watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
21:36:3229/04/2025
Kho tàng truyện
Chỉ mục bài viết
Mai Thảo
Trang 2
Tất cả các trang
Trang 1 trong tổng số 2

Mai Thảo

Tác giả: Tạ Tỵ

Nội dung thủ bút:
Sáng sớm hôm sau, một người chị hai từ trong ngõ, gánh đôi thùng nước đi ra, khi tới ngang tầm cây dạ lan thì chị ta quăng đôi thùng rú lên thất thanh.
Lủng lẳng trên một cành thấp, ông lão già đã thắt cổ tự tử.
Mai Thảo

Mai Thảo (Nguyễn Đăng Quý): Làm báo, viết văn. Sinh ngày: 8-6-1927 tại Nam Định (Bắc Việt)
Tác phẩm: Đêm giã từ Hà Nội 1956, Tháng giêng cỏ non 1957, Mái tóc dĩ vãng 1963, Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời 1964,Khi mùa mưa tới 1964, Căn nhà vùng nước mặn 1966, Sau khi bão tới 1967, Đêm lạc đường 1967, Bầy thỏ ngày sinh nhật 1968, Tới một tuổi nào 1968, Dòng sông rực rỡ 1968, Cũng đủ lãng quên đời 1968, Người thầy cũ 1968, Mười đêm ngà ngọc 1968, Chuyến tàu trên sông Hồng 1969

Mai Thảo
Và giông gió cuộc đời
Kể từ ngày dòng sông Bến Hải mang cái nhục chia đôi toàn quốc, dòng nước nhỏ nhoi kia được cả thế giới biết đến và được coi như biên thuỳ mới cho hai chế độ trong một quốc gia. Dòng sông tự nó có hay biết gì đâu, vẫn chảy êm đềm, bình dị qua những bến bờ quen thuộc trước khi đổ xuôi rồi hoà mình vào đại dương. Và nhịp cầu bắc ngang để nối liền Quốc lộ 1 cũng được sơn hai màu xanh, đỏ để phân định hai nếp sống của một dân tộc.
Từng chuyến phi cơ cất cánh từ trường bay Gia Lâm bên kia dòng Hồng Hà, trong những sớm sương mù trùm phủ xóm làng, đồng ruộng, làm mờ vóc dáng thương yêu của bờ tre, khóm chuối, của những khuôn cửa hè phố Hà Nội cổ kính. Rồi từng chuyến tàu rời bến Hải Phòng bỏ lại những nhà máy, ống khói, bỏ lại cửa biển với vịnh Hạ Long, những con người ra đi về phương Nam.
Từ ngày đó đến nay đã trên 15 năm. Thời gian đi những bước nhè nhẹ trong nhịp luân hành của vũ trụ nhưng vô cùng nhanh rộng đối với chu kỳ của một kiếp người hay những con người chưa nguôi ngoai tình quê hương.
Giữa cái nhịp sống hoang mang và bỡ ngỡ trên mảnh đất mới, Mai Thảo đột nhiên xuất hiện trên vòm trời văn nghệ như một vì sao lạ với Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế, Trần Thanh Hiệp và một nhóm sinh viên di cư hiện diện trong khuôn khổ tờ Người Việt.
Nói đến Mai Thảo, tức là nói về sự bứt thoát giữa hiện tại và quá khứ, là nói đến một khoảng không gian tinh khôi, ở đây, những suy tư mới được phác lên với bao niềm tin yêu nồng cháy. Mai Thảo, nhà văn có lập trường rõ rệt. Những điều cần phải viết ra, đều được viết một cách dứt khoát, nhất là về vấn đề chống cộng trong lãnh vực văn nghệ. Bị cuộc sống đẩy vào con lộ “một chiều” giữa khung cảnh Hà Nội năm 1954, Mai Thảo đành phải lên đường, chẳng những bỏ lại thành phố Hưng Yên với căn nhà vùng nước mặn, bỏ lại quê hương mà còn đau nhất là cuộc biệt ly giữa tuổi tình yêu đọng tên hai mái tóc ngắn, dài. Cái tâm trạng u sầu đó, Mai Thảo biến thành căm thù rồi đem căm thù căng giữa lòng giấy trắng, dùng chiều sâu của suy tư để đưa nó vào một khung cảnh, một trạng huống vừa khích động vừa lôi cuốn người đọc vào ý muốn của mình.
Mai Thảo khởi hành từ Đêm giã từ Hà Nội là tác phẩm đầu tay làm quen với độc giả bằng những truyện ngắn – ở đấy – Mai Thảo ký thác rất nhiều tâm sự, thứ tâm sự chua chát của kẻ vừa đánh mất gia tài. Do đó, ngoài sự cảm thông phần nội dung của toàn tập truyện, người đọc nhận ra sự hứa hẹn về bút pháp trong tương lai của một nhà văn di cư gần ba mươi tuổi. Thực ra, Đêm giã từ Hà Nội không phải sự hiện diện thứ nhất để ghi nhận một tài năng, mà Mai Thảo đã viết từ ngày còn đi kháng chiến. Đêm giã từ Hà Nội chỉ là kết quả đầu tiên của những năm luyện tập âm thầm trong bóng tối. Cánh cửa vào đời văn chương mở ra để đón nhận Mai Thảo với nhiều bao dung ở giữa một xã hội tạm ổn định về chính trị cũng như quân sự.
Tác phẩm thứ hai của Mai Thảo, Tháng giêng cỏ non ra đời vào năm 1956, Sáng Tạo xuất bản. Tác phẩm này gồm 10 truyện ngắn đã đăng tải ở tạp chí Sáng Tạo do Mai Thảo làm chủ nhiệm. Tháng Giêng cỏ non là nhan đề truyện đầu của tập truyện. Bút pháp của Mai Thảo ở tập truyện này đã sắc, nhưng nội dung vẫn chỉ chuyên chở nội tâm với ít nhiều quá khứ trộn lẫn hiện tại.
Nói cho đúng, giai đoạn này, Mai Thảo chỉ là nhà văn tình cảm. Chính vì tình cảm chan chứa ở trong lòng nên cái được viết ra, được nói lên hoàn toàn nằm trong lãnh vực “chủ thể” với tất cả cái “tính bản thiện” hiện rõ ràng trong cách “thu xếp”, “dàn trải” cốt truyện và nhân vật. Không có sự quá độ trong văn chương cũng như ý nghĩ ở Mai Thảo. Nó chung chung. Nó không đau cái đau xé ruột mà cũng không vui cái vui hồn nhiên. Nó thoang thoảng như mùi hương thiên lý về khuya. Nó lãng đãng như phiến mây trong vòm trời bát ngát. Nó là cái cay đắng vừa phải, cái chua chát chịu được. Nó là bản chất đôn hậu trong một người có ý-thức.
Tháng Giêng cỏ non nói về một người nông dân tên Sạng bỏ vợ con vào Nam vì bị nghi làm chỉ điểm cho “Tây đoan” bắt rượu lậu trong nhà người anh em chú bác. Anh Sạng đối với tác giả có nhiều kỷ niệm. Lúc vào Nam, tác giả gặp lại Sạng thì biết anh đã có thêm một người vợ người Nam. Nay vợ con Sạng ở Bắc cũng di cư vào, sự tình trở nên rắc rối. Nhưng rồi Sạng thu xếp cho Nam Bắc một nhà, vui vẻ cả. Đây, cái lối dựng truyện của Mai Thảo cách đây hơn 10 năm nó như thế với những đoạn văn thật đẹp:

Thời gian nghiêng đi. Từ ngày gặp anh Sạng, đến nay đã được sáu tháng. Trong thành phố rộng lớn, cuộc sống tiến tới là sự kết thành của những lớp đổi thay mãnh liệt. Mỗi ngày một hình thức mới. Mỗi ngày một màu sắc mới, một tâm tình mới.
… Vậy mà mùa Xuân đã về rồi. Mùa Xuân của những ngả đường cỏ non, của những ngày khởi đầu nhung lụa, của những đợt khói hương thơm ngát trong đêm Giao Thừa, của buổi gặp lại, của ngày trở về. Mùa Xuân tự do thứ nhất ở đây vẫn chứa đựng cái hình ảnh muôn đời đôn hậu của Đoàn Viên…
ThángGiêngcỏnon<

Nhưng dù cho cuộc sống mới với những đổi thay mãnh liệt đến thế nào đi nữa thì hình ảnh cũ, hình ảnh của dĩ vãng thơ mộng, hình ảnh căn gác nhỏ phố Huế với vóc dáng Lựu, người con gái bé bỏng đang chết sững trong ý nghĩ của Triệu với nhớ thương, hờn dỗi:

Gác phố Huế, không ngày…
Đau buồn đã xảy đến trong loạn ly, trong chia cách. Những lớp người thiên cổ, những ngả đường mòn. Những hình chiến luỹ. Tôi xa Lựu luôn mấy năm. Tôi nhớ Lựu nhiều nhất vào những ngày tháng đau khổ mất mát ấy. Tất cả những ngả đường nào ở đó tôi hy vọng gặp lại Lựu đều nhoà đi cái triều nối kết.
… Giữa hai cuộc đời biên giới dựng lên từ đó. Hai bờ chia cắt đứt đoạn. Bên này bên kia, hai miền đất nước nhớ thương nhau.
… Những ánh lửa viễn phố ma quái đốt cháy nội tâm tôi.
"Ngườibạnđường",Thánggiêngcỏnon<

Đi từ căn gác phố Huế bước sang “Giai đoạn chị Định”, Mai Thảo đã ném suy nghĩ của mình từ một ý tư riêng tới sự vượt thoát để bày tỏ lập trường trước cuộc sống, ở đó, ý thức tự do của chị Định, nhân vật chính của truyện, đã được Mai Thảo biến thành một hy sinh cao cả.

Hồi đó chúng tôi đến Án Đổ mỗi ngày mỗi nhiều. Những đợt chỉnh huấn cải tạo của cộng sản càng rộng thì số người bỏ đi càng thêm đông đảo. Góc núi Án Đổ biến thành một thứ cứ điểm của tự do.
Đêm hôm đó tôi ngồi nói chuyện với chị Định ở bờ suối đến khuya. Đêm rừng đẹp một vẻ huyền ảo quanh tôi. Sao sáng muôn vàn trên khắp Án Đổ. Trời lạnh đặc. Sương phủ xuống trắng xóa những thành đá. Chị Định thúng thắng ho. Tôi nghĩ đến những ngày cuối cùng của chị. Đến những ống Streptomicine. Đến căn bệnh hiểm nghèo sẽ cướp mất cả chúng tôi người chị thân yêu…

Chị Định chết thật. Chị đã hy sinh cho bao nhiêu người trai trẻ bỏ vùng kháng chiến trở về thành vì không chịu đựng lâu hơn nữa sự bao vây của cách mạng với những đợt chỉnh huấn, cải tạo. Chị Định chết giữa mùa xuân. Chị không bao giờ về căn nhà cũ ở cửa Nam. Chị Định đã nằm xuống một mình trong khu vực cộng sản. Chị chết tự do. Và cũng kể từ đó “đường dây” vào thành qua vùng Án Đổ còn có ai thay chị Định?
Toàn tập truyện Tháng Giêng cỏ non ít nhiều gì cũng có dĩ vãng quẩn quanh mà Mai Thảo sử dụng dĩ vãng như bối cảnh để được tự do phóng hồn mình, phóng tâm sự mình bằng ngôn ngữ vừa chân thành vừa uất hận.
Mai Thảo viết gọn và sắc, tuy một đôi khi cố tạo nên diêm dúa để trang hoàng cho cảm nghĩ. Đó là điểm đặc biệt làm người đọc đỡ nản. Mai Thảo viết rất nhiều truyện ngắn. Ở mỗi truyện, Mai Thảo đều đưa ra một trạng huống, một hoàn cảnh để dẫn vào y trước. Ngay cả vấn đề tình yêu. Tình yêu ở trong tác phẩm của Mai Thảo không bao giờ được viết một cách thoải mái, sự thoải mái cần thiết của ngôn ngữ để chuyên chở ý tưởng dù là ý tưởng đau buồn. Mai Thảo lạnh lùng phác hoạ trong vòm cong trí tuệ từng dữ kiện hiển nhiên và mặc nhiên thừa nhận sự tình xảy ra – mà thế nào cũng xảy ra – sự níu kéo rất vô ích của nguyên vẹn, tròn đầy.
Trong Bầy thỏ ngày sinh nhật, tập truyện do Nguyễn Đình Vượng xuất bản năm 1965, chứng minh những điều trên xuyên qua cốt truyện và các nhân vật như Liễu – cô lái đò bất đắc dĩ – đã nhắm nghiền mắt, bằng một tiếng kêu ngân đi trong im lặng hoang đường xanh biếc xung quanh, nàng cho gã đàn ông phiêu bồng trong ly loạn phá vỡ cái bờ cuối cùng của đời con gái, để rồi chết tức tưởi theo con đò, trong lòng sông lạnh dưới lằn đạn của phi cơ khu trục Pháp.
Có phải chăng “tình chỉ đẹp khi còn dang dở” nên Phẩm đã ôm súng săn chờ hổ ba đêm để bảo vệ hạnh phúc lứa đôi với bầy thỏ mừng đứa con đầu lòng nhân ngày sinh nhật, rốt cuộc bị hổ vồ và cả người lẫn vật đều chết. Hạnh phúc bơ vơ theo dòng nước mắt biết đến bao giờ khô?
Còn “Cái lưới an toàn” chỉ là một ích kỷ, một đè nén, một đổ vỡ ngay từ khởi đầu của tình yêu mới nhen lửa. Và những Thân, Tuần Hương, Chuẩn cùng những tiếng động đi qua ngôn ngữ trong “Chân dung thành phố” đến “Bước chân ngoài hành lang”, tất cả, tất cả đều toát ra và đẩy đến nỗi nhức nhối, buồn buồn như bệnh phong thấp của người già những hôm thay đổi tiết trời cuối năm.
Qua những truyện ngắn của Mai Thảo, người đọc hình dung thấy vùng đất đai mà Mai Thảo đã phác định và đang tiến tới đúng là “vùng đầu gió”. Ở đó, Mai Thảo đã dùng tài năng và trí tuệ để bám chặt vào mỗi phân vuông suy cảm trước khi hình thành tác phẩm. Người đọc có cảm tưởng một phần sự thực của cuộc sống đã xâm nhập vào bản thân tác giả để trở nên những ám ảnh triền miên suốt ngày, suốt tháng.
Trong Dòng sông rực rỡ cũng vậy, Mai Thảo vẫn đi tìm tình yêu, thứ tình yêu trong chia lìa chỉ vì chưa gặp được tình yêu lý tưởng như trường hợp Tuyền của “Bước đi một bước”, như trường hợp Vũ Xuân chết trần truồng bên dòng sông với lời sỉ nhục, dòng sông ở đây được Mai Thảo coi như Định Mệnh:

Phía Đông Bắc của thành phố này, mày biết không, có một vùng trời đất đêm ngày nguy nga, ở đó, ngày cũng như đêm, đất bốc hào quang, nước dồn ánh sáng, những cuộc đời hèn mọn nào cũng là sự kỳ diệu hân hoan của sao trời sa số hằng hà muôn phương họp mặt. Ở đó, mày biết không, ngày cũng như đêm, mỗi thước vuông không khí là một phiến ngực trần chói lọi thở, gió và nắng chan hoà lẫn nhau, ở đó là niềm kiêu hùng tạm vỡ cuối cùng của tạo vật, và tất cả, như thế, chỉ bởi có một dòng sông rực rỡ chảy qua. Ngày xưa hoang đường và hằng cửu của bình yên có lẽ ẩn náu ở đây, dưới thăm thẳm đáy cùng của dòng sông rực rỡ. Có lẽ. Mày, tao đi đây. Đã hết ngạc nhiên, thôi chẳng đợi chờ, cười ngất vào cuộc đời ném lại, cất bổng mình bay, tao đi đây!.
-38

Đoạn văn vào truyện trên, Mai Thảo đã đưa người đọc nhập một thế giới lung linh, huyền ảo và dòng sông được dùng vừa để biểu tượng cho mệnh số vừa gây cảm giác cho cái Đẹp cuối cùng của mỗi kiếp nhân sinh.
Nói cho đúng, những truyện ngắn hay nhất của Mai Thảo đều nằm gọn trong tập Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời. Bút pháp trong tập truyện thật sống, thật sâu, thật sắc, thật gọn, thật chải chuốt. Nội dung từng câu chuyện thường thôi nhưng Mai Thảo đã dùng nghệ thuật để tạo nên từng bức tranh linh động và quý. Mai Thảo gọt từng chữ, nắn từng dòng làm cho hơi văn tuy nhẹ mà thấm, tuy dàn trải mà vẫn cô đọng. Nội dung truyện “Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời” không cho người đọc xác định đúng vị trí địa dư của một khu vực nào trên mặt đất. Nó chỉ là hình tượng, một cái cớ để Mai Thảo dựng những mốc xung quanh. Ngay cả nhân vật, người đọc cũng không tìm ra nguồn gốc. Nhưng cái đó không quan hệ, vì mục đích của truyện không nhằm vào nhân vật và vị trí địa dư mà chính để biểu hiệu một niềm tin, một ý chí vươn tới đỉnh-cao-đời-sống, một chán nản, một thất vọng, một tình yêu muôn thuở, chỉ có thể tìm thấy trong tưởng nhớ, trong cái Đẹp chưa bị hoen ố bởi dục vọng thấp hèn vì nàng chỉ là đứa em bé nhỏ, yếu đuối và chàng là dòng dõi một gia đình có nhiều lượng máu phiêu lưu chảy trong huyết quản.

Chàng có đôi mắt sâu như chứa đựng những hoang vu tiền sử, những đỉnh trời cao ngất không ngó thấy, những không gian buốt lạnh không có dấu chân và sự sống loài người.
Ánh lửa dị thường mỗi khi cháy lên trong đôi mắt chàng, là một lần làm tôi hoảng hốt. Chàng ôm tôi trong tay chàng mà linh hồn chàng đã ở tận đâu đâu, con mắt chàng đã nhìn một cái gì tôi không nhìn thấy.
Tôi yêu chàng như chàng vẫn vậy. Tôi chỉ biết khóc – Tôi chỉ biết nguyện cầu Đức Mẹ…
-37

Người đàn ông được gọi là chàng đã ra đi vĩnh viễn sau khi ghi nhận trên ngọn đỉnh trời, trên tầng cao nhất, bằng sự khinh thường vì nó cũng nhàm chán, không huyền bí và kiêu hãnh như khi còn ở chu kỳ mơ ước! Cuộc đời và thần tượng nghệ thuật cũng vậy. Chỉ nên đứng xa mà ngó, đủ rồi!
Tiếp nối là vóc dáng Luân đẩy lưỡi cày trên nền đất rừng cằn cỗi trong khoảng thời gian tản cư giữa vùng hậu phương trào khí thế tăng gia sản xuất để trường kỳ chống Pháp. Luân, một cô gái quê thuộc gia đình phú hào vì hoàn cảnh đã phải chịu đựng không biết đến bao giờ sự nhục nhằn của thân phận người con gái với tình yêu phất phơ trong cuộc sống nặng nề trên nền đất rừng cằn cỗi!
Cũng như thằng “Dắc”, một thằng lính Tây khốn nạn lấy vợ Việt rồi chịu bao nhiêu giày vò, hình phạt do đám người không cùng nòi giống:

Đúng thằng Dắc. Tại thằng Dắc hết. Thức ăn không có là tại thằng Dắc. Cái quán hàng này một dạo vắng ngắt là tại cái thằng trời đánh thánh vật. Tiếng mụ Năm the thé la lớn:
“Dắc! Dắc! Dắc!”
....................................
Và Dắc tỉnh dậy. Dắc bàng hoàng tỉnh dậy như từ vừa một chiếc đài hoa lớn mà tỉnh dậy, tiếng thét lanh lảnh của mụ Năm là chiếc gai buốt nhọn đâm thấu suốt đài hoa. Dắc nằm ngửa, thân thể đỏ hỏn, lông lá tênh hênh, trên chiếc giường vải gấp, thần trí chập chờn của Dắc còn vang vọng tiếng mưa lũ dạt dào dội lại từ một phương trời nào, phương trời đó ở cách đây hàng vạn cây số, mịt mùng, hoa cỏ đứng yên phăng phắc, như trên một nấm mồ, một nghĩa địa và cơn mộng dữ đã đưa linh hồn Dắc trở về đầy cái khối linh hồn đớn đau đó thức tỉnh đột ngột bởi những tiếng thét của con quỷ cái từ buồng ngoài dội vào. Thoáng hiện trong giây phút ngắn ngủi, mong manh và đã tan vỡ, đã rời gãy, những hình ảnh cũ. Đỉnh núi chất ngất. Hoa tuyết lả tả. Những cánh rừng thông bát ngát đông đặc lại trong một buổi sáng mùa đông.
“Tiếngcườitrênấy”,Bảnchúcthưtrênngọnđỉnhtrời<.

Dắc là tên lính đánh thuê trong đoàn quân viễn chinh Pháp năm nào. Nó đã bắn giết hung bạo dể rồi chết dưới nanh vuốt của thú rừng như một con vật khốn nạn biết ăn năn.
Tập Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời gồm 10 truyện, ở đó, Mai Thảo đã dùng tài hoa của mình để phô diễn tất cả những nét tinh vi của nghệ thuật. Mỗi truyện là một tấm thảm quý với công trình điêu luyện do nghệ sĩ hình thành. Nhất là truyện “Người đàn bà trong vòng đai trắng”, với không khí của vùng đất “tề” tang tóc, khủng khiếp, với bao nhiêu lo âu, tính toán của những người “vượt đai” vào Thành, với tâm trạng của kẻ ở, người về, những ai đã trải qua cái trạng huống đó mới hiểu rõ và mới cảm thấy những gì Mai Thảo viết ra nó hoàn toàn không nằm trong lãnh vực tiểu thuyết mà nó gần với sự thực nhất, người nghệ sĩ ở đây, chỉ ghi nhận và dùng nghệ thuật để diễn tả mà thôi:

Vùng tiếp giáp giới tuyến vừa mở ra, không khí và cảnh vật đã bất thình lình đổi khác. Chúng tôi đi vào một vùng không còn một dấu tích nào của sự sống. Trên từng cây số liền, chỉ dàn ra một thứ yên lặng ghê gớm, một thứ yên lặng rợn người. Chúng tôi đi trên một vùng đất chết, một thứ nghĩa địa, một thứ sa mạc. Những ngọn cỏ đường, những hòn đá, những mô đất cũng như nín thở, chết sững trong yên lặng. Những cành cây như treo lủng lẳng trên đầu những tai biến bất ngờ. Chỗ ngoặt chỗ rẽ nào cũng như chờ rình bước chân di tới. Xó góc nào cũng như trô trố những con mắt, những nòng súng đen thẫm, những mũi kim khí nhọn hoắt. Thước đất nào cũng như chôn giấu những cạm bẫy, chỉ định sập xuống, những quả mình chỉ muốn nổ tung lên. Không khí đọng lại, gờn gợn một vẻ hằn học. Vòm trời vùng giới tuyến, những đám mây chuyển đi cũng như muốn lảng xa người…
… Không một tiếng động, không một tiếng vang, không một bóng người, vùng tiếp giáp giới tuyến không còn sự sống. Những khoảng trống trần trụi tiếp đến những khoảng hoang vu um tùm. Những cái ngõ vắng tanh, vắng ngắt hiện ra. Những căn nhà bỏ không đứng đó. Những khu vườn cỏ cao như rừng. Dấu vết chiến tranh tàn phá ghi lại đây đó một vì tường đổ gục, một đoạn đường đào, một cái ụ đất, một thân cây cụt đầu chỉ còn trơ “cái gốc cháy”, những vệt cỏ cháy xém đã xám đen lại. Một vẻ gì lạnh lẽo xuất lên từ tất cả những cái đó.
Lần đầu tiên tôi biết thế nào là thế giới cõi chết của Vòng Đai Trắng…
-118.

Chiến tranh như thế đó. Nó hiện diện gần 10 năm ở miền Bắc nước Việt với những khu vực có những Vòng Đai Trắng là vùng đất tự do chém giết cho cả hai bên, nếu một sinh vật nào dám băng qua. Ấy thế mà những con người vẫn qua được, dù qua một cách hồi hộp, lo sợ. Mai Thảo đã viết rất đúng và ngôn ngữ ở đoạn trên gây cho người đọc nỗi hoang vắng ghê ghê của một bối cảnh chiến tranh chưa phai lạt trong tâm trí của những người di cư có mặt tại miền Nam hôm nay.
Ngoài những truyện ngắn, Mai Thảo còn tập tuỳ bút Căn nhà vùng nước mặn do nhà An Tiêm xuất bản năm 1966. Người đọc không được rõ vì lý do gì, Mai Thảo lại liệt thể văn hồi tưởng này vào thể văn tuỳ bút. Vậy tuỳ bút là gì?
Có thể giải thích một cách đơn giản: Tuỳ bút là một thể văn được viết theo lối tuỳ hứng, không cần có cốt chuyện mà chỉ cần dùng ngôn ngữ để chuyên chở tư tưởng và ý nghĩ. Lời văn phải thật chọn lọc thật hàm súc để dùng làm biểu tượng (Symbole) cho mỗi ý nghĩ, mỗi tư tưởng ẩn giấu dưới ngôn ngữ. Do đó, tuỳ bút không thể viết dài được, nó chỉ là đoản văn. Trong những bài viết cho tờ Khởi Hành gần đây, Mai Thảo đã sử dụng phương cách viết tuỳ bút.
Tất cả những bài trong tập Căn nhà vùng nước mặn đều có nội dung rõ ràng và lời văn bình dị tiếp nối một cách thoải mái về ngôn ngữ cũng như phơi bày tâm sự. Dù sao, tập Căn nhà vùng nước mặn cũng làm người đọc thấy bâng khuâng, cái bâng khuâng rất hiền, rất đẹp của từng kỷ niệm tưởng như mất đi mà sự thực chúng vẫn tồn tại và làm cho ta nhìn thấy vùng chân trời dĩ vãng:

Tôi sẽ về thẳng một mạch. Như con chim sẻ qua hàng nghìn đỉnh cây, hàng nghìn nóc nhà vào thẳng cái tổ của nó trên kẽ mãi. Tôi đi theo sức hút của mầu nhiệm của một hình ảnh đẹp. Mỗi cây số đường gần, thấy lòng ấm nóng trở lại. Cảm động và thơ dại trở lại…
… Tôi đã về nhà tôi, tôi đã về nhà tôi. Tôi có thể im lặng nghẹn ngào cảm động đến nói không thành tiếng…
… Nó ý thức được sự có mặt của tôi. Tất cả đều nhìn thấy, nghe thấy. Những cánh cửa thông thống gió biển. Những bờ tường lênh đênh. Những lối đi có bụi phủ ngập xuống những ngày tôi cúi đầu bỏ đi. Cầu thang gác lượn vòng ở một góc tối. Những hòn ngói rêu phủ kín mặt. Căn nhà thức giấc…
… Để đuổi khỏi những hình bóng ma quái lần quất ám ảnh, tôi sẽ mở tất cả cửa sổ, mở thật rộng. Trời sáng bên ngoài. Những phiến lá bàng đỏ như son. Gió biển veo veo thổi qua. Bức mành tre phần phật nằm ngang theo chiều gió trùng trùng.
… Buổi sớm chim sẻ đánh thức tôi dậy. Tôi mặc áo xuống vườn một mình. Cỏ hoang cao và dầy. Nhiều khoảng đất trống.
… Tình cảm bay múa thì hình ảnh cũng múa cũng bay theo. Lúc đó tôi sẽ khám phá thấy, một lần nữa, rằng đời sống con người phân hóa đến đâu cũng vẫn chỉ là những khối nhỏ bé, vây chung quanh một khối lớn. Những khối nhỏ này bắt nguồn tự khối lớn ấy, cái khối lớn ấy là quê hương.
Tôi sẽ nằm gọn trong cái khối lớn ấy. Như con tằm nằm gọn trong lòng ổ kén. Như đứa trẻ ú ớ nằm trong đáy nồi…
("Căn nhà vùng nước mặn")

Tập sách gồm 8 bài, riêng bài “Căn nhà vùng nước mặn” và “Chuyến tàu trên sông Hồng” là tác động sâu vào tâm thức người đọc hơn cả.
“Chuyến tàu trên sông Hồng”, Mai Thảo viết về tuổi nhỏ, thứ tuổi nhỏ đáng yêu lồng trong khung cảnh đẹp.

Con sông Hồng Hà. Như dòng máu đỏ tươi chảy băng băng qua khắp vùng trí nhớ bâng khuâng. Con sông như một đời sống vĩ đại. Bên này bãi lở. Bên kia bãi bồi. Tiếng sóng giữa dòng trùng trùng ca hát. Tiếng sóng đập cái tiếng đập mênh mông đầu ghềnh nơi tả ngạn bị hút xoáy mãi những bãi dâu và những nương khoai vào những chân tre cù. Nơi hữu ngạn ngọn sóng hiền lành lăn tăn êm ả trên những bãi ngầm nổi hình mùa lũ này qua mùa lũ khác. Đứa nhỏ trôi theo con tàu trên dòng trường giang hùng vĩ chợt nhớ tới những con sông làng thon mềm dải lụa có trâu đầm từng đàn dưới bóng đa nghiêng…
-82

Mai Thảo có lối viết quyến rũ, dù sự việc chẳng có gì nhưng dưới ngòi bút của Mai Thảo cũng trở thành linh động. Mai Thảo viết thật nhiều, vừa làm báo vừa viết từ truyện ngắn đến truyện dài.
Ở trong các truyện dài, cái vòm trời quá khứ đầy thơ mộng và những gian nan của tâm thức với ám ảnh về Cộng sản không còn nữa. Nó bước qua giai đoạn khác, ở đây, điều kiện và hoàn cảnh đã bắt buộc nhà văn phải nhìn thẳng vào cuộc sống mà hành động.
Mái tóc dĩ vãng do Tiểu thuyết Tuần san xuất bản 1963 đã cho người đọc nhận thấy rõ ràng sự chuyển hướng đó.
Không khí trong cuốn sách là một thứ không khí thời đại với các nhân vật đợt sóng mới như anh em Quyền, Hữu như Thư như Khánh “cô ca sĩ vùng ngoại ô”, với Hiền, Loan, Francoise và phòng trà, tiệm khiêu vũ, một căn nhà nào đó có khung cảnh thuận lợi cho ái tình, một Đà Lạt, một Nha Trang và những nỗi vui buồn gục mặt.
Thoạt vào truyện, Mai Thảo đã mở ra bi thảm bằng một cuộc tự tử.

Mặt nhựa thình lình hiện ra và vùn vụt dâng lên. Loan choáng váng lùi lại. Nhưng đồng thời một sức mạnh vô hình đã nổi dậy như một tiếng cười gằn ngạo nghễ. Sức mạnh đó phóng cái bàn tay mênh mông của nó đẩy sấp người Loan về phía trước: Loan, mày phải chết, mày chỉ còn có cái chết, cái chết nguy nga, mê mẩn, rực rỡ, hãy đến với nó, đến với cái đám đông ào ào như bầy ong vỡ tổ dưới kia.
Và Loan chới với ngã xuống…


Loan đã chết. Người con gái 17 tuổi đời đã chết vì tình. Loan là biểu tượng? Là tiếng còi báo động? Là u mê? Là khôn ngoan? Là gì đi nữa, nàng cũng đã chết và quay xung quanh cái chết đó là Quyền, một gã con trai đào hoa, có người yêu là Thư đi lấy chồng rồi bỏ chồng quay về mối tình cũ. Rồi Khánh, cô ca sĩ nhà nghèo được Hữu em Quyền yêu mà lại yêu Quyền để rồi có mang, để rồi phá thai, để khóc để oán hờn trong gần suốt 300 trang sách. Rồi Hữu và Hiền với cuộc đâm chém vì tình sau thành bạn. Còn Francoise, cô đầm lai, đã một lần phá thai và chỉ chỗ cho Khánh. Tất cả, tất cả đều toát bùng lên sự đổ vỡ, sự giằng co, níu kéo thật thê thảm trong một bối cảnh ngột ngạt do tình yêu đạo diễn. Sự hư hỏng hay nỗi thất vọng ghê gớm đã tạo nên hình thức sống ấy? Nó là sự băng hoại đến tột cùng của một xã hội thiếu hướng dẫn. Nó là hiện tại hay sự phỏng đoán của nhà văn? Dù đến chung cuộc Khánh được Quyền và Francoise được Jean. Nhưng đây có phải là một lối kết “có hậu” mà các nhà văn Á Đông cần có như một giải pháp đạo đức? Cuộc đời nó không giản dị như tiểu thuyết đâu, đừng có ai trông chờ thấy lại được cái gì mình yêu quý mất đi do kẻ đánh cắp kính cẩn trao lại và còn đền bù thiệt thòi!
Từ Mái tóc dĩ vãng đến Khi mùa mưa tới, cái trục Tình Yêu vẫn xoay tít làm chóng mặt những đọc với những nhân vật thiếu thực tế và được tạo ra để giải toả ám ảnh trong nội tâm nhà văn hoặc để giải quyết một trường hợp nào đó.
Khi mùa mưa tới với Trần Hữu Phủ, một thứ “Don Juan Việt Nam” chỉ ăn chơi và tìm tình yêu trong vòng tay dục vọng. Bên cạnh đấy, hình ảnh Ngà gái có chồng rủ trai về nhà ngủ, chồng bắt gặp đưa tình nhân ra Toà, còn mình thì dùng thủ đoạn hèn nhát để chạy tội về sau vẫn sa ngã, sa ngã thật khốn nạn. Hiền em gái Lưu – luật sư đã tận tình cãi cho Phủ, vì là bạn – đã có may mắn thoát lưới một cách đau khổ. Còn Linh, cô gái miền sông Hương, núi Ngự chỉ vì hai cái ngã bất ngờ của Định Mệnh (?) đã bỏ lại gia đình phía sau, đi theo Phủ với những bước phiêu lưu của Tình Yêu.
Đó, nội dung tổng quát của Khi mùa mưa tới như thế cộng thêm cái không khí của những canh bạc và hương khói phù dung chập chờn bay lượn chung quanh nỗi vui dâm dật thác loạn ở khung cảnh khách sạn.
Rất tiếc, kỹ thuật dựng truyện dài của Mai Thảo còn có những khuyết điểm, nhất là phần kỹ thuật dựng truyện cũng như sự “liên-hệ-mắt-xích” ở mỗi chương. Trong truyện dài của Mai Thảo người đọc có thể bứt ra từng chương để đọc riêng rẽ vẫn chẳng sao, vì ở mỗi chương cũng đã hội tụ đủ mọi yếu tố để hình thành một truyện ngắn. Kỹ thuật viết truyện dài không thể, nếu chúng ta đã đọc những tác phẩm lớn của các văn hào quốc tế, chắc chắn nhận ra ngay sự liên-hệ-không-tách-được giữa các chương vì “nó” chỉ là một nhịp, trong nhiều nhịp, của cây cầu dài – toàn thể cuốn sách.
Có điều phải nhận, ngôn ngữ văn chương của Mai Thảo dù ở truyện ngắn hay truyện dài vẫn có ma lực đưa người đọc vào một không khí rất Mai Thảo.


HOMECHAT
1 | 1 | 138
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com