giờ Lục-vô-Song mới hỏi:
- Ngốc giỏi quá! Làm sao mà cướp được cả cây phất trần của sư phụ mình như vậy?
Dương-Qua cười hì hì đáp:
- Tôi cứ làm cho nàng sướng mê lên rồi bất ngờ cướp lấy chứ có gì khó đâu!
Lục-vô-Song ngạc nhiên hỏi nữa:
- ô, sao lại có thuật làm cho người ta sướng mê lên được. Hay quá nhỉ. Vì cậu đẹp trai chăng?
Nàng hỏi xong thấy nóng bừng cả mặt, đôi má đỏ hây hây.
Dương-Qua khoác tay đáp:
- Bí mật không nói. Thật ra tôi chỉ biết cô nàng cứ ngó sững mình hoài. ấy chết, nói nữa e có kẻ nổi ghen lên bây giờ.
Lục-vô-Song đấm vào đùi chàng nói:
- Cóc khô! Ai thèm! Bộ ngon lắm sao?
Cho lừa đi chầm chậm một chập để dưỡng sức, hai người sợ Lý-mạc-Thu đuổi theo nữa nên cho phi nhanh trở lại.
Chẳng bao lâu núi rừng đã chìm đắm trong màn sương chiếu trắng đục, ánh hồng chỉ còn le lói trên ngọn cây, chim rừng kêu nhau về tổ, bóng hoàng hôn sắp trùm lên vạn vật.
Dương-Qua nói:
- Bây giờ trời đã tối, miệng đã khô, bao tử trống trơn, cửa nhà không có, tính liệu sao đây?
Lục-vô-Song đáp:
- Cậu muốn gì cứ nói ra chứ hỏi làm gì cho lắm chuyện.
Dương-Qua nói:
- Nếu không bận tâm về chú lừa này, bọn mình tìm bụi nào kín đáo ngủ đỡ một đêm cũng xong.
Lục-vô-Song đáp:
- Chỉ có bọn mọi man rợ mới đi ngủ núi nằm rừng mà thôi.
Dương-Qua làm thinh. Hai người cứ cho lừa đi bước một trong đêm tối. Chẳng bao lâu tới một thôn trang nhỏ, ngay ở đầu thôn có buộc một đoàn ngựa rất nhiều, có hàng trăm con. Ngựa này của quân Mông Cổ vừa đi ngang vùng này ban sáng và hình như tạm nghỉ chân lại một vài hoom.
Dương-Qua bảo Lục-vô-Song:
- Cô tạm ở đây coi chừng lừa, tôi vào xóm xem xét tình hình thế nào rồi ra ngay nhé.
Nói rồi xăm xúi đi thẳng vào làng.
Nơi phía đầu làng có một tòa nhà rất lớn, tuy đóng cửa, bên trong đèn đuốc thắp sáng, chiếu ra ngoài qua các khe cửa.
Dương-Qua rón rén lại gần, nhón chân ghé mắt nhìn qua kẽ hở của cánh cửa sổ, thấy bên trong có một viên quan Mông Cổ ngồi xây lưng ra ngoài, chàng nghĩ bụng:
- Ta bắt cóc người này lợi hơn là đoạt ngựa.
Vừa khi ấy viên quan nọ đứng dậy đi đi lại lại trong phòng hình như đang suy nghĩ điều gì quan trọng.
Nhìn nét mặt thì y hãy còn trẻ lắm, tuổi độ ba mươi thôi, nhưng xem dáng điệu và lối ăn mặc, thì có vẻ một vị quan lớn lắm.
Chờ cho người ấy ngồi lại chỗ cũ xoay lưng về phía mình, Dương-Qua chuyển lực vào hai cánh tay bẻ cong mấy thanh sắt nơi cửa sổ rồi phóng người vào, đưa tay chụp lấy lưng hắn.
Vị quan này tuy nhỏ tuổi nhưng cũng có bản lãnh. Vừa nghe tiếng gió phía sau hắn đã cúi sạp mình tới trước né tránh, khiến cho Dương-Qua chụp hụt vào không khí, hắn bỗng xoay mình lại, xòe hai bàn tay như cặp vuốt chim ưng, chộp lấy Dương-Qua.
Thấy y xuất thế "thần ưng vỗ kiếm" một thế võ lợi hại, Dương-Qua vội vàng nghiêng qua một bên và trong bụng khen thầm chẳng ngờ một viên văn quan mà cũng khá thạo về võ nghệ.
Viên quan ấy bước tới chụp luôn mấy cái nữa nhưng không kết quả gì.
Nguyên lúc còn thơ ấu, viên quan này có gặp một dị nhân dạy cho thế võ "thần ưng vỗ kiếm" nên lấy làm tự hào, dùng đó làm món nghề hộ thân. Chẳng ngờ hôm nay đưa ra ngón một mà chụp hoài không trúng được đối phương nên y lộ vẽ lúng túng, đứng yên một chỗ đưa mắt nhìn người lạ mặt lộ vẻ sợ hãi.
Dương-Qua thấy y cứ loay hoay và dùng mãi chỉ có một thế võ đó nên phi thân lên trên cao, đưa tay nắm trúng bả vai viên quan, trừng mắt bảo:
- Hãy im lặng. Muốn sống quỳ xuống ngay.
Viên quan cảm thấy trên vai nặng chĩu như có một tảng đá nặng ngàn cân, buộc lòng phải quỳ xuống theo lệnh của đối phương nhưng lòng căm tức muốn ói mật.
Dương-Qua xem sắc diện y tái mét lộ vẻ căm phẫn cực độ, e rằng có thể vì quá phẫn uất lên mà chết mất, nên đưa tay điểm nhẹ một huyệt cho máu huyết lưu thông.
Viên quan cảm thấy trong người đã thư thái nhẹ nhàng, dễ chịu hơn trước nên đứng thẳng dậy, mắt nhìn trừng trừng vào Dương-Qua, nghiến nàng hỏi:
- Ngươi là ai, dám vào nơi đây hành hung như vậy?
Thấy người này nói giọng Hán rất trôi chảy, không ngượng nghịu líu lo như phần đông người Mông-Cổ khác nên cười khà khà hỏi lại:
- Còn chú mi tên chi, hiện đang giữ chức vụ gì, từ đâu lại đây?
Người ấy nổi nóng xung tới thoi nhầu vào ngực Dương-Qua. Chàng chỉ sẽ đưa tay gạt qua một bên rồi ôn tồn nói nhỏ:
- Chú ni đã thọ thương nơi vai rồi, phải liệu lấy, đừng làm phí sức khỏe lắm mà chết không kịp ngáp.
Người ấy trợn mắt đáp:
- Mi đừng nói nhảm, ta mạnh khỏe như thường, chẳng bị thương tích nào cả.
Dương-Qua nói thêm:
- Mi chưa cảm thấy đó thôi. Nhưng bây giờ vai đã bắt đầu ê ẩm rồi đó.
Quả nhiên viên quan ấy thấy hai đầu vai đã tăng tăng như bị kiến cắn, biết không phải chuyện nói đùa nên lật đật trật áo ra xem thử nơi mỗi vai có một vết đỏ ửng như bị kim châm.
Y đoán chắc người này đã dùng ám khí chém nơi vai mình khi nãy, nên bốc giận phừng phừng nhưng không dám nặng lời, chỉ hỏi lại:
- Ngươi dùng loại ám khí gì đâm ta như vậy? Có độc lắm không?
Dương-Qua mỉm cười đáp:
- Té ra chú mi chẳng hiểu tý gì về ám khí cả sao? Như thế mà cũng xưng võ nghệ với ai? Chú mi há chẳng nghe tục ngữ trong võ lâm thường nhắc: "ám khí nặng không độc, ám khí nhỏ mới có nhiều chất độc", nguy lắm chứ.
Nhìn thấy nét mặt của viên quan trẻ tuổi từ hồng hào sang tái xanh, môi mép lợt lạt, Dương-Qua biết y sợ hãi đến cực độ nên dùng cây bút lấy trên bàn khẽ chỉ vào hai vết đỏ mà giải thích thêm:
- Hai đấu này là do kim châm của ta đã điểm vào khi nãy. Cứ một ngày chất độc lan ra bám đen thêm một tấc. Cứ thế mãi, đúng sáu hôm, chất độc sẽ thấm vào tim, thế là hết sống.
Viên quan thất kinh hồn vía, muốn lạy dài nhờ ơn cứu mạng nhưng vốn bản chất quan liêu còn quá nặng không chịu nhún mình năn nỉ, đưa tay chỉ mặt chàng nói rằng:
- Nếu ta bỏ mạng thì quyết không để mi sống sót. Thà cả hai cùng thác một lần, phen này ta quyết thí mạng cùng mi.
Nói rồi xông đến toan hành hung.
Vừa lúc ấy một giọng quát lanh lảnh từ bên ngoài vọng vào:
- Thằng Mông-Cổ khốn nạn Gia-luật-Tấn kia, quan gia chi mi mà múa mỏ. Biết điều mau mau ra đây nộp mạng cho rồi.
Viên quan ấy vừa nghe gọi tên mình vừa quay đầu ngó ra bỗng đâu có từng loạt ám khí từ ngoài cửa sổ bắn vào ào ào như mưa tuôn gió thổi.
Trước một cơn mưa ám khí ào ạt bay mau như chớp nhoáng viên quan này dẫu có tài giỏi bao nhiêu cũng khó bê tránh khỏi.
Tức thì Dương-Qua vung tay áp dụng thuật "mưa hoa khắp trời" một tuyệt kỹ trong "Ngọc nữ tâm kinh" đánh bạt bao nhiêu ám khi rơi xuống đất leng keng như một đám đinh, cứu thoát được mạng hắn.
Ngay lúc đó bên ngoài có tiếng người nói:
- Khá lắm, các hạ tài nghệ quá đáng phục, vậy xin hẹn gặp gỡ một ngày gần đây. Bây giờ xin tạm biệt.
Kế đó có tiếng lanh lảnh của một nữ lang bảo nhỏ:
- Thôi chúng ta đi cho rồi.
Dương-Qua cười lớn:
- Kẻ nào có giỏi thì vào đây, xuất đầu lộ diện, trình bày tên họ xem nào. ẩn nấp như vậy đâu phải là hào hiệp.
Chẳng có tiếng người đáp lại, kế đó trên mái ngói nghe rào rào, hình như có ba người từ cửa sổ phi thân lên nóc nhà chạy đi nơi khác.
Dương-Qua lắng tai nghe tiếng chân bước trên mái ngói có vẻ nặng nề, nên nghĩ bụng:
- Đây là những hạng tầm thường võ công còn thấp kém, chẳng thèm để ý làm chi cho bận lòng.
Cũng nên nói thêm về thuật "mưa hoa khắp trời". Đó là một phương pháp tuyệt diệu dùng ám khí. Người giỏi thuật này có thể đồng thời tung ra thật nhiều ám khí để đánh rơi những ám khí của đối phương. Đây chỉ là một ngón bí truyền trong "Ngọc nữ tâm kinh" mà Dương-Qua đã học được trên võ lâm chưa một kẻ nào biết đến.
Ngoài ra, Dương-Qua đã luyện đến mức tinh diệu hơn là một tay phóng ra, một tay có thể thu hồi ám khí trở lại được.
Mấy lúc nay tuy đã tập luyện tinh thục nhưng Dương-Qua chưa bao giờ đem ra thực hành. Hôm nay vì thấy đối phương ném vào quá nhiều ám khí nên chàng phải buộc lòng thí nghiệm lần đầu tiên. Không ngờ kết quả đạt được đã ngoài sức tưởng tượng.
Tuy thích chí về sự thành công của thuật này nhưng Dương-Qua sực nghĩ lại và trong lòng rất áy náy. Chàng nghĩ.
- Quan quân Mông Cổ đứa nào cũng là phường hại dân cướp nước. Hôm nay có người muốn giết nó thì kẻ này nếu không người đông đạo, ít ra cũng là hạng yêu nòi thương nước. Ta vì hăng hái nhất thời đã đánh lại người đồng ý chí để cứu bọn Mông Cổ, quả thật là bậy.
Viên quan này đâu biết ám khí của ai, thấy Dương-Qua vung tay thì cứ đinh ninh rằng chàng cố hạ mình nên tức giận cúi xuống lượm những mũi phi tiêu, tên sắt, đạn, rơi rớt khắp nền nhà, nhắm người Dương-Qua liệng đại.
Dương-Qua khinh thường không tránh né, ngồi yên đưa tay bắt hết không sót một mũi nào. Khi Gia-luật-Tấn dừng tay, chàng hét lớn:
- Hãy coi chừng kẻo chết đấy.
Tức thì hàng mấy chục thứ ám khí đủ loại như phi đao, thiết tiễn, thiết đạn, kim tiêu, loang loáng như sao sa, bay vun vút về phía Gia-luật-Tấn, chỗ nào cũng có.
Gia-luật-Tấn quá hoảng hốt lật đật co giò nhảy trái ra sau, va lưng vào vách một tiếng ầm, đứng khựng lại đó không cử động nổi. Y len lét đưa mắt nhìn lại thấy bao nhiêu ám khí đếm ghìm chặt vào vách, sát bên da mình, nên kinh hoàng vội nghĩ:
- Trời ơi, người này tài quá! Nếu va cố tình giết ta thì đâu có khó gì. Chỉ xem vị trí các ám khí cũng đủ thấy mạng mình tùy thuộc nơi va rồi.
Nghĩ xong, y để nguyên mũ áo, sụp xuống sáp đất lạy dài, miệng nói:
- Người thật là bậc anh hùng quán thế. Tôi xin hoàn toàn bái phục.
Dương-Qua tuy bản lãnh cao cường, nhưng từ bé đến lớn trải qua nhiều cảnh đoạn trường, chỉ bị hà hiếp bức sách hơn là được ca ngợi tán tụng. Hôm nay bỗng nhiên được một quan viên cao cấp lay mình sát đất và ngỏ lời khen tặng thì thấy phơi phới trong lòng, cất tiếng cười khoan khoái lắm.
Gia-luật-Tấn lễ phép hỏi:
- Xin đại nhân cho biết quý tánh đạo danh để nhớ ơn muôn thuở.
Dương-Qua đáp:
- Tôi họ Dương tên Qua. Ông có phải tên thật là Gia-luật-Tấn hay không? Hiện nay ông đang giữ chức tước gì của triều đình Mông-Cổ.
Nguyên Gia-luật-Tấn là con trai của Gia-luật-Sở-Tài, đương kim Thừa tướng của vua Mông Cổ.Gia-luật-Sở-Tài đã có công giúp vua Thái-Tồ nhà Nguyên là Thành-Cát-Tư-Hãn, và sau giúp vua Nguyên-Thái-Tôn là Oa-Khoát-Thai, thứ nam của Thành Cát-Tư-Hãn, chiến công hiển hách, vang danh thiên hạ suốt hai trào.
Gia-Luật-Tấn nhờ oai danh của phụ thân cho nên mặc dầu còn trẻ tuổi đã được làm chức Biện-Lương Kinh-Lược-Sử. Hôm nay Gia-Luật-Tấn lên đường đi Biện-Lương, thuộc xứ Nam-Hà để phó nhiệm.
Y lần lượt kể hết gốc tích của mình cho Dương-Qua nghe.
Dương-Qua xuất thân hàn vi, từ nhỏ đến lớn trong núi học võ, đâu có am hiểu ngoài đời, cho nên chẳng hiểu chức Biện Lương Kinh-Lược-Sứ là chức chi, lớn hay nhỏ, nhưng vẫn làm bộ thạo đời, gật gù lia lịa, miệng khen:
- Hay lắm, tốt lắm!
Gia-Luật-Tấn lễ phép hỏi:
- Thưa Dương anh-hùng, chẳng hay kẻ hạ quan này có làm điều chi xúc phạm đến Dương anh-hùng, xin vui lòng chỉ dạy cho.
Dương-Qua cười dài đáp:
Chẳng có gì xúc phạm hết.
Nói dứt lời đã lao mình qua khung cửa sổ đi mất.
Gia-Luật-Tấn vội vàng chạy theo kêu với thật lớn:
- Dương anh-hùng sao mà gấp vậy?
Nhưng tiếng gọi vang đi không lời đáp lại. Hình bóng Dương-Qua đã biến mất trong bóng tối của màn đêm.
Gia-Luật-Tấn vừa ngạc nhiên vừa lo lắng, băn khoăn suy nghĩ:
- Người này đi đâu không chừng, gốc gác chẳng rõ, không biết vì sao đến đây? Bây giờ bỏ đi rồi, làm sao chữa cho hết chất độc của kim châm đang thấm vào cơ thể của mình đây. Thật là nguy hiểm quá!
Đang vẩn vơ lo nghĩ bỗng có hai bóng hiện ra trên cửa sổ. Dương-Qua đã trở lại, có dắt thêm một người nữa.
Gia-Luật-Tấn mừng như người bắt được của, hớn hở nói:
- May quá ngài đã trở lại. Tôi đang nóng ruột chờ ngài đây.
Dương-Qua chỉ Lục-vô-Song giới thiệu:
- Đây là người chị dâu của tôi. Ông xem có hạp nhãn không?
Lục-vô-Song xấu hổ nạt lớn:
- Sao ăn nói bậy bạ vậy?
Vừa nói nàng vừa đưa tay tát mạnh vào miệng Dương-Qua.
Chàng không tránh né, đứng yên hứng nhận cái tát nghe bốp một tiếng, in dấu bàn tay rõ ràng lên mặt.
Gia-luật-Tấn chưa biết giữa hai người ai hơn ai kém, nhưng có lẽ nàng này có bản lãnh hơn nên mới hành động lỗ mãng như vậy. Y cứ đứng nhìn hai người không dám nói năng một lời nào.
Đến đây, chúng ta cũng cần biết nguyên nhân nào đã thúc đẩy các đồ đệ của môn phái Toàn-Chân phải đấu bước giang hồ.
Số là, Xích-Luyện Tiên tử Lý Mạc Thu từ khi đả thương một số người ở miền Giang-Nam, Hồ-Châu, tự thấy mình kết oán, gây thù sâu sắc, nên chuyển bước sang đất Sơn Tây. Tại đây, Lý Mạc Thu vẫn không bỏ tánh háo chiến. Nàng đả thương một số anh hùng hào kiệt ở Tấn Bắc, làm cho các thủ lãnh trong giới giang hồ đều căm phẫn. Họ kêu gọi các môn phái hợp tác nhau để khử trừ cho được Lý Mạc Thu.
Toàn-Chân là một môn phái có hạng trong thiên hạ, bấy giờ do Mã-Ngọc, Khưu-xứ-Cơ lãnh đạo. Hai vị nầy thấy Lý Mạc Thu lắm điều tội lỗi, song khổ nỗi nàng lại ở trong môn đồ của Vương-trùng-Dương vị Tổ sư của họ, nên chẳng biết làm thế nào hơn là đóng vai trò trung gian hòa giải, tìm cách cho Lý Mạc Thu cải tà quy chánh.
Bây giờ, Lưu-xứ-Huyền và Tòa-bất-Nhị liên hiệp nhau ở phía Bắc. Lý Mạc Thu chẳng kể ai vào đâu cả, coi đời bằng khóe mắt, nghe tin họ liên hiệp để chống lại mình, liền mò đến đánh. Trước sau Lý Mạc Thu đã hạ Lưu và Tôn hai trận liên tiếp.
Sau này Khưu-xứ-Cơ và Vương-xứ-Nhất, hai tay cao cường trong Toàn-Chân phải đến ứng chiến. Lý Mạc Thu khôn ngoan tự thấy một mình không thể đánh nổi số đông, liền dùng lời lẽ ôn tồn làm cho Khưu và Vương bị khích động không thể tham chiến. Nàng hẹn với Khưu và Vương sẽ tỉ thí với nàng ở một nơi khác.
Ngày thứ nhất, tỉ thí với Tôn-bất-Nhị, Lý Mạc Thu
đã dùng kim độc phóng vào huyệt "thân thượng" của đối phương. Sau đó nàng lại cho người mang thuốc đến giải trừ.
Hành động ấy khiến cho Khưu-Vương hai người không rõ tâm tánh của Lý Mạc Thu ra sao cả.
Phàm trong nguyên tắc võ lâm, kẻ đã cứu đối thủ không thể coi như kẻ thù được.
ấy vậy các tay thủ lãnh đến hợp tác với Tôn-bất-Nhị thấy vậy đều mỉm cười chua chát rồi rút lui không tham chiến nữa.
Cũng may, Khưu-xứ-Cơ và Vương-xứ-Nhất tự thấy mình chưa phải là lúc ứng chiến với Lý Mạc Thu nên mới trở về kịp Trùng-Dương-cung cứu nguy cho Xích-đại-Thông.
Nhắc lại, Tiểu-long-Nữ lúc ra khỏi Trùng-Dương điện, một tay bồng xác Tôn bà một tay bồng Vương-Qua, khinh thân thẳng về Hoạt-tử-Nhân mộ đài một mạch.
Nàng đặt xác Tôn bà lên giường nàng ngủ thường ngày, còn nàng thì ở trên ghế trường kỷ chống tay thẫn thờ suy nghĩ.
Dương-Qua ôm xác Tôn bà khóc sướt mướt không thôi. Một lúc lâu Tiểu-long-Nữ mới nói:
- Đàng nào Tôn bà cũng đã chết, khóc mãi chẳng ích gì? Bây giờ mi khóc Tôn bà như thế, ngày mai mi chết có ai khóc cho mi chăng?
Nghe Tiểu-long-Nữ nói những câu lạnh nhạt như vậy, Dương-Qua không hiểu gì cả buồn rầu hơn, và càng khóc to hơn nữa!
Tiểu-long-Nữ nói:
- Thôi ta đi an táng Tôn bà đây. Mi hãy theo ta.
Nói dứt lời, nàng bước đến bồng xác Tôn bà đi về phía Tây. Dương-Qua lấy vạt áo chùi nước mắt bước theo.
Đường trong mộ đài tối lờ mờ, ánh sáng bên ngoài rọi vào yếu ớt. Dương-Qua phải chú mục vào màu trắng của xiêm y Tiểu-long-Nữ để nối gót.
Hai người đi quanh co một lúc thì đến một con đường hầm tối đen như mực. Con đường hầm đó dẫn đến một cánh cửa bằng đá Tiểu-long-Nữ đưa tay đẩy cánh cửa thì bên trong lộ ra một căn phòng cũng bằng đá, và tối om. Nàng rút trong bọc ra lấy một viên đá lửa đập vào một tảng đá. Bùi nhùi nàng đã chuẩ bị sẵn. Lửa bén vào, cháy bùi nhùi tỏa ánh sáng tạo thành một màu kinh dị.
Tiểu-long-Nữ thắp một ngọn đèn dầu đặt giữa căn phòng.
Nhìn bốn phía Dương-Qua cảm thấy trong người ớn lạnh.
Đó là một căn phòng rộng, trống rỗng, trơ trọi có năm cái quan tài bằng đá.
Nó nín hơi lấy can đảm đưa mắt nhìn về năm cỗ quan tài ấy thì thấy hai cái đã có nắp đậy kín, còn ba cái nắp đậy hở.
Nó ngơ ngẩn tự hỏi:
- Chẳng biết trong ba cỗ quan nắp hở nầy đã có xác người chết hay chưa.
Tiểu-long-Nữ đưa tay chỉ chiếc quan tài bên trái nói:
- Sư phụ phu nhân an giấc ở chỗ này.
Rồi nàng lại chỉ vào cái quan tài bằng đá thứ hai, nói:
- Còn sư phụ an giấc ngàn thu ở chỗ này đây.
Tiếp đó, nàng lại đưa tay chỉ vào chiếc quan tài thứ ba.
Dương-Qua lòng ngờ ngợ, chẳng biết Tiểu-long-Nữ sẽ bảo ai an giấc trong đó. Nhìn nắp quan tài chưa đậy, nó chẳng biết có xác chết nào trong đó chưa.
Bỗng nghe Tiểu-long-Nữ nói:
- Tôn bà an giấc trong cỗ quan tài nầy.
Nó đánh thót người nhẹ nhõm và tìm hiểu rằng: "những chiếc quan tài chưa đậy nắp là chưa có người chết".
Trí tò mò của nó lại nổi dậy, nó nhìn Tiểu-long-Nữ hỏi:
- Thưa cô nương, còn hai cỗ quan tài không kia nữa.
Tiểu-long-Nữ thản nhiên đáp:
- Một cái dành cho sư tỉ của ta là Xích-Luyện tiên tử Lý Mạc Thu.
Dương-Qua ngẩn người hỏi:
- Lý cô nương cũng lại về đây an giấc sao?
Tiểu-long-Nữ đáp:
- Sư mẫu ta đã dự liệt trước, sư tỉ rồi thế nào cũng phải về.
Dương-Qua lại hỏi:
- Còn một cỗ quan tài nữa?
Tiểu-long-Nữ nói:
- Cỗ quan tài đó dành cho ta. ở đây còn thiếu một cỗ quan tài nữa chỉ vì sư mẫu ta không dự liệu được rằng mi sẽ đến đây.
Nghe nói vậy, Dương-Qua giật mình. Tự nhiên bản tính "uý tử cầu sinh" nổi dậy, nó hoảng hốt đáp:
- Cô nương ơi! Tôi không chết nơi đây đâu! Tôi không muốn chết!
Tiểu-long-Nữ nghiêm nét mặt nói:
- Ta nhớ lời dặn của Tôn bà là sẽ chăm lo săn sóc đến mi trọn đời. Lời hứa ấy ta chẳng dám sai.
Dương-Qua lạnh toát cả mình, nhất là trước căn phòng âm u với năm cỗ quan tài ấy, làm cho nó ám ảnh một mối buồn rùng rợn.
Nó nói rối rít:
- Nếu cô nương không bằng lòng để tôi đi thì lúc cô nương chết rồi tôi cũng tìm cách ra khỏi chốn nầy.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Ta đã bảo theo lời trăn trối của Tôn bà, ta phải lo liệu cho mi trọn đời, thì có bao giờ ta để cho mi chết sau ta?
Dương-Qua lấy làm lạ hỏi:
- Tại sao vậy? Cô nương nhiều tuổi hơn tôi mà!
Tiểu-long-Nữ lạnh lùng đáp:
- Chết sống không cần phải ít hay nhiều tuổi. Phỏng sử ta có chết trước mi ta cũng tìm cách cho mi được chết theo.
Dương-Qua tuy còn nhỏ tuổi song tâm cơ đã có nhiều mưu trí. Mặc dù vậy, những mưu trí có hay đến đâu cũng chỉ là mưu trí của trẻ con.
Khi nghe Tiểu-long-Nữ nói như vậy, tâm trạng chống đối lại âm thầm nổi đậy trong đầu óc nó.
Nó nghĩ thầm:
- Tại sao lại buộc ta phải chết, mà phải chết nơi đây? Nhưng cái chết cái sống hãy còn xa vời, ta có đủ thì giờ để đối phó.
Tiểu-long-Nữ thấy nó thẫn thờ suy nghĩ hiểu ngay tâm trạng của nó, liền bước đến giờ nắp quan tài, đặt xác Tôn bà vào trong.
Dương-Qua chợt nhớ đến lời trăn trối của Tôn bà: "Mi hãy lấy chiếc áo bông phủ ngoài của ta. áo này..."
Nó vùng đứng dậy, chạy đến bên Tiểu-long-Nữ, nói:
- Thưa cô nương! Theo lời trăn trối xin cô nương cho tôi chiếc áo bông ngoài của Tôn bà.
Tiểu-long-Nữ không muốn cho người bên mình phải buồn phiền, lại thấy Dương-Qua với Tôn bà quen biết mới trong ngày mà tình quyến luyến đã sâu đậm, nên cởi chiếc áo bông ngoài của Tôn bà trao cho Dương-Qua.
Dương-Qua cầm lấy chiếc áo khóc nức nở, nghĩ đến lời trăn trối của Tôn bà, mặt mày nó đau đớn như mất một người thân.
Tiểu-long-Nữ thừa lúc nó gục mặt xuống khóc, lấy tay kéo nắp quan tài đậy kín lại khít rịt, không khí không còn ra vào được nữa.
Tiểu-long-Nữ sợ Dương-Qua lại khóc nữa, liếc mắt nhìn nó một chút, rồi nhìn lãng sang chỗ khác nói:
- Thôi! Hãy theo ta ra ngoài.
Dứt lời, nàng lấy vạt áo quạt một cái, ngọn đèn dầu tắt, căn phòng rộng lớn bao la bỗng trở nên tối đen như mực.
Dương-Qua sợ nàng bỏ rơi nó lại trong căn phòng mộ địa này vội vàng vớ chiếc áo bông của Tôn bà mà theo luôn Tiểu-long-Nữ bước ra.
Trong mộ đài, ngày cũng như đêm bóng tối đen ngòm.
Vì hai người đã hoạt động hơn nửa ngày, nên ai cũng có cảm giác mệt mỏi. Tiểu-long-Nữ ra lệnh cho Dương-Qua ngủ ở căn phòng mà bình sinh Tôn bà dùng làm chỗ nghỉ ngơi.
Dương-Qua từ tấm bé, tuy đã trải qua những lúc quạnh hiu cô độc, đã từng ngủ ở đầu hè, xó chợ, đã từng ngủ nơi núi rậm, rừng sâu, song đối với mộ đài nầy như cái gì rùng rợn oai nghiêm làm cho nó muốn rỡn óc. Nó không dám tuân lời của Tiểu-long-Nữ.
Thấy như nó không để ý đến lời mình, Tiểu-long-Nữ nhìn nó hỏi:
- Mi không nghe ta nói gì sao?
Dương-Qua thưa:
- Thưa cô nương, tôi sợ...
Tiểu-long-Nữ hỏi:
- Sợ cái gì?
Dương-Qua thở dài đáp:
- Tôi cũng không hiểu nữa... Tôi không dám ngủ một mình.
Tiểu-long-Nữ nghĩ thầm:
- "Tuổi nó hãy còn nhỏ, nó sợ sệt cũng phải".
Nàng suy nghĩ một lúc rồi thở dài, khẽ nói:
- Được, cứ theo ta vào đây mà ngủ.
Rồi nàng dẫn Dương-Qua vào phòng nàng. Nàng thường có thói quen không thắp đèn, nhưng nay có Dương-Qua, nàng thắp lên một ngọn đèn dầu nhỏ.
Dương-Qua thấy Tiểu-long-Nữ dung mạo mỹ miều, không gì sánh kịp, trong bộ y phục trắng như tuyết không vướng chút bụi trần, ngỡ rằng khuê phòng nàng hẳn trần thiết cực kỳ diễm ảo. Nào ngờ lúc bước vào phòng thì thực là thất vọng. Phòng xây bằng đá trống rỗng, không có gì cả, chẳng khác gì căn phòng có năm cỗ quan tài kia. Giường nàng là một phiến đá xanh dài có trải thảm bằng cỏ, trên phủ một lần vải thô. Ngoài mấy thứ ấy ra, căn phòng chẳng còn có gì khác.
Dương-Qua nghĩ bụng:
- Chẳng biết nàng cho mình nghỉ ở đâu nhỉ! Có lẽ nàng bắt mình nằm dưới đất là phải.
Đang lúc nó phân vân chưa kịp hỏi thì Tiểu-long-Nữ cất tiếng bảo:
- Mi leo lên giường nằm ngủ đi.
Dương-Qua hỏi:
- Thế thì cô nương ngủ ở đâu?
Tiểu-long-Nữ nghiêm nghị nói:
- Ta đã có chỗ khác, mi khỏi phải lo.
Dương-Qua nói:
- Ngủ trên giường bất tiện, xin cô nương cho tôi ngủ dưới đất cũng được.
Tiểu-long-Nữ nghiêm sắc mặt nói:
- Ta là bậc sư phụ mi, ta nói gì mi cũng phải nghe. Mi đừng quen thói đánh lại sư phụ như ở bên Trùng-Dương cung mà mất mạng đó.
Dương-Qua thấy Tiểu-long-Nữ dùng lời gay gắt, vội nói:
- Xin cô nương đừng giận dữ như thế. Tôi chỉ cần vâng theo lời cô nương là được chứ gì?
Tiểu-long-Nữ thấy giọng nói của Dương-Qua có vẻ không tôn kính mình nên không vừa ý, nói:
- Mày bướng bỉnh phải không?
Dương-Qua thấy nàng còn ít tuổi lại đẹp đẽ mỹ miều, không có vẻ gì đang bậc sư phụ mình, nên nó chép miệng một cái, rồi nói:
- Tôi đâu dám chẳng tuân lời...
Tiểu-long-Nữ thấy Dương-Qua chép miệng, đoán được ý nó, hét:
- Tại sao mi có cử chỉ khinh thường ấy. Mi không phục ta phải không?
Dương-Qua thấy Tiểu-long-Nữ làm dữ, không dám nói nữa vội tuột hài, nhảy phóc lên giường nằm.
Nằm được một lúc, nó cảm thấy lạnh buốt xương, vội chồm dậy, tụt xuống đất la lớn:
- Lạnh quá! Lạnh chết đi thôi!
Tiểu-long-Nữ không nhịn được cười, chạy đến phía sau vách lấy chiếc phất trần chỉ vào mặt nó:
- Ta bảo mi phải nằm lên đó, và ngủ đi. Nếu còn rên rỉ than lạnh ta đánh cho mười roi nầy.
Dương-Qua thất kinh, vội leo lên giường nằm nữa, lần nầy nó cố chịu đựng, nhưng lạ thay, sức lạnh từ đâu xông vào người nó, làm cho nó tê cứng cả người, hai hàm răng đánh vào nhau cầm cập.
Tiểu-long-Nữ lấy chiếc áo bông của Tôn bà để vào một nơi khiến Dương-Qua không rờ tới.
Lạnh quá, nhưng Dương-Qua sợ đánh đòn không dám tuột xuống như lần trước nữa, ré lên:
- Ôi chao! Cô nương ơi!
Tiểu-long-Nữ mỉm cười hỏi:
- Cái gì thế?
Dương-Qua nói:
- Ôi chao! Chiếc giường nầy như có gì kỳ lạ! Tôi không thể nằm được lâu.
Rồi nhìn thấy nét mặt tươi cười của Tiểu-long-Nữ, Dương-Qua cho rằng nàng đã sung sướng trước cái đau khổ của nó, nó nổi giận nói:
- Tôi không muốn nằm nơi đây nữa đâu. Cô nương cho tôi nằm dưới đất mà thôi.
Tiểu-long-Nữ giơ chiếc phất trần trước mặt nó nói:
- Hãy nằm im và ngủ. Trái lời, mi đừng trách ta độc ác.
Dứt lời, nàng rút hai sợi dây cột vào kẹt đá, leo nằm lên hai sợi dây đó, rồi lấy tay vẫy một cái, ngọn đèn phụt tắt.
Trong phòng tối mịt, Dương-Qua lấy làm lạ:
"Tại sao nàng lại có thể nằm ngủ lơ lửng trên hai sợi dây như thế nhỉ?" Nó bắt đầu khâm phục tài nghệ của Tiểu-long-Nữ, và hỏi:
- Thưa cô nương, cô nương có thể dạy tôi nằm ngủ như thế chăng?
Bản tính con nít dễ giận mà cũng dễ làm thân. Nó vừa có ác cảm với Tiểu-long-Nữ, bây giờ thấy Tiểu-long-Nữ vui vẻ, nó lại cảm mến ngay.
Tiểu-long-Nữ thấy tánh nết trẻ con của nó cũng tức cười. Nàng nói:
- Dạy mi nằm ngủ như thế nầy để làm gì? Ta còn lắm điều phải chỉ dạy cho mi.
Câu nói ấy làm cho Dương-Qua đoán biết Tiểu-long-Nữ không có ác ý với nó, mà chỉ muốn dạy dỗ nó thôi. Nó hối hận cất tiếng nói:
- Thưa cô nương! Cô nương có thể cho tôi biết những điều mà cô nương sắp dạy bảo tôi chăng? Lúc nãy tôi có lỗi với cô nương.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Ta biết rồi! Tự nhiên mi oán ta! Điều đó có gì lạ!
Dương-Qua vội nói:
- Không, không! Tôi đâu dám oán giận cô nương. Lúc nãy tôi cứ tưởng cô nương cũng như sư phụ trước của tôi, cứ hành hạ tôi mà không truyền dạy cho tôi gì cả.
Tiểu-long-Nữ cười lạt nói:
- Mi trách sư phụ trước của mi không dạy dỗ cho nên mi oán hận. Bây giờ ta dạy dỗ sao mi cũng oán hận?
Dương-Qua nói:
- Chỉ vì cô nương cũng hành hạ tôi, bắt tôi nằm trên chiếc giường giá lạnh này.
Tiểu-long-Nữ nói:
- à ra mi cho thế là ta đã hành hạ mi ư? Ta thiết tưởng suốt đời mi nên tìm cái cực nhỏ như vậy để nên người.
Dương-Qua trố mắt nhìn Tiểu-long-Nữ hỏi:
- Thế thì sống để chịu cực hình sao?
Tiểu-long-Nữ nói:
- Các cực hình ấy sẽ đem lại cho mi biết bao điều hay!
Dương-Qua mới hiểu ra, hỏi:
- Thưa cô nương, chiếc giường lạnh nầy có gì bí quyết ư?
Tiểu-long-Nữ nói:
- Những tay võ nghệ cừ khôi trong thiên hạ chưa chắc đã nằm nổi trên chiếc giường này. Nhưng thôi, việc đó mi sẽ hiểu sau, bây giờ mi phải nhắm mắt ngủ đi, không được nói nữa.
Trong căn phòng tối om, Dương-Qua chỉ nghe giọng kêu cót két của hai sợi dây mà Tiểu-long-Nữ dùng làm võng.
Sau câu nói như ra lệnh của nàng, Dương-Qua không dám hỏi nữa, song nó không làm sao ngủ được. Chốc chốc nó lại xuýt xoa vì lạnh.
Một lúc lâu nó cất tiếng khẽ nói:
- Cô nương ơi! Tôi không chịu nổi sự lạnh nầy nữa.
Không nghe tiếng Tiểu-long-Nữ đáp lại, nó lắng tai nghe thì thấy hơi thở của nàng đều đều và chậm lại.
Nó đoán chừng Tiểu-long-Nữ đã ngủ, nó nghĩ bụng:
- Cô nương đã an giấc, vậy ta xuống đất một chút cho đỡ lạnh cũng chẳng sao.
Nghĩ vậy nó rón rén tụt xuống giường, không dám thở mạnh.
Nào ngờ nó vừa bước chân xuống đất thì một tiếng đàn cầm vang lên. Tiểu-long-Nữ từ trên dây nhảy xuống một tay vớ cây phất trần, một tay thộp vào cổ nó, quất mấy cái vùn vụt nói:
- Mi dám trái lời ta sao! nếu còn lừa dối ta sẽ đánh đến chết.
Nàng đánh đủ mười roi khiến Dương-Qua đau tím ruột.
Nó lồm cồm lên giường nằm trở lại không dám động đậy.
Tiểu-long-Nữ ngỡ là sau trận đòn thế nào Dương-Qua cũng khóc và oán trách nàng. Nhưng thấy nó nằm im thin thít không hề than thở gì cả. Tiểu-long-Nữ lấy làm lạ gọi nó hỏi:
- Dương-Qua tại sao mi nằm im thế?
Dương-Qua thỏ thẻ:
- Cô nương bảo sao làm vậy. Cô nương bắt nằm là phải nằm, bảo đánh thì đánh, thế thì khóc lóc ích gì?
Tiểu-long-Nữ nói:
- A! Thế ra mi nằm im để hờn dỗi ta phải không?
Dương-Qua nói:
- Tôi chẳng bao giờ hờn cô nương. Tôi đã thấy lòng cô nương thương mến tôi rồi.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Ai bảo mi thế?
Dương-Qua nói:
- Cô nương đánh tôi, nhưng thực ra cô nương không đánh mạnh. Như vậy không phải vì cô nương sợ tôi đau sao.
Thật vậy, Tiểu-long-Nữ đánh Dương-Qua là để bắt nó thi hành theo lệnh mình. Vì vậy nàng chỉ đánh mạnh hai roi đầu, còn mấy roi sau chỉ đánh cho đủ số.
Tiểu-long-Nữ thấy Dương-Qua ranh mãnh, tìm hiểu được dụng ý của mình, liền hét lớn:
- Đừng tưởng lầm! Nếu lần sau mi còn trái lệnh ta sẽ đánh đến thối thịt đó.
Dương-Qua thấy lời nói nàng tuy hăm dọa nhưng có âu yếm, lòng hớn hở nói:
- Dù cô nương có đánh đến tan xương nát thịt tôi vẫn vui lòng.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Ta chỉ sợ rồi đây với tánh ương ngạnh, rắn mắc của ngươi, ngày nào cũng bị đòn là khác.
Dương-Qua nói:
- Tôi chỉ ghét và thù hằn những người đánh tôi với ác ý. Còn như cô nương vì thương tôi mà đánh, tôi đã không giận mà lại còn sung sướng hơn nữa. Cô nương thuộc vào những người tôi thương.
Tiểu-long-Nữ nghe nó nói, mỉm cười, hỏi:
- Mi thử kể ta nghe ai là người mi ghét? Ai là người mi thương.
Dương-Qua nói:
Những người tôi ghét tôi không thèm nhớ đến làm chi. Còn những người tôi thương như mẹ tôi thì đã chết mất rồi. Âu-dương-Phong là cha nuôi tôi, rồi đến Quách-Tỉnh và sau nữa là Tôn bà và cô nương.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Ta đã làm gì mà mi thương ta?
Dương-Qua nói:
- Vì cô nương đã thương tôi.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Chưa chắc ta đã thương mi. Chỉ vì Tôn bà dặn ta săn sóc mi thì ta phải làm tròn lời hứa. Còn việc ta thương mi, mi chớ vọng tưởng.
Câu nói của Tiểu-long-Nữ như một gáo nước lạnh tưới vào mình Dương-Qua. Nó đang lạnh lại cảm thấy còn lạnh hơn. Nó nói như trách móc:
- Thưa cô nương! Chắc tôi có điều gì không tốt nên cô nương ghét tôi.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Mi tốt hay không, không quan hệ đến ta. Ta chưa hề biết ghét thương ai cả, suốt đời ta chỉ biết ngôi mộ đài nầy.
Dương-Qua hỏi:
- Thế ra từ lúc nhỏ đến giờ cô nương chẳng hề có một lần du ngoạn sao?
Tiểu-long-Nữ nói:
- Ta chưa hề ra khỏi Chung-Nam sơn nầy.
Dương-Qua vỗ tay lớn tiếng nói:
- Ôi chao! Thế thì uổng lắm! Cô nương không được thưởng thức bao nhiêu cảnh đẹp bên ngoài.
Tiểu-long-Nữ nói:
- ở ngoài bất quá cũng là rừng núi, trăng thanh, gió mát là cùng. Những cái đẹp đó nơi đây cũng có.
Dương-Qua nói:
- Nào phải có thế thôi! ở mộ đài tuy đẹp, song nhìn mãi cũng chán mắt. Còn cảnh đẹp bên ngoài biến ảo không cùng, mỗi nơi có cái đẹp mỗi khác, chẳng bao giờ làm cho ta chán được.
Rồi ngay lúc đó, Dương-Qua thuật lại cho Tiểu-long-Nữ nghe những chuyện xảy ra trong cuộc đời nó từ tấm bé, và những cảnh đẹp đó đây, mà vì hoàn cảnh nó đã trải qua.
Với tài ăn nói của nó, nó thêu dệt nhiều chỗ làm cho câu chuyện trở nên kỳ thú, lạ lùng.
Đối với Tiểu-long-Nữ, một cô gái từ tấm bé đến giờ chưa bước ra khỏi ngôi mộ, nào có hiểu đời là gì, nên dầu Dương-Qua có thêu dệt thế nào nàng cũng cho là sự thực.
Nghe Dương-Qua kể một lúc, nàng buông tiếng thở dài.
Dương-Qua nói:
- Thưa cô nương! Tôi muốn dẫn cô nương đi du ngoạn, cô nương có bằng lòng chăng?
Tiểu-long-Nữ có vẻ giận dữ, mắng:
- Mi đừng nói nhảm! Lời di huấn của tổ sư để lại rằng:
"Phàm người nào đã sống ở Hoạt-tử-Nhân mộ đài thì không được ra khỏi Chung-Nam sơn nửa bước".
Dương-Qua giật mình hỏi:
- Thế tôi cũng không được ra ngoài nửa bước sao?
Tiểu-long-Nữ đáp:
- Dĩ nhiên là thế.
Dương-Qua nghe nàng nói như vậy, nghĩ bụng:
- Té ra mình không thích cảnh tù túng ở đảo Đào-hoa, đem thân đến đây để bị giam hãm thì đời sống còn gì là vui nữa. Chẳng lẽ thân ta sống để chôn vùi trong mộ đài nầy sao?
Tuy nghĩ thế, song gần Tiểu-long-Nữ, Dương-Qua cũng cảm thấy không còn cô độc nữa. Dẫu có ở mãi trong mộ đài nó thấy cũng vui.
Trong lúc chuyện trò với Tiểu-long-Nữ, Dương-Qua quên cả lạnh. Đến khi Tiểu-long-Nữ không nói chuyện nữa, nó cảm thấy rét buốt tràn trề, liền nói:
- Cô nương có thể tha cho tôi khỏi nằm nơi giường đá nầy chăng?
Tiểu-long-Nữ nói:
- Mi có muốn cho các đệ tử môn phái Toàn-Chân tha cho mi đừng đánh mi nữa chăng?
Dương-Qua nói:
- Họ là những kẻ thù của tôi! Nếu họ giết tôi, tôi cũng không khi nào xin tha cả.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Như vậy sao mi nằm trên giường nầy lại than vãn.
Dương-Qua nói:
- Vì cô nương tốt với tôi! Cô nương không muốn cho tôi phải khổ cho nên tôi mới than vãn.
Tiểu-long-Nữ từ nhỏ nhờ ơn sư mẫu và Tôn bà nuôi nấng dạy dỗ, đã hai mươi năm trời chỉ biết sống gần hai người cao tuổi ấy mà thôi. Hai người nầy tuy đối với nàng thực là tốt, nhưng từ buổi nàng lúc còn nhỏ họ đã dụng ý đào luyện nàng thành một người mất cả thất tình: "hỉ, nộ, ái, ố, dục" để có thể nối dõi rèn luyện môn "Ngọc nữ tâm kinh" là ngón võ duy nhất và lợi hại nhất của Cổ Mộ đài.
Bởi vì muốn luyện "Ngọc nữ tâm kinh", điều căn bản trước tiên là phải cởi bỏ thất tình đi đã.
Ngày nay, Dương-Qua tới chốn này, mang vào đây những tình cảm nồng nhiệt của một thường nhân thật là trái mong muốn của các bậc tiền nhân trong mộ đài vậy.
Tiểu-long-Nữ từ khi thừa tiếp Dương-Qua đã rõ lẽ đó, song vì có lời Tôn bà, không dám làm khác hơn.
Dương-Qua thấy bề ngoài Tiểu-long-Nữ vẫn với thái độ lạnh lùng song bên trong không khỏi có tình cảm với nó. Nó nói:
- Ôi chao! Cô nương bắt tôi nằm đây lạnh quá có lẽ tôi hông còn chịu nổi nữa.
Thực ra, chiếc giường ấy lạnh lắm, song không đến nỗi làm cho Dương-Qua lồng lộn lên như thế. Một phần nào nó giả vờ để thử lòng Tiểu-long-Nữ đối với nó.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Mi đừng than vãn gì cả. Ta sẽ cho mi nghe sự ích lợi của chiếc giường nầy.
Dương-Qua nghe nói mừng quýnh hỏi vội:
- Hay lắm! Xin cô nương vui lòng cho tôi biết một chút. Vì đâu nó lại lạ lùng?
Tiểu-long-Nữ nói:
- Lúc nãy ta nói với mi là những khách anh hùng trong thiên hạ vị tất đã hiểu được cái huyền diệu của chiếc giường nầy. Tổ sư phu nhân ta đã phải mất bảy năm công trình lao tâm lao lực đến mãi tận miền băng tuyết đào hàng trăm trượng dưới đất sâu mới lấy được thứ ngọc lạnh nầy đem về luyện nội công. Nằm trên giường ngọc nầy luyện nội công trong một năm thì hiệu quả bằng mười năm.
Dương-Qua kinh ngạc nói:
- à ra lai lịch chiếc giường nầy là thế? Chiếc giường bằng ngọc mà tôi không biết cứ ngỡ là đá!
Tiểu-long-Nữ nói tiếp:
- Lúc đầu mi ngủ trên giường nầy thấy lạnh buốt không chịu nổi, phải vận dụng hết sức để kháng cự lại sức lạnh đó. Nhưng lâu ngày thành thói quen tự nhiên ngủ được. Ngay trong giấc ngủ, tự nhiên cơ năng vẫn vận dụng tình lúc để đề kháng. Như vậy là cơ năng suốt ngày đêm luyện tập không lúc nào nghỉ.
Theo người thường khi luyện nội công chỉ luyện lúc thức mà thôi, đến khi ngủ thì cơ năng trở lại bình thường. ấy vậy, họ tập được bao nhiêu thì phải phí đi một ít trong lúc nghỉ ngơi. Đằng nầy, chúng ta nhờ chiếc giường có thể luyện từ ban đêm, từ trong giấc ngủ. Suốt ngày đêm cơ năng luôn luôn tiến tới để chiếm đoạt sức đề kháng bên ngoài. Do đó nội công tiến bộ phi thường.
Dương-Qua vốn thông minh và lanh lợi nghe nàng nói đến đâu là lãnh hội đến đó.
Nó hỏi:
- Nhưng tại sao lại phải nằm trên chiếc giường lạnh buốt nầy?
Tiểu-long-Nữ đáp:
- Ta đã bảo rằng muốn luyện nội công tất cơ năng con người phải vượt qua sức uy hiếp của mãnh lực bên ngoài. Nằm trên giường tức là luyện cho sức nóng chống lại với lạnh. Lạnh mạnh quá, sức nóng phải thua chạy vào trong trở vào tiềm phục trong huyệt đạo của nó. Dần dần quen, thân thể người luyện tập hóa thành nước. Tiến hơn lên bước nữa, nước hoá thành băng tuyết so với sức lạnh của hòn ngọc chỉ mới một phần mười. Đại phàm tập luyện nội công là phải hàm súc chân hỏa không bao giờ để nó thoát ra ngoài sào huyệt của nó. Hàn ngọc là một vật chí âm. Lạnh nhiều tức cũng là hàm dưỡng sức nóng. Sức nóng đã được tập trung đến cực độ thì đến lúc vận dụng chân hỏa chúng ta sẽ đạt được một sức mạnh phi thường không gì sánh kịp.
Dương-Qua hiểu ra, sung sướng nói:
- Thưa cô nương, cô nương đối với tôi thật chí tình. Tôi đã được nằm trên giường nầy rồi chắc sau nầy không còn phải sợ một ai trong võ lâm nữa. Ngay như Quách, Hoàng tôi cũng chẳng sợ. Còn như Triệu-chí-Kính với sức nội công ấy chắc tôi sẽ đuổi kịp.
Tiểu-long-Nữ mỉm cười nói:
- Di huấn của Tổ sư phủ nhận chẳng cho một ai trong mộ đài này có tính hiềm khích. Muốn tập luyện mi phải bỏ hết thú hắn và ý nghĩ ganh đua mới được.
Dương-Qua nói:
- Tôi xin vâng lời cô nương. Tuy nhiên, tôi chẳng hiểu vì đâu bọn họ lại khi dễ tôi, ghen ghét tôi, họ lại dám đánh chết Tôn bà người tôi yêu quí. Cái chết của Tôn bà, cô nương cũng không cho phép tôi được thù hận họ sao.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Ai là người chẳng phải chết? Vì dù Tôn bà chẳng chết vì Xích-đại-Thông thì vài ba năm nữa cũng phải chết vì duyên cớ khác. Sống thêm ít năm hay chết trước ít năm nào có nghĩa lý gì. Ta không muốn rằng từ nay trở đi mi còn nói đến chuyện oán hận, phục thù...
Dương-Qua xem chừng lời nói ấy có lý lắm, song nó vẫn không khỏi thắc mắc trước hoàn cảnh của nó đã trải qua.
Tiểu-long-Nữ dò hỏi xem cha nuôi của nó là Âu-dương-Phong dạy nội công cho nó như thế nào.
Nó lần lượt kể lại sự thật tất cả. Tiểu-long-Nữ bảo nó áp dụng nội công của Âu-dương-Phong truyền dạy, xem có hiệu quả gì chăng.
Nó lấy gân suốt từ đầu đến chân nằm thẳng đờ trên giường đá lạnh buốt. Khí lực chuyển khắp nơi trong mình nó. Nó thấy khắp người nóng ran. Nó nằm nghiêng một phía mắt nhắm lại, cố mơ màng để ngủ.
Nhưng nó ngủ được một khoảng ngắn thì khí nóng trong người nó lại tiêu tan đâu mất. Cả người nó lạnh buốt như cũ.
Nó lại vận gân cốt nữa. Rồi cứ thế, ngủ và thức, nóng và lạnh cứ tiếp diễn mãi suốt đêm.
Tuy nhiên, đến sáng trong mình nó không chút mệt nhọc. Nó cảm thấy tinh thần thanh sảng vô cùng.
Tiểu-long-Nữ sờ trán nó, thấy nhiệt độ điều hòa lấy làm lạ tỉ tê hỏi nó.
Nó đem việc áp dụng phương pháp nội công của Âu-dương-Phong truyền dạy kể lại.
Tiểu-long-Nữ thầm nghĩ:
- Mỗi người có một lối tập luyện và phương pháp nào cũng lợi cả.
Nàng nghiền ngẫm lối nội công của thân mẫu Dương-Qua và lối nội công của Âu-dương-Phong rồi đem so sánh với lối tập luyện của nàng. Bấy giờ nàng không còn có ý khinh thường các môn phái khác nữa.
Sáng hôm ấy, hai người dùng cơm xong, Dương-Qua xuống dưới bếp rửa chén, và làm những việc thay thế Tôn bà.
Khi Dương-Qua trở lại phòng lớn, Tiểu-long-Nữ bảo nó:
- Ta có một điều cần hỏi mi. Vậy mi phải suy nghĩ kỹ càng trước khi trả lời mới được.
Dương-Qua thưa:
- Việc gì xin cô nương cứ dạy.
Tiểu-long-Nữ nói:
Mi muốn nhận ta làm thầy mi chăng? Và suốt đời mi có chịu nghe ta chỉ dạy chăng?
Dương-Qua không ngần ngừ đáp:
- Sao cô nương lại nói thế. Tôi nguyện sống với cô nương, nhờ cô nương, chỉ bảo mà.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Nếu mi không nhận ta làm thầy mà ta chỉ dạy cho mi sau nầy thế nào mi cũng bỏ ngôi mộ nầy mà đi.
Dương-Qua nói:
- Tôi xin nhận cô nương làm thầy. Dù cô nương không truyền cho tôi chút võ nghệ nào tôi vẫn coi cô nương như bậc sư phụ, lúc nào tôi cũng vâng theo lời cô nương không chút trái ý.
Tiểu-long-Nữ hỏi:
- Tại sao ta không truyền võ nghệ cho ngươi mà ngươi vẫn kính ta là thầy?
Dương-Qua nói:
- Thưa cô nương, lòng cô nương đối đãi với tôi như vậy lẽ nào tôi không biết.
Tiểu-long-Nữ tươi hẳn nét mặt, nói:
- Được, ta sẽ xem mi có thành thực với ta chăng? Mi có chịu nghe lời ta chăng? Mi đã nhận ta làm thầy vậy phải ra đằng sau làm lễ.
Dứt lời nàng bước ra phía phòng sau. Dương-Qua vội vã nối gót theo.
Đó là một căn phòng không trần thiết vật gì cả, ngoài hai bức chân dung treo ở vách tường.
Vách tường phía Tây treo một bức họa, vẽ hình hai thiếu nữ một người trạc độ hai mươi lăm tuổi, đang đứng trước gương chải đầu và sửa sang quần áo. Một người trạc độ mười sáu tuổi một tay đang cầm một cái bồn đứng hầu bên cạnh.
Người thiếu nữ nhiều tuổi lông mi dài đẹp, đôi mắt như có ẩn sát khí căm hờn.
Dương-Qua nhìn hai bức chân dung không hiểu gì cả.
Tiểu-long-Nữ đưa tay chỉ vào chân dung người thiếu nữ lớn tuổi nói:
- Đây là di ảnh sư tổ phu nhân. Mi phải quỳ xuống ra mắt.
Dương-Qua lấy làm lạ hỏi:
- Người ấy là sư tổ phu nhân sao? Tại sao lại ít tuổi như thế? Thưa cô nương.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Bức di họa đó về lúc sư tổ còn trẻ tuổi.
Dương-Qua nghe Tiểu-long-Nữ nói thế, lòng suy tư lẩm bẩm:
- Lúc còn trẻ... và sẽ già đi...
Nó ngắm bức tranh một hồi, chẳng biết nghĩ sao, nỗi buồn xâm chiếm tâm hồn nó, đôi dòng nước mắt chảy ra ràn rụa.
Tiểu-long-Nữ vô tình, không làm sao hiểu được mối cảm xúc của nó, lại chỉ vào bức chân dung thứ hai, nói:
- Đây là ảnh sư mẫu ta, mi phải quỳ xuống làm lễ.
Dương-Qua sụp lạy, nghĩ thầm:
- Sư tổ, sư mẫu đều ít tuổi cả, và ai cũng có sắc đẹp phi phàm. Chẳng hiểu đến lúc già, sắc đẹp họ ra sao nhỉ?
Tiểu-long-Nữ đợi Dương-Qua bái kiến xong, mới chỉ sang bức tường phía đông, nơi có treo một bức ảnh, nói:
- Mi hãy khạc nhổ vào hình đạo nhân này.
Dương-Qua liếc mắt nhìn thấy người đạo sĩ trong tranh dáng điệu cao lớn, lưng giắt thanh trường kiếm, tay phải đang chỉ về hướng đông bắc, lưng xây ra ngoài nên không trông rõ mặt.
Nó ngạc nhiên hỏi:
- Người ấy là ai? Vì sao phải khạc nhổ?
Tiểu-long-Nữ đáp:
- Đó là giáo chủ của môn phái Toàn-Chân tên Vương-trùng-Dương. ở đây đã có lệ, hễ làm lễ trước Tổ sư phu nhân xong rồi thì phải quay sang khạc nhổ vào bức hình đó.
Dương-Qua đã sẵn có thành kiến ghét môn phái Toàn-Chân, nên khi nghe nàng bảo, không ngần ngừ gì cả, liền khạc nhổ vào bức họa Vương-trùng-Dương một bãi rất lớn.
Đoạn nó hỏi:
- Thưa cô nương. Tổ sư phu nhân có gì oán hận Vương-trùng-Dương sao?
Tiểu-long-Nữ nói:
- Đúng vậy.
Dương-Qua nói:
- Thế sao không đem bức ảnh của hắn liệng quách ra ngoài rừng còn treo nơi đây làm gì?
Tiểu-long-Nữ nói:
- Ta cũng chẳng hiểu nữa, chỉ nghe thấy sư mẫu và Tôn bà bảo là những người đàn ông trong thiên hạ không ai tốt cả.
Nói đến đấy đột nhiên nàng nghiêm sắc mặt, quay nhìn Dương-Qua:
- Mai này lúc lớn lên, nếu mi có những điều xấu xa mi sẽ coi ta có tha thứ cho mi chăng?
Dương-Qua nói:
- Tuy nhiên cô nương sẽ tha thứ cho tôi.
Câu nói bất ngờ và đột ngột ấy của Dương-Qua làm cho Tiểu-long-Nữ chột dạ. Nàng vốn có tánh uy hách, muốn cảnh cáo Dương-Qua không ngờ Dương-Qua lại nói thế.
Nàng trừng trừng nhìn Dương-Qua bảo:
- Hãy quỳ xuống lạy sư mẫu của mi đi.
Dương-Qua nói:
Thưa cô nương! Việc quỳ lạy sư mẫu là việc dĩ nhiên rồi, tôi không thể nào từ chối. Song xin cô nương nhận cho đệ tử này một điều kiện đã.
Tiểu-long-Nữ nghĩ thầm:
- Xưa nay chỉ có bậc sư phụ mới buộc đệ tử điều kiện này điều kiện nọ chứ làm gì có chuyện môn đồ buộc sư phụ phải theo điều kiện.
Tuy nhiên, nàng vẫn trầm tĩnh muốn tìm hiểu ý muốn của hắn thế nào.
Nàng hỏi:
- Được. Mi muốn gì cứ nói, ta sẽ xét nghĩ cho.
Dương-Qua nói:
- Lòng tôi kính cô nương như sư mẫu. Cô nương dạy bảo tôi cũng nghe, không dám sai lời. Song cô nương cho phép tôi gọi bằng cô nương, không gọi bằng sư mẫu có được chăng?
Tiểu-long-Nữ hỏi:
- Như thế nghĩa là thế nào?
Dương-Qua thưa:
- Tôi đã có những người từng làm sư phụ tôi. Những người đó đều không tốt đối với tôi, nên lòng tôi oán hận lắm. Ngay cả trong giấc mơ tôi cũng nguyền rủa sư phụ tôi. Chẳng lẽ bây giờ tôi gọi cô nương bằng sư mẫu, cũng là bậc sư phụ, thì thế nào cũng sẽ lẫn lộn giữa người thương và kẻ ghét. Xin cô nương chăm chước cho tôi điều đó.
Tiểu-long-Nữ thấy Dương-Qua có ý nghĩ ngộ nghĩnh, mỉm cười, hỏi:
- Thế ra mi chỉ kính ta trong lòng thôi sao?
Dương-Qua nói:
- Không phải! Tôi kính cô nương cả trong lòng, ngoài mặt, và suốt đời, song chỉ không gọi là sư mẫu mà thôi.
Tiểu-long-Nữ vốn còn trẻ tuổi cũng chẳng cần tiếng gọi sư mẫu sớm, nàng gật đầu nói:
- Được, ta bằng lòng đó.
Dương-Qua mừng rỡ, tỏ vẻ cung kính, quỳ gối, vập đầu xuống đất nói:
- Được, ta bằng lòng đó.
Dương-Qua mừng rỡ, tỏ vẻ cung kính, quỳ gối, vập đầu xuống đất nói:
- Đệ tử Dương-Qua, tôi từ nay trở đi kính bái Tiểu-long-Nữ cô nương làm thầy. Kể từ đây tôi vĩnh viễn nghe lời cô nương. Nếu cô nương gặp điều gì hiểm nghèo cùng quẫn tôi sẽ đem cả tính mệnh ra để bảo vệ cô nương. Nếu có người nào làm nhục cô nương tôi quyết tâm giết hắn.
Thực ra, lúc đó Dương-Qua cũng chưa biết Tiểu-long-Nữ võ nghệ đến bực nào. Nó chỉ thấy Tiểu-long-Nữ là người trang nhã, kiều mị, khả ái, nên nó đem lòng kính mến, muốn được con người đẹp như thế bảo vệ cho mình, và nguyện đem thân để phụng sự người đẹp mà thôi. Đó cũng là bản tính tự nhiên của những chàng trai đối với phái nữ lưu vậy.
Lời nói của nó mỗi lúc một khẳng khái hơn, bộc lộ sự thành khẩn, làm cho Tiểu-long-Nữ không khỏi động tâm.
Dương-Qua vập đầu làm lễ xong, đứng dậy với nét mặt vui mừng hớn hở.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Mi quá nhiều thiện chí đối với ta. Ta chỉ sợ tài nghệ của ta không đủ cho lòng ngưỡng mộ của ngươi, không chắc đã thắng các vị lão thành trong môn phái Toàn-Chân và chưa chắc đã thắng nổi Quách-Tỉnh, sư bá của mi.
Dương-Qua nói:
- Những người ấy chẳng can hệ gì đến tôi. Họ có giỏi họ cũng chẳng truyền dạy cho tôi được chút nào. Xin cô nương cứ thương tình truyền dạy cho đệ tử là được.
Tiểu-long-Nữ thở dài nói:
- Dẫu ta có cố gắng truyền dạy cho mi thành tài thì cũng chẳng ích gì, vì suốt đời mi không được ra khỏi chốn nầy. Và ở nơi mộ đài nầy thực là vô sự.
Dương-Qua hỏi:
- Nếu học hành mà không đem tài năng thi thố với anh hùng thiên hạ thì chẳng uổng công tập luyện lắm sao?
Tiểu-long-Nữ trầm lặng, mắt mơ màng như nghĩ đến điều gì xa xăm, nàng nói:
- Ta dạy mi để mi trông coi mộ đài, để ta rảnh rang có dịp phải đi xuất du một lần.
Dương-Qua nghe nói đến việc phải ở trong mộ đài một mình, đâm ra lo sợ, nói như mơn trớn:
- Này cô nương! Hay là cả tôi lẫn cô nương, hai ta cùng đi nhé.
Tiểu-long-Nữ gườm vào mặt nó, nói:
- Mi đã thề vĩnh viễn nghe theo lời ta, sao mới đó đã trái ý?
Dương-Qua thở dài nói:
- Tôi sợ... lắm!
Tiểu-long-Nữ nghiêm sắc mặt bảo:
- Là tu mi nam tử, muốn trở thành bậc trượng phu mà lại sợ thì còn làm nên trò trống gì. Thế mà mi nói vì ta mi đánh những kẻ toan làm hại...
Câu nói ấy chạm vào lòng tự ái của đứa bé đã quyết tâm. Nó suy nghĩ một lúc rồi hăm hở bảo:
- Được! Tôi sẽ ở lại một mình. Nhưng thế nào cô nương cũng mau trở về nhé.
Tiểu-long-Nữ lạnh lùng như không mấy để ý đến lời nói của Dương-Qua, nàng nói trong ngớ ngẩn:
- Chẳng thể định trước được! Còn phải xem có làm được xong công việc khi xuất mộ đài không đã! Phải bắt...
Nói đến đó, nàng lặng thinh.
Dương-Qua ngạc nhiên hỏi:
- Làm được việc gì? Cô nương định bắt ai?
Tiểu-long-Nữ như sực tỉnh, nhìn Dương-Qua không đáp, bỏ ra ngoài.
Nàng đi khỏi, không khí trong phòng trở nên lặng lẽ phi thường. Không một tiếng động, dù là tiếng động trong không gian.
Dương-Qua phân vân chẳng biết nàng xuất mộ đài để làm gì? Để bắt ai? Chẳng biết nàng có phải qua Chung-Nam sơn để bắt bọn đạo sĩ Toàn-Chân chăng?
Nó nghĩ quanh quất một hồi rồi ung dung ra khỏi căn phòng lớn, rảo bước về phía tây. Đi chừng mười lăm bước, nó thấy tối om. Một con đường hầm bằng đá sâu ngòm chẳng biết ăn thông vào đâu. Nó lần mò theo đường hầm. Bóng tối mỗi lúc mỗi đen đặc. Nó không còn trông thấy đường nữa, phải đưa tay mò mẫm vào các tường đá để đi.
Đi mãi không tìm ra ánh sáng, nó thất kinh, quay lưng trở lại, định trở về đại sảnh.
Nhưng tìm mãi không thấy đại-sảnh đâu nữa. Những con đường hầm ngoằn ngoèo cứ dẫn nó càng đi càng tiến sâu vào bóng tôi.
Thực sự, nó đã lạc đường rồi. Nó la hoảng:
- Cô nương ơi! Cô nương ơi! Cứu tôi với!
Nó chỉ nghe tiếng kêu của nó vọng lại đáp lời. Nó hoảng vía băng mình vụt chạy về phía trước.
Chạy được một lúc, nó cảm thấy chân nó bỗng nhiên nong nóng khác thường, và dưới đường có bùn. Nó đoán biết nó chẳng còn ở trong mộ đài nữa. Đó là đường mộ đài ăn thông ra hang núi này.
Nó càng sợ sệt hơn, nghĩ thầm:
- Bây giờ mình đã ra khỏi mộ đài thì làm sao cô nương trông thấy để cứu mình được. Hơn nữa, nếu cô nương bắt gặp mình bỏ trốn thì còn nguy hiểm hơn nữa.
Sờ thấy một phiến đá, nó bấu tay trèo lên, ngồi thừ ra, mặt lo lắng không ngớt.
Bỗng đàng sau nó có tiếng gọi:
- Dương-Qua! Dương-Qua!
Nghe giọng kêu, nó mừng quýnh nhận ra đó là tiếng kêu của Tiểu-long-Nữ. Nó nhảy xuống chạy về phía đó, gọi lớn:
- Cô nương ơi! Cô nương ơi! Tôi ở chốn này.
Tiếng kêu ấy lại im bặt không đáp lại. Bốn bề vẫn lặng ngắt. Nó càng sợ hơn, phân vân chẳng biết tiếng gọi vừa qua là tiếng gọi của Tiểu-long-Nữ hay của ma quái.
Bỗng nhiên, tai nó đau nhói. Một bàn tay véo vào tai nó. Nó giật mình kinh sợ, quay lại, thì đó là Tiểu-long-Nữ.
Nó mừng quýnh reo lên:
- Cô nương ơi! Cô nương đến lúc nào mà tôi chẳng biết?
Tiểu-long-Nữ sừng sộ hỏi:
- Mi đến chốn này để làm gì?
Dương-Qua đáp:
- Tôi bị lạc đường.
Tiểu-long-Nữ tu mồm "suỵt" một tiếng rồi đưa tay nắm lấy nó dắt về phía đường hầm.
Trong đường hầm tối nghịt, chằn chịt như màn nhện, thế mà Tiểu-long-Nữ bước đi thoăn thoắt, lúc rẽ bên này, lúc sang lối nọ như đi giữa chốn ban ngày.
Dương-Qua khâm phục quá thốt ra miệng:
- ồ! Sao cô nương lại trông thấy nhỉ! Tôi mù mịt chẳng biết đâu là đâu cả.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Ta từ nhỏ sống trong chốn tối tăm nầy đã quen, chẳng cần đến ánh sáng.
Dương-Qua nói:
- Thế thì tôi có thể quen đi được như cô nương chăng?
Tiểu-long-Nữ nói:
- Dĩ nhiên, nếu mi là người của cổ mộ đài.
Chỉ chốc lát Tiểu-long-Nữ dắt Dương-Qua về đến đại sảnh.
Dương-Qua vừa mừng vừa sợ, thở dài nói:
- Cô nương ơi! Tôi khâm phục cô nương quá! Nhưng tôi sợ...
Tiểu-long-Nữ hỏi:
- Sợ cái gì? Ta đã đến cứu mi dẫn về còn sợ gì nữa?
Dương-Qua nói:
- Không, tôi chẳng sợ những việc đó nữa. Tôi chỉ sợ cô lại cho rằng tôi trốn đi thì buồn quá.
Tiểu-long-Nữ nói:
- Nếu mi trốn đi thì ta chẳng còn giữ lời trối trăn của Tôn bà và chẳng biết ta sẽ phải đối xử với mi thế nào đây?
Dương-Qua thì vẫn còn giữ tính tình của con người thường với đầu đen máu đỏ, còn Tiểu-long-Nữ thì từ tấm bé luyện nội công đã dứt hẳn được thất tình, nên lúc nào nàng cũng lạnh nhạt, chẳng chút bợn lòng.
Tâm lý hai người đã không giống nhau thì sự suy tư nào có giống nhau được.
Dương-Qua hỏi:
- Thưa cô nương, cô nương để tôi đi bắt, được chăng?
Tiểu-long-Nữ nói:
- Ta đã bắt rồi.
Dương-Qua hỏi:
- Cô nương làm thế nào mà bắt được hắn? Và bắt hắn để làm gì?
Tiểu-long-Nữ nói:
- Bắt hắn để về luyện tập võ nghệ cho mi. Mi hãy theo ta ra ngoài nầy.
Dương-Qua bước theo Tiểu-long-Nữ, nhưng lòng phân vân tự hỏi:
- Cô phải nàng đã bắt một người trong phái Toàn-Chân chăng?
Nếu nàng bắt một người trong phái Toàn-Chân đem về luyện võ nghệ cho mình thì còn gì thú vị nữa.
Tuy phân vân, song không dám hỏi, Dương-Qua lặng lẽ lẽo đẽo theo chân Tiểu-long-Nữ.