Chỉ mục bài viết |
---|
Lãng Nhân |
Trang 2 |
Tất cả các trang |
Đã 12 năm qua, tôi được biết Lãng Nhân trong một buổi đi cùng kiến trúc sư Võ Đức Diên (đã mất năm 1962 tại Sài Gòn) lại nhà in Kim Lai số 3 Nguyễn Siêu, Sài Gòn để lo việc ấn hành một tạp chí. Cái cảm tưởng mà nhà văn Vũ Bằng nói về chuyện gặp Lãng Nhân lần đầu tại Toà soạn báo Đông Tây cách đây 40 năm như sau:
“Tôi được gặp ông Phùng Tất Đắc lần đầu tiên, vào một chiều tắt nắng, nhân dịp đến ‘yết kiến’ Hoàng Tích Chu tại trụ sở báo Đông Tây, số 12 phố Nhà Thờ. Vừa mới thấy ông Đắc ngồi ở bàn viết ở cửa đi thẳng vào, tôi đã biết ngay, không phải tại đã được ông tự giới thiệu, nhưng tại chính tôi được biết vì có bè bạn, trước đó, đã chỉ ông cho tôi rồi. Ngồi xuống ghế, nói với ông câu đầu, máu tôi chảy có một vòng, phần vì sợ văn ông, phần vì vẫn nghe tiếng ông là còn nhà giàu ở Nam thành, thạo đời ‘một cây’, lại có tiếng là tay ăn chơi ‘sộp’… tôi luống cuống và cảm thấy tay chân thừa cả, không biết giấu chỗ nào…
Ông Đắc mặc âu phục, vén tay áo sơ-mi lên ngồi rung đùi khảo cứu Nho giáo. Bên cạnh cuốn sách của Lệ Thần Trần Trọng Kim, tôi thấy một chồng sách chữ Nho. Đêm hôm ấy, về nằm nhớ lại buổi ban chiều, tôi chán đời không thể tả, vì thấy Phùng Tất Đắc tôi quan niệm muốn viết báo cho ra viết báo, muốn sử dụng ngòi bút tài tình như ông Đắc trong mục ‘Trước đèn’ của báo Đông Tây, người ta phải thông kim bác cổ, thạo cả chữ Hán lẫn chữ Tây”. (Vũ Bằng, Bốn mươi năm nói láo, trang 27)
Tôi không ở tâm trạng này, vì sự hoạt động văn nghệ của tôi phần chính nằm ở hội hoạ, nhưng nhìn Lãng Nhân ngồi đĩnh đạc trong một căn phòng làm việc, dưới ánh sáng mờ của ngọn đèn để bàn, xung quanh sách vở chất đống, tự nhiên lòng tôi cũng gợn lên một xúc động. Sự xúc động tuy nhẹ thôi, nhưng cũng vừa đủ để cho lòng kính trọng được dịp tỏ bày trước một bậc huynh trưởng đã xông pha nơi “trường văn trận bút” từ lúc mình còn chưa thoát khỏi tiểu học. Với tính tình hoà nhã, phong cách hào hoa, hình ảnh Lãng Nhân đã in đậm trong tôi với từng cử chỉ ưu ái từ buổi đầu gặp gỡ. Tôi cũng cần phải thú thực, khi trước Lãng Nhân đến với tôi chỉ là một “biểu tượng” của một-thời-đã-qua, nhưng quả thật lầm, lúc tôi được đọc kỹ Trước đèn và Chuyện vô lý mà Lãng Nhân đã viết từ ba, bốn mươi năm nay. Khi còn thanh niên, tôi có đọc, nhưng đọc để đọc thôi, chứ thật tình không thú vì không hiểu đúng hơn. Thuở ấy về văn, tôi thích đọc Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Bằng, Thanh Châu, Vũ Trọng Phụng và sau này đến Nam Cao, Tô Hoài v.v… bởi lẽ tôi hiểu, hơn nữa, trong con người tôi lúc ấy chẳng có một ly ý thức nào về cuộc sống hiện diện.
Nhưng những năm gần đây, lúc đứng tuổi, các chuyện phiếm trong Trước đèn và Chuyện vô lý đã làm tôi suy nghĩ rất nhiều vì ngoài cái tài hành văn lựa lời, chọn chữ, những tư tưởng và sự việc được Lãng Nhân viết ra trong hai tác phẩm trên, nó vẫn mang bên trong giá trị của từng ý nghĩ, từng sự việc hôm nay. Bởi vậy, tác phẩm của Lãng Nhân không phải ở tuổi nào cũng đọc được. Theo ý riêng tôi, người ta phải đọc nó ở cái tuổi 30 đến 40, khi lưỡi mình đã cảm thấy có vị đắng chát mỗi khi đụng vào “thực phẩm trần gian”, khi lòng đã lắng đầy muối mặn và cái chất mộng mơ đã theo năm tháng bay xa dần tầm tay vọng ước. Đọc văn Lãng Nhân ở cái tuổi “tam thập nhi lập” cho đến “tứ thập” tuy cố nhân bảo là “bất hoặc” nhưng mình vẫn bị ảnh hưởng như thường, nhất là đọc vào những đêm trời có gió hây hây và có chút mưa vừa đủ gây tưởng nhớ. Một mình với ngọn đèn đêm vừa đọc vừa ngẫm nghĩ, quả thực cái chất chữ nghĩa nó có ma lực làm cho đời sống thêm nghĩa lý và biến thành nhu cầu thực tiễn đối với mỗi con người cần tìm một chút tư tưởng trong tâm hồn để vỗ về thân phận.
Tôi có cảm tưởng, Lãng Nhân chịu ảnh hưởng nhiều ở Voltaire, một nhà thơ, văn, kịch, sử và triết học của nước Pháp. Voltaire ra đời ở cuối thế kỷ XVII và sống suốt ¾ thế kỷ thứ XVIII. Voltaire thường tỏ ra kính trọng ý thức và tự do cá nhân, cũng như tin tưởng vững vàng vào tiến bộ và tín nhiệm về hiệu năng của hành động. Tác phẩm của ông đã gây ảnh hưởng rộng lớn trong xã hội Pháp thời ấy, và tư tưởng Voltaire đã đóng góp rất nhiều cho cuộc Đại Cách mạng Pháp 1789.
Lãng Nhân chịu đọc và học ở cả Tây lẫn Đông phương nhưng tuy chịu ảnh hưởng thật đấy mà vẫn bày tỏ được cái riêng của mình trong ngôn ngữ và suy tưởng, luôn luôn đặt nó vào hoàn cảnh nước nhà. Lâm Ngữ Đường khi viết The Importance of Living [3] , đi từ con người ra sự vật để tiến tới thái độ về cuộc sống, trong đó còn ngầm mang lời khuyến dụ nên sống ra sao, còn Lãng Nhân lại đi từ sự vật vào con người, chẳng khuyến dụ gì hết. Lãng Nhân chỉ trình bày như tức bích hoạ để mà ngắm, ai muốn hiểu sao cũng được. Cái dị biệt giữa Lãng Nhân và người khác là ở chỗ đó.
Trong hơn 10 năm, căn phòng làm việc của Lãng Nhân, hầu như ngày nào cũng là nơi tụ họp của bạn văn, ở nơi đó tôi thường gặp Tchya (khi sống), Đàm Quang Thiện, Vi Huyền Đắc, Lê Văn Siêu, Đoàn Thêm, Phan Văn Tạo, Toan Ánh, Bàng Bá Lân, Phạm Trọng Nhân và đôi khi Triều Đẩu, Bùi Xuân Uyên của tạp chí Thế kỷ ngày xưa và Hà Thượng Nhân, Bùi Đình, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng (khi sống), Phạm Duy, Hiếu Chân và ký giả Lô-răng cùng nhiều, rất nhiều bạn khác.
Lãng Nhân làm việc không biết mệt tuy tuổi đã cao. Bây giờ Lãng Nhân viết loại Tiểu truyện danh nhân dưới bút hiệu Cố Nhi Tân do Cơ sở Phạm Quang Khai xuất bản. Loại Tiểu truyện này nhằm mục đích nêu cao tấm gương anh dũng của các anh hùng Việt Nam như Tôn Thất Thuyết, Hoàng Hoa Thám, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thái Học và những nếp suy tư của các danh nhân Trung Quốc như Khổng Tử, Tư Mã Quang, Vương An Thạch v.v…
Có những buổi chiều nắng quái chưa tắt hẳn trên nền da rắn ở phía mái ngói trước mặt, anh em đã về hết, còn lại tôi và Lãng Nhân đối diện tâm sự. Trong khi đó, tôi thường yêu cầu anh nói cho nghe về cuộc đời làm báo, viết văn của anh ngày trước. Biết bao nhiêu chuyện vui, buồn, nhưng có một chuyện làm cho đến bây giờ anh còn ân hận, đó là khi anh hợp tác với tờ Duy Tân của Nguyễn Đình Thấu (người đã chết rất bi thảm vì thuốc phiện mà Vũ Bằng đã ghi ở bài Bạt cuốn Phù Dung ơi! Vĩnh biệt). Để báo chạy nên nhóm đã chủ trương đả kích tất cả những người có danh vọng địa vị trong xã hội thời ấy. Trong một bài đả kích một người mà làm cả gia đình người ấy ly tán vì xấu hổ, bài ấy không do Lãng Nhân viết nhưng với tư cách thư ký toà soạn anh vẫn chịu trách nhiệm. Vì đó, nên đến giờ mỗi khi bắt gặp bài báo đả kích ai, anh lại buồn!
Chúng tôi thường coi Lãng Nhân như quyển tự điển sống. Chữ nào nghi ngờ, điển tích nào không am tường xuất xứ, chúng tôi đều hỏi và được Lãng Nhân giải thích rất chu đáo, cặn kẽ. Lãng Nhân có một trí nhớ đặc biệt, hình như những điều anh học hay đọc đã in chết vào tiềm thức, lúc cần lại hiện ra để cho chúng tôi xài và coi đó như điều mình có. Lãng Nhân năm nay đã ngoài 60, sống giản dị. Tuổi niên thiếu khi làm báo anh em đã thường giễu, vì cả ngày anh chỉ ngủ: “Trắng trẻo, đẹp trai, xương xương người mà không làm gì cả!”.
Anh viết về đêm, dưới một căn hầm, từ một, hai giờ cho tới sáng, do đó mới có quyển Trước đèn. Lãng Nhân từng được Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ kết bạn vong niên. Cụ Trần những khi chán nản về nhân tình thế thái, thường nói với Lãng Nhân:
“Ông ạ, nghĩ cho cùng, cuộc đời chẳng cái đệch gì ra cái đệch gì cả!”.
Lãng Nhân thích câu nói đó, thường nhắc lại với anh em. Tôi mượn câu đó để làm câu kết thúc.
Trích văn Lãng Nhân
Một chánh sách nhân đạo
Nhiều người sẽ cho tôi là “khen phò mã tốt áo”. Mặc lòng, tôi cứ cao tiếng mà khen ông Đốc lý Hanoi [4] là người thật có lòng nhân đạo.
Tôi rất tiếc không biết ca tụng ông quan nhân đạo ấy bằng những lời nhiệt liệt hơn nữa, nhưng tôi tưởng ở buổi đời này là buổi đời mạnh đè yếu, lớn nuốt bé, buổi đời mà lẽ phải ở bên chó sói chứ không ở bên con chiên non, hai chữ “nhân đạo” há chẳng là một lời khen tốt đẹp lắm rồi sao!
Được một người có lòng nhân đạo, làm nên một việc nhân đạo, không phải là sự thường thấy hằng ngày.
Cho nên tôi hết sức phản đối mấy ông hội viên ta trong Hội đồng Thành phố Hanoi, đã bỏ hội trường mà ra về; người ta trách các ông xử sự một cách “thảng thốt, hấp tấp”, thật không phải là quá đáng. Các ông đùng đùng đứng dậy làm “reo”, quả là các ông đã không suy nghĩ chín.
Một việc làm nhân đạo, do một chính sách nhân đạo, một chính sách nhân đạo do một tấm lòng nhân đạo (thật là đúng lý), các ông sao mà cạn lòng chẳng biết ý sâu!
Thì ông Đốc lý đã vạch cho các ông rõ đấy: tấm lòng nhân đạo khi nào đã muốn phát biểu ra thì không ai cản được, cho nên ông về thì mặc ông về, ông Đốc lý vẫn cứ nghiễm nhiên ngồi lại mà thi hành cho trót cái việc nhân đạo của ông ta.
Nhân đạo bao giờ chẳng thắng!
Cái việc nhân đạo của ông Đốc lý là gì?
Là bổ ra thuế cư trú, thuế nước.
Ai cũng đã rõ rằng ông Đốc lý thương dân An Nam vô cùng. Mỗi khi muốn đuổi những đám tụ họp không có phép, ông ấy cho vòi rồng tưới nước, chứ không dùng súng bắn, như ở bên Pháp. Ông ấy lại săn sóc đến giống nòi ta nữa, nên đã để ra bao nhiêu tâm tư nghiên cứu về vấn đề mại dâm.
Nay vì thấy dân Hà Thành chen chúc nhau đông quá, mà trong số đông ấy lại có rất nhiều người không có công ăn việc làm, chơi bời lêu lổng, nên ông ấy nghĩ đặt ra thuế nước và thuế cư trú. Thật là một cái sáng kiến của khối óc phi thường. Phải rồi, những người thường dân trong tám hộ kia làm gì có đất, làm gì có nước! Không có thì phải thuê, vậy trả thuế trước, thuế cư trú là một điều nhằm lý.
Muốn trả thuế trước, thuế cư trú, phải có tiền; muốn có tiền, phải đi kiếm; muốn kiếm tiền, phải đi làm. Thế là đánh thuế, chủ ý cho dân chăm làm. Chăm làm há chẳng còn hơn là chơi bời lêu lổng ư! Chơi bời lêu lổng, luật pháp bắt tù, ông Đốc lý đánh thuế lại gỡ cả cho dân nạn tù. Sâu sắc thay!
Huống chi tiền thuế kia thu vào, có phải là để ông tiêu riêng đâu! Ông sẽ bỏ ra để xây mả, để sửa vườn hoa, toàn là những việc bày ra cho dân làm cả.
Dân đã có việc làm, là thành dân “làm ăn tử tế” không phải hạng vong gia thất thố nữa. Như thế, thuần phong mỹ tục của Hà Thành sẽ có tiếng thơm xa nức. Việc của ông Đốc lý thật là hoàn toàn về đủ mọi phương diện: chính trị, kinh tế, xã hội, luân lý…
Nếu các ông hội viên ta đừng “thảng thốt hấp tấp” quá, nếu các ông chịu suy xét cho kỹ càng, tôi chắc các ông sẽ cảm tấm lòng nhân đạo của ông Đốc lý, mà không những không làm “reo”, lại còn xin đúc tượng để kỷ công vị quan cai trị nhân đạo ấy nữa.
Tượng tất nhiên sẽ đặt ở chợ Đông Xuân hay ở Máy nước, là những chỗ đã được vị quan ấy săn sóc đến luôn luôn…
(Chuyện vô lý, trang 75)
Lời người bán cam
...............................
Lái cam cười nhạt đáp rằng:
Tôi đây dĩ nghệ đã từng bấy lâu,
Buôn quanh quẩn chỉ cầu lấy sống,
Khách xa gần ai cũng tìm mua
Chẳng ai chê trách bao giờ,
Đến nay mới một ông là không ưng.
Ông há chẳng biết rằng bao kẻ:
Chỉ chăm chăm tìm kế lừa người.
Phải đâu có một mình tôi,
Dám tin ông xét việc đời chưa sâu…
Kìa những kẻ mình đeo ấn hổ,
Nệm da beo ngồi rõ uy nghi,
Vẻ ngoài lẫm liệt gớm ghê,
Mà trong thao lược có gì hay chăng?
Lại những kẻ nghiêm trang trịnh trọng:
Mũ đội cao, đai rộng xênh xang,
Rõ là nghi vệ đường đường
Hỏi rằng công nghiệp ra tuồng gì chưa?
Giặc cướp phá, không ngừa được hẳn
Dân đói nghèo cũng vẫn thảm thương!
Lại còn tham nhũng đủ đường,
Của kho sẵn đó tiêu hoang sá gì?
Ở lầu cao, đi, về, ngựa lớn,
Tiệc tùng luôn, chè chén linh đình.
Vênh vang rõ khéo hợm mình
Ai trông mà chẳng thất kinh rụng rời:
Nhưng rút lại: bề ngoài vàng ngọc,
Mà bên trong cũng mốc khác gì ư
Ông không chỉ trích ai kia,
Lại đi chỉ trích riêng nghề bán cam!
...............................
(Hán văn tinh tuý)
Đoạn ca bỏ sót
Lệ rỏ trong tâm
Mưa rơi ngoài phố
Thờ thẫn âm thầm
Thấm dần trong tâm…
Tiếng mưa êm gieo
Dưới hè trên mái
Lòng càng đìu hiu
Ôi tiếng mưa gieo!
Lệ rỏ không đâu
Lòng ta ngao ngán
Nào ai phụ nhau
Tang lòng không đâu…
Còn gì phiền ưu
Bằng không duyên cớ:
Không ghét không yêu
Lòng đầy phiền ưu…
(Dịch bài “Ariettes Oubliées” của Verlaine – Thơ Pháp ngữ tuyển dịch, trang 133)
Đem mộng sự đầu với chân thân thì cũng mệt…
Cao Bá Quát
Mỗi ngày chạy qua, những mơ ước buổi thanh niên lại tan tác ra từng mảnh. Mỗi buổi chiều tàn, biết bao nhiêu ảo tưởng phải vùi sâu!
Ai chẳng từng qua một lần tuổi trẻ, cái tuổi bồng bột mà mỗi khi gặp đôi mắt hữu tình lòng lại bừng lên như trời đông hé rạng. Trong vầng ánh sáng ấy, ta bâng khuâng thơ thẩn, ước ao những đỉnh Giáp non Thần. Rồi thái dương càng lên cao, càng nhận dần thấy những sự thực trơ trẽn đáng buồn. Đến buổi tà huy ủ rũ, ấy là lúc phải đào hố mà tự mình lấp lấy những hình bóng ta đã tha thiết mơ màng.
Vì có thể yêu người như yêu chị Hằng ở tít cung mây, tình yêu có chăng mới dài một chuỗi yêu mặn nồng, vì lúc nào cũng còn khao khát.
Chị Hằng khi lơ lửng khoảng trời xanh, thi sĩ so nên giây tuyệt diệu. Nhưng, hễ thấy ánh trăng chiếu trên mặt nước, gần gụi như có thể ôm lấy vào lòng, thì thi nhân đã vội nhảy ngay từ mạn thuyền xuống nước để vớt lấy bóng vàng: bóng vỡ tung ra muôn mảnh, mà khách tình rồi đắm đuối, cũng gieo cả tính mạng đi theo…
Ta thường không ưng để tình yêu xa lắc xa lơ, chỉ xăm xăm co nó lại gần, nên mới hay chuốc lấy bao lần bi phẫn.
Nếu biết chống lại với lòng chán nản, ngoài ái tình là giấc mơ tuổi trẻ, chú si-lang có lẽ còn tìm ra nhiều lý tưởng khác kê chân cho cuộc đời. Còn những cô oán nữ thì nghe như khó lòng, vì phần nhiều chỉ muốn quy hết cuộc đời vào một chữ tình, cho cả cuộc đời chỉ là một khối tình. Khiến nên nay hờn mai giận, tình trường tình đoản đau lòng vì ai!
Nhìn thẳng vào sự thực, giảm bớt sức tưởng tượng, phải chăng đó là cách tránh được nhiều thất vọng? Tránh được nữa chăng, bộ mặt vô duyên của cuộc đời sẽ lại làm cho đường sinh hoạt mất hết cả vẻ nên thơ.
Trời đất trong lúc sáng loà, mỹ nhân ngắm buổi giữa trưa, ai dù nhắm mắt lại ngay, chắc cũng không thoát qua cái cảm giác ngại ngùng…
Cái đẹp của thế giới thường phô diễn vào hai lúc sáng và chiều. Hai lúc sáng tối mập mờ, là lúc ẩn hiện bao nhiêu vẻ lung linh mơ mộng.
Những nét khuynh thành, nên nhìn bằng một tia mắt lọc qua hàng mi, đôi khi lại chỉ nên ngó bằng một đuôi con mắt.
Cuộc đời trong đuôi con mắt, là cuộc đời thần tiên: thần tiên ai cũng bảo đẹp vô cùng, vì ai cũng chỉ mường tượng trong mơ màng, thì thấy là vô cùng huyền ảo, chứ nào ai đã từng được trông thấy rõ bao giờ?
Trông thấy rõ, tẻ thay ánh sáng của trí xét suy!
Ta nghiệm rằng điều gì xét suy ra, lại dễ lấy xét suy mà đánh đổ. Còn những điều không xét suy, mà tự trong cùng thẳm tâm linh đã cho là phải, thì dù trí xét suy có vạch được rõ ra là sai lầm, là vô lý, người ta vẫn cứ theo hoài.
Trải bao thế kỷ, những điều xét suy ra luôn luôn thay đổi, mà tín ngưỡng thì khôn chuyển khôn lay. Phần đông vẫn tin như mấy ngàn năm trước, và có lẽ còn tin mãi mãi về sau này, những điềm hay điềm dở, những thuyết báo ứng luân hồi…
Những sách về khoa học chỉ trong ít lâu là nhiều cuốn không dùng được nữa: sự vật ngày một đổi thay, trí xét suy ngày một tăng tiến. Nhưng lời dạy đơn giản của mấy ông giáo tổ, dù qua bao lần dâu bể, vẫn còn là cột đá chống ở giữa dòng.
Vì sức mạnh của tín ngưỡng không phải do xét suy rành rọt mà ra. Thiên đường Nát bàn chỉ cho ngờ ngợ là có, ảnh hưởng mới hay. Nếu lại biết Thiên đường Nát bàn chắc chắn ở phương nào, có thể đi những lối nào mà đến được tận nơi, xem được tận mắt, Thiên đường Nát bàn sẽ mất cả tính cách linh thiêng, còn khiến sao cho ai nấy nhắm mắt tin mà sửa mình!
Ở đời, xét suy cho lắm, dường như vô ích, có khi lại sinh nguy hiểm: xét suy rõ quá, thấy rõ cái chân giá của mọi sự, lại tính trước được cả những ảnh hưởng có thể xảy tới, dễ sinh ngã lòng, vì rã rời hết mọi niềm hy vọng.
Người lữ khách, dù biết đầu đường bên kia có phục sẵn bao nhiêu điều thất vọng, cũng vẫn cố ôm lấy thực nhiều tưởng tượng để mơ màng, mơ màng mà hy vọng, có hy vọng mới dấn bước trên đường.
Sức tưởng tượng tô cho cuộc đời một vẻ ngây thơ, nhưng rất nên thơ. Cho nên, lăn lưng trong cuộc ganh đua, ta vẫn nâng niu trìu mến anh chàng thi nhân đã quá ngây thơ mà nhiều tưởng tượng …
Có kẻ ngồi thở dài:
“Hôm nay thực là vô vị!”
Ấy, vẫn thế đấy: không vui sướng vì than phiền rằng khó chịu, mà hễ không gặp phải điều gì khó, lại cũng thấy như khó chịu, phải than phiền…
Thì cái ngày hôm nay quả đã vô vị đến thế chưa?
Những người đã từng tan gan nát ruột vì lo nghĩ, vì đau đớn, dễ thường lại ưng được sống một ngày vô vị như hôm nay. Có khi lại coi hôm nay là một ngày vui sướng nữa, vì thấy đỡ khổ hơn ngày qua.
Ví như ta ra đường, gặp một người tàn tật, ta có thể nghĩ: Nếu người tàn tật kia bỗng hóa trở lại được lành lặn như người thường, chắc sẽ lấy làm hởi dạ lắm đây! Ta đâu có ngờ đến trường hợp nếu được trở lại lành lặn như thường, người ấy có khi còn chưa lấy làm toại nguyện, còn muốn mình xinh đẹp nữa kia…
Cũng như ta sống một ngày tầm thường như hôm nay, chưa lấy gì làm phỉ chí. Ngày nào ta cũng muốn có một sự phi thường… Cái phi thường như bậc vĩ nhân, ta chỉ nên ngó ở xa xa. Cái phi thường như người vợ đẹp: vợ đẹp bao giờ cũng chỉ là vợ những người ngoài phố…
-180
Chú thích:
[1]A la critique stérile des défauts, il faul substituer la critique féconde des Béautés. -1848
[2]Những thủ bút này trong nguyên tác khá mờ, chúng tôi buộc phải đánh máy lại để kèm vào phần chính văn và hình ảnh. Xin lưu ý cùng bạn đọc. (talawas)
[3]Người Việt quen đọc tác phẩm này qua bản dịch của Nguyễn Hiến Lê với tên Sống đẹp. (talawas)
[4]Hồi ấy ông là Virgitti.