Trong thơ Nguyên Sa người đọc ít tìm thấy sự bi thảm quá đỗi. Nỗi đau của Nguyên Sa đã biến thành cái đẹp, do đó, chả cứ gì cái chết mà ngay cả cuộc chiến đã từ mấy chục năm với dung nhan của đổ vỡ, chia lìa, với từng ngón hoài nghi đang len lách phá hoại, huỷ diệt nếp suy tư, đạo hạnh ở mỗi con người, chẳng hề làm thi sĩ bận tâm. Nếu có một dòng thơ nào phải nhắc đến chiến tranh, Nguyên Sa cố cho nó lướt nhanh và mờ đi ở giữa những hình ảnh và ý nghĩ dạt dào nóng bỏng môi hôn. Nguyên Sa đã sống ngoài cuộc sống và đặt thi ca vào vị trí đúng của nó trong môi trường vĩnh cửu.
“Cả mái tóc đã thành rừng lo ngại Mỗi chân tơ có mong nhớ xanh um Khi môi anh nặng trĩu trái thơm ngon Khi em đến mang theo dòng nhựa ngọt Huyết quản thành sông chảy linh hồn lá biếc Cánh tay là cầu mang thương mến qua sông Anh nghe thơ thức dậy tuổi mười lăm Anh nghe em bước vào thơ xán lạn…” (“Kỳ diệu”)
Ngôn ngữ tình yêu trong thơ Nguyên Sa chẳng riêng có những Kiều những Thu, những Loan, những Đam đã cho thi sĩ trời xanh và những nụ cười “thơm mùi tội lỗi”, ngôn ngữ ấy cũng chẳng phải để làm vui cho một “giải trí phường” mà đích thực “để dâng người lấy nửa dòng nước ngọt” cũng như thi sĩ “đến đây không ai mời, đi cũng đừng ai giữ, nếu có tạc tượng bằng đá trắng, đồng đen, cũng đừng bày ở sân trường đại học, đừng bày ở Công trường, xin nhớ để giùm ở một góc Công viên. Để những đêm khuya (rất khuya) thi sĩ có thể nhìn mặt trăng soi gương và ngắm những người yêu nhau tình tự”.
Tính đến hôm nay, thi phẩm của Nguyên Sa đóng góp với nền văn học nghệ thuật chỉ có mấy chục bài thơ mang tựa đề chung THƠ NGUYÊN SA. Đứng về số lượng, thành thực mà nói chưa nhiều, nhưng trong 10 năm qua nó đã tạo nên ảnh hưởng lớn lao đối với những người làm thơ và yêu thơ nhất là lứa tuổi thanh niên. Félix Arvers ở thế kỷ XIX lưu danh hậu thế chỉ có một bài Sonnet. Nguyên Sa đang và còn sống. Những bước chân dài rộng của thi sĩ có thể vượt những bước phi thường mà bây giờ chưa đoán biết. Ngoài tài làm thơ, Nguyên Sa còn viết văn, làm báo, mở trường và dạy triết. Nhưng tất cả những công việc nói trên đều bị thi ca lấn lướt bôi nhòe nhoẹt vóc dáng. Nói đến Nguyên Sa là nói đến Thơ, đến tình yêu đôi mươi, nói đến một vòm trời Tình ái với “ngày tháng không thể làm mòn phai những lời đắm đuối”. Do đó, Nguyên Sa đúng là thi sĩ của Tình yêu và Tuổi trẻ chẳng phải do hiện tại, còn cho ngày mai phía trước.
Trích thơ Nguyên Sa Áo lụa Hà Đông Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng Anh vẫn nhớ em ngồi đây, tóc ngắn Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung Bày vội vã vào trong hồn mở cửa Gặp một bữa anh đã mừng một bữa Gặp hai hôm thành nhị hỉ của tâm hồn Thơ học trò anh chất lại thành non Và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu Em không nói đã nghe từng giai điệu Em chưa nhìn mà đã động trời xanh Anh đã trông lên bằng đôi mắt chung tình Với tay trắng em vào thơ diễm tuyệt Em chợt đến, chợt đi, anh vẫn biết Trời chợt mưa, chợt nắng chẳng vì đâu Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau Để anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại Để anh giận mắt anh nhìn vụng dại Giận thơ anh đã nói chẳng nên lời Em đi rồi, sám hối chạy trên môi Những ngày tháng trên vai buồn bỗng nặng Em ở đâu hỡi mùa thu tóc ngắn Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng.
Bây giờ
Tặng Thái Thuỷ
Thế kỷ chúng tôi trót buồn trong mắt Dăm bảy nụ cười không đủ xóa ưu tư Tay quờ quạng cầm tay vài tiếng hát Lúc xòe ra chẳng có một âm thừa Cửa địa ngục ở hai bên lồng ngực Phải vác theo trăm tuổi đường dài Nên có gửi cho ai vài giọng nói Cũng nghe buồn da diết chạy trên môi Hai mắt rỗng phải che bằng khói thuốc Chúng tôi nằm run sợ cả chiêm bao Mỗi buổi sáng mặt trời làm sấm sét Nên nhìn đêm mở cửa chẳng đi vào Năm ngón tay có bốn mùa trái đất Chúng tôi cầm rơi mất một mùa xuân Cất tiếng đòi to. Tiếng đòi rơi rụng Những âm thanh làm sẹo ở trong hồn Chúng tôi trót ngẩng đầu nhìn trước mặt Trán mênh mông va chạm cửa chân trời Ngoảnh mặt lại đột nhiên thơ mầu nhiệm Tiếng hát buồn đè xuống nặng đôi vai.
Mời Tôi trân trọng mời em dự chuyến tàu tình ái. Trong một phút, một giây cuộc hành trình sẽ mở. Tôi mời em. Trân trọng mời em cùng đi, cùng khai mạc cuộc đời. Tôi mời em vứt bỏ lại đằng sau những kinh thành buồn bã với phong tục, thói lề, bạc vàng giả dối: muốn làm người yêu thì phải đỗ tú tài. Tôi mời em đi ngay. Không cần lấy vé. Không phải đợi chờ vì điều kiện du hành là những ngón tay lồng vào nhau và tâm hồn đừng đơn chiếc. Còn nếu cần thì tôi sẽ làm người bán vé. Nhưng tôi sẽ không quên làm người đồng hành duy nhất để đưa em đi. Và tôi sẽ làm người lái tàu để không ai được dự phần vào câu chuyện đôi ta. Vé có thể là những lá thư xanh. Tàu là gian nhà rất nhỏ. Nhưng mỗi ga chắc chắn sẽ là những chiếc hôn nồng cháy cuộc đời. Tôi mời em đi ngay. Em có thể đến đây với đôi giày gót cao để tôi tưởng mình em vóc hạc. Nhưng nếu em vội vã thì em cứ đi chân không. Tôi sẽ bọc mười đầu ngón chân với tất cả linh hồn say đắm yêu em. Em có thể tôi môi son rất đỏ như khi đi dự một dạ yến tưng bừng. Em có thể để phấn hồng trên má, trên áo màu những vòng kim tuyến kết hoa đăng. Nhưng nếu vội vàng mà em để vành môi tái nhợt, mớ tóc bù tung, thì có hại gì đâu em? Cuộc hành trình sẽ khởi về đêm khuya. Tôi không nhìn thấy má hồng non vì còn mải mê với tất cả em tràn đầy trong đáy mắt. Tôi cũng rất vội vàng. Hành lý chỉ mang theo một vòng tay để ôm em, đôi mắt say sưa để thì thầm nói chuyện và đôi môi để kết hoa đám cưới trên vầng trán dịu hiền. Em đi ngay đi. Để tất cả gò má em ấp trên bàn tay tôi xóa hết những đường chỉ tay gian khổ. Em đến ngay đi. Em đến ngay cho cuộc hành trình được mở. Gió được nổi lên từ mớ tóc phiêu bồng, thuyền dong thả từ đường môi óng ả. Và ngực căng buồm, mắt trông tìm vội vã: Tôi đi vào kiều diễm của thân em.
Đám tang Nguyễn Duy Diễn Diễn đã chết, Diễn đã chết Chúng tôi nhảy múa hò reo Như người người da đen Chúng tôi nhảy múa hò reo Thế là nó thoát, thế là nó thoát Thế là nó thoát, đúng rồi, thế là nó thoát Thoát khỏi ngủ, thoát khỏi ăn, khỏi thở Khỏi đêm, khỏi ngày, khỏi tháng, khỏi năm Khỏi chờ, khỏi đợi Khỏi nhìn tình ái đội nón ra đi Khỏi hy vọng ban mai, khỏi buồn thiu buổi tối Thế là nó thoát, thế là nó thoát Khỏi phải đi, khỏi phải đứng, khỏi phải ngồi Khỏi bốn mươi giờ dạy học mỗi tuần Khỏi viết ban đêm, khỏi đến nhà in buổi sáng Hào quang danh vọng thả trôi sông, này nhìn vai nó nhẹ Chiếc lưới mở rồi, thế là nó thoát anh em ơi… Chiếc lưới mở ròi, thế là nó thoát Khỏi phải nhìn, khỏi phải nghe, khỏi phải thấy Những sự dơ bẩn và mặc, Và mặc Những thằng ghen tuông, những thằng chụp mũ Những thằng ăn không nói có Đã chém toàn quốc nát bầm hai vai Thế là nó thoát, thế là nó thoát Cuồng lưu dằn vặt đã trôi đi Khỏi phải nghĩ, khỏi lo âu, sợ hãi Sự thật có phải bao giờ cũng tối như đêm Tình ái có phải suốt đời là canh bạc lận Lịch sử, rút lại, có phải là thằng mù sờ soạng Ném tất cả rồi, ném xuống biển sâu Này nhìn hai vai nó nhẹ Chiếc lưới đã mở rồi Thế là nó thoát anh em ơi…
Khép Khi cuốn sách được viết đến dòng cuối sau bao nhiêu cố gắng, kẻ viết bỗng cảm thấy tự thâm tâm dâng lên niềm vui thú vì không hiểu có sự kỳ diệu nào đã đẩy kẻ viết “kinh qua” những trở ngại thực tế thường khó vượt nổi. Trong những giờ, những ngày tận của một năm sắp tàn, trong cái không khí khuấy động của đồng tiền gieo mạnh vào canh bạc đời, trong nỗi lo lắng chạy dài theo mỗi hình thể “lô-xô-bào-ảnh”, trong niềm băn khoăn giày vò tâm cảm do ngoại cảnh đưa tới, trong cái bâng khuâng không biết ngày mai việc gì sẽ đến, trong sự nghi hoặc làm rã rời ý nghĩ, trong miếng cơm manh áo với thân phận con người chẳng khác gì một sinh vật phải lệ thuộc vào một khung cảnh nhàm chán mà không có quyền chối bỏ. Tập bản thảo nằm tênh hênh trên mặt bàn viết như một tội tình. Nó đấy. Nó là kết quả của những đêm mất ngủ, của những ngày đánh lạc thời gian bằng suy nghĩ. Nhưng nó có đây để làm gì, câu hỏi đó không thành vấn đề. "Em yêu? Hôm nay mùa Xuân đã về rồi đây ư? Mùa Xuân, mùa Xuân, những ngày của trời cao và xanh thẳm, với những ân tình bay đi như từng cánh chim di thê trở về rừng cũ, với màu hoa sắc lá dạt dào thêm nhịp luân hành vũ trụ, với môi cười khoe ngọc lưu ly, và còn gì nữa, em yêu?" Còn chứ, còn tiếng chim kêu đầu cành, còn cơn gió nhẹ thổi rơi dăm chiếc lá vàng, còn mùi hương thoảng nhẹ giữa không gian, còn ánh trăng suông lọt qua khuôn cửa lúc nửa đêm về sáng, còn cái nhìn đắm đuối, còn môi cười e ngại, bấy nhiêu xảy ra một cách tự nhiên và bình thản nhưng, đối với nghệ sĩ đó là những dấu hiệu, những chứng cớ để buộc họ vào một khung cảnh, một vị trí đích thực mà họ phải suy nghĩ về sự giao thoa giữa con người và sự mầu nhiệm của Tạo hóa. Sự mầu nhiệm của Tạo hóa chẳng những làm đổi thay từng giá trị mà còn làm cho vạn vật chuyển mới luôn luôn, con người không thoát khỏi sự “hóa kiếp” từ từ và tàn nhẫn đó. Mới hôm nào, anh em quây quần cười cợt coi đời bằng “nửa khóe mắt”, tự vỗ ngực “tương lai là của chúng ta” mà nay nhìn lại, mái tóc đã bạc phơ, vóc dáng xô lệch đường năm tháng, ngó nhau với những tia mắt não nề để cười lên tiếng cười ngắt đoạn. Lần lượt rồi lần lượt tiếp nối kẻ trước người sau mãi mãi. Do đó, những câu nói đầu môi bao giờ cũng là: ngày trước… chúng mình… Phải rồi, ngày trước, những ngày xa xưa của tuổi trẻ khi chợt bắt gặp qua-người-khác, làm cho gợn lên trong lòng một thoáng buồn, cái buồn tuy không đau nhưng man mác như mặt đại dương một sáng êm trời có những đợt sóng mơn man bờ cát. Nhưng cuộc sống đâu có giản dị như vậy, nó hiện diện với những ước lệ bắt con người phải chấp nhận từng nỗi vui buồn, nỗi vui buồn đó, nghệ sĩ không giữ lại làm của riêng tư mà phải đem trình bày để hình thành nghệ thuật. Nghệ thuật chẳng là gì cả nếu nó không chứng minh được sự huyên náo trong lãnh vực chuyên môn để vượt thoát luật đào thải của tiến hóa. Bởi vậy, nói đến nghệ thuật là nói đến cái gì vĩnh viễn xuyên qua mọi ý thức, mọi không gian và thời gian. Kẻ viết tự vỗ về bằng ảo giác cho no đầy hy vọng. Mùa Xuân năm Canh Tuất -1970
Nguồn: Tạ Tỵ. Mười khuôn mặt văn nghệ. Nam Chi xuất bản lần thứ nhất, tác giả trình bày hoạt hoạ. Ngoài những bản thường có thêm 5 bản đặc biệt trên giấy Ngân Nhũ mang chữ T.T., L.N.. – P.T.Đ., C.T., và V.T.H., 100 bản trên giấy Bạch Ngọc mang số từ T.T. 001 tới T.T. 100, dành cho bạn hữu. In xong tại Kim Lai ấn quán ngày 1 tháng 8 năm 1970. Giấy phép sở P.H.N.T. số 621 BTT/PHNT ngày 19 tháng 2 năm 1970. Tác giả giữ bản quyền, 1970. Cùng một tác giả: Những viên sỏi (Tập truyện), Nam Chi Tùng Thư, 1962; Yêu và thù (Tập truyện), Tủ sách Nam Chi, Cơ sở Phạm Quang Khai xuất bản, 1970. Bản điện tử do talawas thực hiện.