Có người nói khi về tới làng Đồng Vệ, cô đến cái quán dưới gốc đa hỏi chuyện bà lão bán nước mấy câu ngớ ngẩn: hỏi có biết ở Yên Bái sáng hôm đó xảy ra việc gì chăng, có biết Nguyễn Thái Học đã bị chết chém chăng? Hỏi xong cô lại tự đáp "Có lẽ đó chỉ là tin đồn nhảm chứ Nguyễn Thái Học còn sống, có bao giờ bị chết chém". Đời sống của cô là đời một chiến sĩ cách mạng: đến cái chết cũng lại khác thường. Năm tự sát cô mới ngoài hai mươi tuổi, còn Thái Học thì 30. Đôi bạn tình đều yêu nước tha thiết, hy sinh vì nước, thề cùng sống chết và đã giữ vẹn lời nguyền. Nghe tin Nguyễn Thái Học và cô Giang cùng chết một ngày, Phan Bội Châu cảm khái làm bài văn tế: Than rằng: Sóng nhân đạo ở hai mươi thế kỷ, bạn má hồng toan cướp gái làm trai - Gương nữ hùng trên một góc trời Nam, bọn da trắng phải ghê giòng giống Việt. Trên quốc sử mực chàm giấy phấn, ong cả đoàn nhan nhản bầy nô, - Dưới Long Thành máu thắm cỏ xanh, gái đến thế rành rành chữ liệt. Trăng thu mờ mịt, trông những buồn tênh! Người ngọc xa vời, nghĩ càng đau tuyệt. Nhớ nữ liệt sĩ xưa: Đất nhả tinh hoa - trời treo băng tuyết. Vóc quần thoa nhưng chí khí tu mi - Thân khuê các mà can trường khí tiết. Thuở bé nhờ ơn gia giáo, Hán học vừa thông – Tuổi xanh vào chốn học trường, Pháp văn cũng biết Tang hải gặp khi xoay cuộc, ngó giang sơn luống những lòng đau - Trần ai tức lôí không người, thâý nô lệ giương đôi tròng ngút. Xem sách Pháp từng đem óc nghĩ: Dan Đà, La Lan thuở nọ, chị em mình đã dễ ai hơn, - Giở sử nhà bỗng vỗ tay reo: Bà Trưng, Cô Triệu sau này, non nước ấy có đâu hồn chết. Triều cách mạng đang dâng sùng sục, cát Vệ Tinh ngậm đầy trước miệng, mong thấy bể vùi, - Vai quốc dân nặng gánh trìu trìu, đá Oa Hùng dắp sẵn trong tay, nỡ xem trời khuyết. Tức tội cường quyền - Thi gan sấm sét. Khi nhập đảng tuổi vừa mười tám, cơ nữ binh đăng đội tiền phong; - Lúc tuyên truyền sách động ba quân, lưỡi biện sĩ trổ tài du thuyết. Thổi gió phun mây từng mấy trận, nào Lâm Thao, nào Yên Bái, nữ tham mưu đưa đẩy đội hùng binh; - Vào sinh ra tử biết bao phen, kia thành huyện, kìa đồn binh, cờ nương tử xông pha hùm rắn rết. Nguyễn Thái Học trổ tài kiện tướng, nhờ có cô mà lông cánh thêm dài - Phạm thị Hào nổi tiếng trung trinh, em có chị mà xứng danh nữ kiệt. Khốn nỗi thay! Vận nước còn truân - Tai trời chửa hết! Trắc trở buồm xuôi gió ngược, tài anh thư gặp bước gian truân. - Ngại ngùng nước biếc non xanh, tay chức nữ uổng công thêu dệt. Nhưng hãy còn: Thiết thạch tâm can, - Châu toàn bách chiết. Thời như thế, việc đành phải thế, đoạn đầu đài mừng được thấy anh lên. - Sống là còn thác vẫn là còn, súng kề cổ không nhường cho giặc giết. Tiếng súng lúc vang lên một phát, núi đổ sông nhào! - Hồn anh thư hẹn phút trùng lai, thần gào quỷ thét Ôi thương ôi! Khóc nữa mà chi! - Nói không kể xiết! Một nén hương lòng, - Mấy lời thống thiết! Bạn nữ lưu ai nối gót theo chân? - Nghĩa đoàn thể, xin từ đây cố kết! Hỡi ơi! thương thay!
Sau đó, cao hứng, cụ lại ngâm mấy vần thơ: Cô Khóc Cậu Thình lình một tiếng sét ngang lưng Nuốt nghẹn tơ tình xiết nói năng Mây mịt mờ xanh trời vẫn hắc Giọt chan chứa đỏ, bể khôn bằng Thân vàng đành cậu liều theo cát Dạ tuyết thôi em gửi với trăng May nữa duyên sau còn gặp gỡ Suối vàng cười nụ, có ngày chăng? Hồn Cậu Trả Lời I Gặp mình, mình lại thẹn cùng mình Ai khiến em mà vội gặp anh? Vẫn nghĩ có chung và có thủy Thôi thề đồng tử chẳng đồng sinh Trăm năm cuộc bụi dâu hay bể Một tấm lòng son sắt với đinh Gió dữ mưa cuồng thây kệ nó Dắt nhau ta tới tận thiên đình II Dắt nhau ta tới tận thiên đình Quyết dẹp cho yên sóng bất bình Mặt nước, em còn hồng giọt máu Nợ đời, anh chửa trắng tay tanh Trăm năm thề với trời riêng đội Bảy thước âu là mẹ chẳng sinh Mình hỡi, mình đừng buồn bã quá Hồn còn mạnh khỏe phách còn linh Chị Khóc Em (Thác lời cô Bắc khóc cô Giang)
I Em ơi, em vậy, chị thì sao? Ghê gớm, mà cùng tiếc biết bao! Chung nợ cha sinh và mẹ dưỡng Rẽ đường vực thẳm với bờ cao Ngại ngùng gió yếu, mây trơ mực Tức tối trời say máu úa đào Hồn có thiêng liêng dùm tính nhỉ Mẹ già em bé nghĩ dường nao? II Mẹ già em bé nghĩ dường nao? Và nợ chồng con nặng biết bao! Nổ đất thình lình tay vỗ kép Nhuộm trời ghê gớm máu phun đào Giữa trường tân khổ no cay dắng Trước trận phong ba nổi gió trào Chị có ngờ đâu em đặng thế Biển ngần ấy rộng núi ngần cao!
Một chiến sĩ vô danh thời ấy đã có bài thơ ai điếu cô Giang: Sống nhục sao bằng sự thác vinh? Nước non cho vẹn chữ chung tình Lưỡi dao xử tử chàng không ngại Tiếng súng quyên sinh thiếp cũng dành. Một tấm can tràng trời đất thảm Ngàn thu tiết tháo quỷ thần kinh Cuộc đời xá kể chi thành bại Trai đã trung thì gái hẳn trinh! Một thi nhân khác cũng có đôi lời ca ngợi: Tình chồng, nợ đảng, gánh giang san! Thác xuống tuyền đài hận chửa tan. Xương trắng nêu cao gương hiêú nghĩa, Máu hồng in thắm chữ trung can. Ngàn năm tồ quốc ơn ghi mãi, Một thác tình chung nghĩa trả toàn Thành bại mặc ai người nghị luận, Muôn ngàn năm để tiếng Cô Giang.
Và đây là một câu đối, viếng người liệt nữ : Sống, có sống thừa, một thác tạ lòng người quốc sĩ Chết, không chết uổng, ngàn thu mát mặt khách hồng nhan!