watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
14:11:5729/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Dài > Quỳnh Dao > Điệp Khúc Màu Xanh - Trang 13
Chỉ mục bài viết
Điệp Khúc Màu Xanh
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Tất cả các trang
Trang 13 trong tổng số 13

Chương 13

Có lẽ do bệnh tim nặng hành hạ lâu ngày, nên bà Phùng quả nhiên khó tánh vô cùng, chẳng những khó tánh với những người giúp việc trong nhà, mà bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng gây sự với ông Phùng, chồng bà, mặc dù ông là một người chồng gương mẫu, luôn luôn chu đáo mọi việc trong nhà và rất mực chiều chuộng, nhẫn nhịn bà.
Ông Phùng Hưng Long lại thuộc loại giàu to, nhưng không thuộc hàng trọc phú, ông vốn là người học thức cao. Trước khi thừa kế phụ thân trong việc nắm giữ cơ nghiệp đồ sộ hiện nay, ông từng làm giáo sư, đã dạy nhiều trường và khá nổi tiếng. Chính Thu Trân và Xuân Châu đều có thời gian học qua với ông – nhất là Xuân Châu, Gia Kỳ càng không lạ gì ông, suốt những năm tháng còn miệt mài ở đại học.
Từ lúc trở về tiếp nhận và đích thân điều hành công cuộc doanh thương, buộc lòng ông phải nghỉ dạy học, song vẫn không dứt bỏ những nếp sinh hoạt liên hệ văn hóa và đặc biệt rất nhiệt tâm đối với mọi nghĩa cử từ thiện, công ích, chú trọng đến công chúng nghèo khó. Vì thế, giới bình dân vẫn có hảo cảm với ông.
Hiện nay làm chủ một công ty xuất nhập cảng lớn mạnh nhất nhì trong nước, mà còn có nhiều cơ sở buôn bán to ở ngoại quốc nữa.
Tuy nghiễm nhiên trở thành một ông chủ lớn như vậy, nhưng ông chỉ mới bốn mươi mốt tuổi, trông dáng người còn trẻ và rất hoạt bát.
Ông có hai người con: một gái đầu lòng mười bẩy tuổi, đang ở Hồng Kông với ông chú để đi học, và một cậu bé trai vừa lên bảy, hiện ở với ông.
Biệt thự Hưng Long rộng lớn nguy nga như một dinh điện, xem ra kẻ ăn người ở đông hẳn hơn số nhân khẩu của gia chủ đến mấy lần...
Thu Trân vừa đến bấm chuông, nàng được chính ông Hưng Long thân hành ra đón tận cổng, rồi ân cần mời luôn lên phòng khách riêng của bà chủ trên lầu. Dường như đây là nơi chỉ đặc biệt tiếp số ít khách chí thân, hoặc người trong quyến thuộc mà thôi. Hiển nhiên gia chủ đã dành riêng cho nàng một lối đối xử buổi đầu hết sức nồng hậu.
Dù thế, nàng không ngạc nhiên. Cũng như nàng chẳng lấy làm lạ chút nào những chi tiết về con người và cơ nghiệp phú quí của ông Hưng Long.
Nhưng có một điều hoàn toàn bất ngờ, khiến nàng không khỏi sửng sốt. Ấy là...
- Nầy, Mạn Văn em! Đây là cô điều dưỡng Thu Trân, do bác sĩ Lưu có nhã ý mời đến phụ giúp em. Và, thưa cô Thu Trân, đây là nhà tôi, người sắp được cô bầu bạn và hướng dẫn cách trị bịnh trong những ngày tới.
Trong khi ông Hưng Long vui vẻ, bặt thiệp giới thiệu như vậy thì, cả Thu Trân lẫn bà Phùng - tức Mạn Văn - chẳng hẹn mà đồng chăm chú nhìn nhau, lộ vẻ khác thường.
Bà Mạn Văn ra chiều nghĩ ngợi, như cố lục lại ký ức, để nhớ một chuyện gì.
Thu Trân hiện nét mặt mừng rỡ, vừa ngập ngừng, tựa hồ bỗng gặp lại người quen cũ mà không biết có nên nhìn nhau chăng?
Bầu không khí chung bỗng ngưng đọng. Ông Hưng Long lấy làm kỳ, còn đang nghĩ ngợi một lời khéo léo để hỏi cho vỡ lẽ, nhưng chưa tìm được câu nào thích đáng.
Ngay đó, đột nhiên từ ngoài cửa phòng vang lên tiếng khóc của trẻ con, làm tan vỡ bầu không khí ngưng đọng trong phòng.
Thu Trân quay đầu lại xem chuyện gì, thì thấy một đứa bé gái chừng mười hai, mười ba tuổi đang cõng một cậu nhỏ khoảng bảy tám tuổi, chạy gấp vào, đằng sau có thêm con chó khá to đuổi theo.
Lập tức bà Mạn Văn đùng đùng nổi giận, đến nỗi quát lên một cách hào hển, đứt quãng:
- Con Hội! Mày... tại sao vậy hả? Tao đã căn dặn mày... dặn mày phải hết sức cẩn thận... cẩn thận coi chừng bé Bảo Bảo, mà mày... mày... cứ lo chuyện gì, mà mày... để cho Bảo Bảo mang họa vậy, hả? Cái đồ cơm toi!
Con Hội, đứa tớ gái, sợ lấm lét, nhưng làm gan phân trần điều oan uổng:
- Dạ thưa bà chủ, bé Bảo Bảo chạy giỡn với chó Cali, con kêu đừng, mà Bảo Bảo hổng thèm nghe, cứ chạy hoài, nên bị vấp vô mình Cali, bị té đó!
- Đồ chết bầm! Chết bầm!... Tại sao mày không chạy theo sát một bên Bảo Bảo để đỡ liền? Mày chết, mày chết!...
Bà thở càng dữ và đấm vào chân thình thịch.
Ông Hưng Long đã chìa tay bế lấy bé Bảo Bảo, vạch xem ngay ở đầu gối rớm máu của bé vì vừa té, vừa lẹ làng rảo bước bồng luôn Bảo Bảo qua gian phòng kế bên. Bà Mạn Văn vẫn không ngớt la ó chưởi mắng con Hội, lại vừa hô hoán, bảo mau mau quay điện thoại gọi bác sĩ tới tức khắc, bà làm như đang xảy ra một tai nạn gì lớn lắm vậy.
Thu Trân hiểu ngay bé Bảo Bảo chắc là con trai cưng vàng ngọc của bà, nên bà nóng lòng đến thế. Nàng lại ái ngại, một người bệnh tim nặng như bà, không nên để xúc động thái quá dường nầy. Nàng khẽ lên tiếng, ôn tồn:
- Thưa bà, xin bà yên tâm, để tôi xem bé Bảo Bảo ra sao, nếu chỉ trầy da sơ sài thì khỏi mời bác sĩ, mà tôi săn sóc cho em cũng được.
Bà Mạn Văn chẳng những đau tim, còn mang thêm chứng yếu hẳn hai chân, gần như bị tê bại, nên luôn luôn dùng chiếc ghế xe lăn. Thu Trân vừa nói, vừa đỡ bà ngồi lên xe lăn và gọn gàng đẩy xe qua phòng bên.
Bé Bảo Bảo núp sau ghế trường kỹ, la oai oái:
- Hổng thèm đâu! Hổng thèm kêu bác sĩ đâu!
Hiển nhiên bé Bảo Bảo ngán bác sĩ quá chừng. Thu Trân liền tiến lại trường kỹ, ngồi thụp xuống quàng lưng Bảo Bảo và xem xét vết thương, vừa dỗ dành:
- A! Chỉ trầy chút xíu thôi, không sao hết, biệt có sợ đi, nghe cưng. Chả cần mời bác sĩ, để cô xức thuốc đỏ cho, là hết liền, nghen! Đừng khóc nữa, mới giỏi chứ.
Nghe "chả cần mời bác sĩ" là Bảo Bảo khoái ngay, nín khóc lập tức lo giương mắt ngó Thu Trân, tuy biết là người lạ, nhưng cứ đeo dính, như đã tin tưởng được bảo vệ.
Ông Hưng Long đã sai con Hội đem thuốc đỏ, gòn và vải băng ra, với cả một thau nước ấm.
Thu Trân không ngớt hiền hòa lên tiếng khen Bảo Bảo can đảm, vừa khéo tay rửa vết thương và băng bó. Bảo Bảo lấy làm thích thú vì được cho là gan dạ nên ngoan ngoãn để yên cho Thu Trân làm việc!
Bỗng chó Cali sấn lại, Thu Trân hoảng vía, chực bỏ chạy, bé Bảo Bảo liền ôm đầu Cali vuốt ve, vừa nhướng mày nhìn Thu Trân cười rộ.
Bầu không khí "đại nạn" vừa rồi tan biến, ai nấy đều mỉm cười theo bé Bảo Bảo.
Bà Mạn Văn cũng cười và nhìn Thu Trân, ca ngợi:
- Cô Thu Trân, đây là lần đầu tiên bé Bảo Bảo chịu đứng yên cho cô săn sóc vết thương, cô tài thật!
Ông Hưng Long liền lên tiếng:
- Nhưng cô Thu Trân mới đặt chân đến nhà nầy, đã làm phiền bận cô ngay rồi, thật là điều không phải với cô...
- Thưa ông, chẳng có chi ạ.
Bà Mạn Văn ân cần chỉ ghế mời Thu Trân ngồi:
- Cô Thu Trân chắc là người gốc Đài Loan?
- Vâng ạ, tôi sống từ bé tới lớn tại Đài Bắc.
- Nếu tôi nhớ không lầm, hình như tôi đã từng gặp cô ở đâu, ít ra cũng đôi ba lần rồi thì phải?
- Thưa, ban nãy, vừa được diện kiến bà chủ, tôi cũng có cảm tưởng như vậy và bây giờ thì tôi nhớ ra rồi. Thưa bà, hồi tôi còn học Sơ trung, bà đã dạy tôi một thời gian, khoảng bốn tháng, ở lớp chín và sau đó, dường như là bà thuyên chuyển nơi khác...
- A! Tôi cũng nhớ ra rồi! Thì ra, chúng ta vốn chẳng xa lạ gì nhau. Cô là cô học trò ngoan và giỏi nhất lớp đây mà? À, hình như cô còn một cô em gái, lúc đó cũng học chung? Bây giờ cô ấy đã đi làm sở nào chưa?
- Thưa, em tôi, Xuân Châu hiện du học bên Pháp ạ.
- Ồ! Giỏi thế! Có phước quá!
Thì ra, là chỗ biết nhau cũ, dù chỉ biết một cách sơ sài thế thôi, nhưng hôm nay vẫn được đôi đàng coi là cái cớ để dễ trò chuyện và làm thân. Nhất là bà Mạn Văn, cứ nói huyên thuyên luôn mồm, hỏi thăm Thu Trân về đủ thứ chuyện từ gia cảnh, nghề nghiệp, đến vấn đề hôn nhân, được nàng trả lời chẳng che dấu điều nào cả.
Thấy không khí chuyện trò đầy vẻ thân mật như vậy, ông Hưng Long lộ nét yên tâm rõ rệt, vì không còn ngại bà vợ khó tính bực nhất của mình lại lung tung chê bai, chỉ trích cô điều dưỡng như trước nữa.
Cuộc đàm đạo đi đến chỗ tốt đẹp, bà Mạn Văn tỏ ra ưa thích Thu Trân, một hiện tượng mà ông Hưng Long chưa từng thấy bao giờ. Chính bà chánh thức yêu cầu Thu Trân:
- Kể từ nay, xin cô vui lòng ở đây giúp tôi. Nghĩa là cô ăn ở và làm việc luôn tại nhà này. Gian buồng đầy đủ tiện nghi, giáp vách phòng tôi, đang dành sẵn cho cô đấy, cô cứ tự nhiên. Thực ra, công việc hằng ngày của cô cũng chẳng có chi là nặng nhọc, đại khái như săn sóc một người bệnh và chích hộ tôi mấy mũi thuốc, theo toa đã qui định của bác sĩ. Điều chính yếu hơn là tôi muốn có một bạn gái, để đỡ tịch mịch cô đơn, vì ngày nào cũng vậy, ông nhà tôi thì đến hãng, bé Bảo Bảo thì đi học; những giờ phút đó tôi buồn chịu không nổi, nếu có cô bầu bạn, tôi sẽ mau đỡ bệnh cho mà coi. Cô Thu Trân, cô nhận lời giúp tôi nhé.
- Vâng ạ. Tôi rất hân hạnh được phục dịch bà, chỉ mong sẽ không đến nỗi vụng về, làm bà phải chán ghét.
- Ồ! Đâu đến nỗi như thế. Cô đã nhận lời rồi, tôi mừng lắm.
- Thưa ông bà, như vậy là vấn đề tôi làm việc ở đây coi như đã bàn xong, bây giờ tôi xin phép ông bà tôi về, để thu xếp y phục, vật dụng, sáng sớm mai tôi sẽ trở lại.
Thu Trân từ từ đứng lên cáo từ.
Ông Hưng Long cũng đứng dậy để sẵn sàng tiễn khách.
Lúc nàng xuống hết thang lầu, thình lình thấy bé Bảo Bảo chạy ào lại, nắm chặt tay nàng, tươi cười líu lo:
- Cô Thu Trân! Con nhớ tên cô rồi! Con cũng biết cô đã nhận lời làm bạn với má rồi! Nè, cô ơi! Cô ăn cục kẹo này với con đi. Rồi sáng mai, nhất định cô tới, nghe!
- Chà, kẹo ngon quá! Được rồi, chắc chắn cô sẽ tới!...
Sáng hôm sau, cố nhiên là Thu Trân đến thật, và cuộc đời nàng, trong hoàn cảnh làm việc mới cũng bắt đầu một giai đoạn mới.
Nàng được biết rõ thêm, bà Mạn Văn đã lâm bệnh ngót bảy năm rồi, tức là sau khi hạ sinh bé Bảo Bảo, thì bà đau ốm liên miên đến nay. Một phần do tính tình kỳ lạ, một phần có lẽ cậy vào sự giàu sang sung mãn, bà cứ một mực không ưng đi nằm bệnh viện, mà chỉ chữa trị tại gia thôi. Mặc dù đã được chữa trị không ngừng, bằng nhiều phương cách, và tốn vô số tiền bạc rồi, nhưng bệnh trạng bà ta cứ ngày một thêm trầm trọng chớ chẳng thuyên giảm chút nào.
Như thế, xét kỹ ra, không hẳn tại vì thầy kém thuốc dở, mà bởi một lý do khác, đã vướng bệnh tim bà ta lại cứ triền miên tự chuốc lấy sự khổ tâm hoài, thì làm sao lành bệnh được?
Nhân mấy lúc cao hứng, những người giúp việc lâu năm trong nhà đã nói với Thu Trân điều đó.
Chẳng hạn chị bếp thì bảo:
- Chỉ riêng cái tật ghen kinh khủng của bà cũng đủ khiến bà đau tim nặng và có ngày chết luôn vì bệnh tim. Bất kể lúc nào, bất luận với ai bà cũng ghen, báo hại ổng khổ ơi là khổ. Coi vậy chớ bà quản thúc ông còn kỹ hơn khám đường giam giữ tù phạm nữa đấy. Hằng ngày, đi ra hãng và về nhà phải răn rắc đúng giờ. Phải nói "đúng phút" mới được, vì ông không được đi sớm phút nào, mà nếu lỡ về sớm hay chậm một hai phút, là bị bà lên cơn ghen liền. Ông tiếp khách, dù là ai, đều phải có bà "dự thính". Ông cần đi các đám tiệc, phải trưng đủ bằng cớ rõ ràng và nhất định bà tìm đủ cách nhờ người nọ người kia "theo dõi" ông thật kỹ. Ối thôi, kể không xiết về nước ghen... trật đời của bà! Kỳ cục lắm cô ơi!
Bác tài xế cười rất buồn:
- Tôi thương ông hết sức. Tôi hiểu chắc trăm phần trăm, ông chẳng phải là hạng đàn ông sợ vợ. Hừ, làm gì mà ông sợ bà. Bất quá ông là người chồng quá tốt, quá trung hậu, quá nặng tinh thần trách nhiệm, nên cái gì bà làm lố ông cũng ráng chịu hết, ông không nỡ để bà khổ vì bệnh, thế thôi. Đúng là một cái nợ... trời ơi đất hỡi!
Ông già làm vườn có vẻ hậm hực:
- Đâu phải chỉ ghen cái kiểu bất kể quân thần mà thôi, bà còn... nhõng nhẽo hổng nói nổi nữa đấy. Ái chà! Trên cõi trần này, tôi chưa từng thấy bà vợ nào nhỏng nhẽo... ác ôn như bà nầy... Tôi hiểu lắm, ông chủ đúng là người chồng luôn có tinh thần trách nhiệm, ổng khổ tâm, ông chả thấy cái gì là lạc thú vợ chồng hết, nhưng ông vẫn ráng vui vẻ chịu đựng, vì dù sao thì cũng đã lỡ là vợ là chồng với nhau rồi, và đã có con cái nữa, ông lặng lẽ chịu khổ, miễn vợ con thoải mái, vui sướng. Ai không hiểu, tất cho ông là tay sợ vợ, kỳ thật, đúng như bác tài vừa nói, có chi mà ông phải sợ.
Họ còn dị nghị nhiều nữa về cái tánh đa nghi, hay ghen của bà Mạn Văn. Chỉ nghe chớ Thu Trân chẳng hề nói vào bàn ra nửa tiếng. Tuy nhiên, nàng lại thầm tự nhủ một cách nghiêm khắc là cố hết sức giữ gìn, đừng bao giờ để xảy ra chuyện ghen tương đáng sợ ấy. Hoặc giả, bà ta lên cơn hoài nghi, dù chút xíu thôi, nàng sẽ lập tức xin nghỉ việc, rời khỏi biệt thự Hưng Long ngay.
Quả nhiên, sự đứng đắn, đoan chính của nàng đã làm bà ta kính nể nên không thể nghĩ ngợi gần xa để ghen bừa bãi được.
Nhưng, cũng quả nhiên cái tật ghen của bà ta đúng là "ghen bất kể quân thần, ghen ác ôn" thật. Thời gian đầu chưa đến nỗi nào, song một năm sau, bà ta vẫn đâm ra ghen với Thu Trân như thường.
Khổ nổi, lối ghen của bà ta làm Thu Trân khó bề thực hiện được điều nàng đã dự liệu từ trước, nàng không thể xin nghỉ việc, rút lui, mà cứ phải bấm bụng tiếp tục nhiệm vụ, trong tình cảnh hết sức kỳ quái.
Bởi lẽ, càng ghen, bà ta lại càng ân cần thân thiết với Thu Trân chừng ấy. Bà ta quyết giữ nàng luôn ở bên cạnh, đến nỗi cả ngày nghỉ hàng tuần của nàng, cũng bị bà ta dùng tình cảm hoặc viện cớ bệnh hoạn để không cho nàng rời khỏi biệt thự Hưng Long nửa bước.
Bà ta luôn luôn tỉ tê đầy nước mắt với nàng:
- Bệnh tôi đã trầm trọng hẳn hơn trước như thế nào, cô là người biết rõ hơn ai hết. Nên tôi cần được cô thường trực kề cận, để an ủi, để chăm sóc. Nếu thực bụng thương tôi, xin cô đừng bỏ tôi mà đi đâu cả, nghe cô. Bằng ngược lại cô cứ xem thường lời van lơn này mà vắng mặt nơi đây, dù chỉ một vài giờ thôi, tôi có thể sẽ chết ngay, thì chính cô đã giết tôi đó.
Kỳ thực, bà ta làm như thế, vì e sợ Thu Trân đi vắng là để... đi kiếm chỗ tư tình với ông Hưng Long, còn nếu nàng rút lui hẳn, thì càng nguy hơn, vì đó là nàng đã được ông Hưng Long mua nhà sắm cửa, lập tổ uyên ương rồi.
Nghĩa là Thu Trân bị bà ta ghen bằng cách giữ chặt nắm sát, một lối ghen cao độ hơn bất cứ lần ghen nào trước đây của bà ta. Thành thử Thu Trân làm vào thế kẹt, càng muốn chứng tỏ sự trong sạch, nàng càng phải... vui vẻ hiện diện ngày đêm bên cạnh bà ta. Nếu nàng đối phó quyết liệt bằng cách tự giải nhiệm, rút lui, là hóa ra những gì bà ta nghi ngờ lâu nay đều đúng cả sao?
Nàng khổ tâm, mà ông Hưng Long cũng khổ tâm. Nhưng bà Mạn Văn tương đối yên tâm, có bé Bảo Bảo cực kỳ thích thú, làm Thu Trân cũng thấy hài lòng.
Hơn một năm qua, Bảo Bảo đã trở nên gắn bó cùng Thu Trân như bóng với hình. Nó yêu mến nàng có phần hơn cả mẹ ruột. Từ mấy tháng nay nó nhất định đòi được ăn chung, ngủ chung với nàng. Trừ những giờ đi học, còn lúc ở nhà nó cứ quấn quít bên nàng. Những khi ngã bịnh, nó càng không thể thiếu nàng.
Thật là một sự tương hạp lạ lùng và làm Thu Trân cảm động.
Thu Trân tuy khổ tâm về chuyện bà Mạn Văn, nhưng lại lấy làm an ủi với tình thương khắn khít của bé Bảo Bảo. Nhờ vậy, nàng cũng khả dĩ còn có điểm tựa tinh thần để chịu đựng sự ràng buộc vô lý của bà Mạn Văn.

o0o

Xuân Châu và Gia Kỳ đã học thành tài, hồi hương và chính thức làm lễ thành hôn.
Một cặp vợ chồng rất tương xứng, một đôi bạn đường lý tưởng. Họ hàng hai bên đều vui, bằng hữu đều mừng.
Thân phụ Gia Kỳ hài lòng đến độ cao hứng đứng lên ngay giữa buổi tiệc cưới để ca ngợi tấm gương tỷ muội thủ túc và chí tự lập của chị em Thu Trân – Xuân Châu, và cũng để khen con dâu đã học thành đạt rất xứng đáng. Ông chẳng dấu, lại khoe toạt ra chuyện Xuân Châu không chịu thọ lãnh của ông và Gia Kỳ một đồng bạc tiền học nào suốt bốn năm du học nước ngoài, khiến quan khách cử tọa vỗ tay như pháo nổ. Người ta phục Xuân Châu về tánh kiên cường, người ta cũng phục ông về sự khẳng khái, phân minh.
Đồng thời, ông tuyên bố luôn quyết định của ông, từ nay giao trọn công ty hàng hải thương thuyền cho vợ chồng Gia Kỳ – Xuân Châu điều khiển, khai thác toàn quyền, và ông tin rằng cặp nhân tài trẻ này sẽ tạo được nhiều thành công mới, mà như vậy là "con hơn cha là nhà có phúc".
Hơn ai hết, Thu Trân mãn nguyện tuyệt đỉnh, vì cuộc đời Xuân Châu từ nay đã đủ đầy trong hạnh phúc, điều ao ước chí thiết mà nàng hằng đợi chờ được chứng kiến suốt mười mấy năm nay.
Ngoài niềm vui trọng đại về nguồn hạnh phúc của em gái, Thu Trân lại gặp thêm một nỗi mừng bất ngờ, rất đáng kể, là bà Mạn Văn... đã chết.
Nàng mừng, bởi thoát nạn "cầm tù" vô lý của bà ta. Nàng mừng, vì không còn bị bà ta nghi ngờ ghen tương quái gở nữa. Và lẽ đương nhiên, nàng được tự do rời khỏi biệt thự Hưng Long vì đã hết trách nhiệm, và trở về trình diện bác sĩ giám đốc bệnh viện, để tiếp tục công tác bình thường.
Bác sĩ giám đốc rất thông cảm phần việc khó khăn và khổ tâm mà nàng đã gánh vác cả mười mấy tháng qua, nên cho phép nàng được nghỉ ngơi hai tháng liền, để phục sức và bồi dưỡng tinh thần.
Một hôm, bỗng có con Hội, đứa tớ gái đằng biệt thự Hưng Long hớt hải đến kiếm, trao cho nàng một bức thư của ông Hưng Long, vừa thúc giục nàng:
- Cô Thu Trân! Mau mau đi! Cô mở lượng từ bi bác ái, mau mau đi cứu người!...
- Cứu ai mà em cuống lên thế?
- Đó, thì cô coi lá thư đi.
Nàng vội mở thư ra xem. Quả nhiên là chuyện cứu mạng người thật. Ông Hưng Long khẩn báo cho nàng biết, con trai ông, bé Bảo Bảo, đã ngã bệnh trầm trọng gần tuần nay. Mặc dù được chữa trị thuốc men đầy đủ, nhưng bé Bảo Bảo không chỉ ốm đau về thể xác, mà điều đáng lo ngại là về tâm thần. Nó đã bị xúc động mạnh, bị ám ảnh vì cái chết của mẹ nên sinh bệnh. Nó cứ mê sảng, hoảng hốt từng chập, ngày cũng như đêm, luôn gọi đến Thu Trân và cả những khi tỉnh táo, càng đòi gặp Thu Trân ngay. Bởi thế, ông Hưng Long khẩn thiết van cầu nàng nhín chút thì giờ, tới với bé Bảo Bảo; nếu nàng từ chối e rằng sinh mạng nó khó cứu vãn.
Đọc thư và nhìn qua dáng điệu quính quáng của con Hội, nàng biết đây không phải là chuyện giả dối.
Con Hội lại hối hả:
- Cô! Cô đi lẹ lẹ lên! Ông chủ sai em mời cô, có cả bác tài đem xe lại, đang đậu trước đường chờ cô đó, cô đi nghe cô.
Chẳng còn biết làm gì để thối thoát, Thu Trân đành ra xe tới biệt thự Hưng Long.
Sự hiện diện của nàng thật chẳng khác thuốc tiên đối với bé Bảo Bảo. Đang nằm lì chợt nghe tiếng nàng gọi, nó tỉnh lại ngay. Nó nhảy thót vào lòng nàng, hỏi chuyện huyên thuyên, trách sao nàng nỡ bỏ nó, đi đâu mất tự hổm rày.
Một tuần sau, Bảo Bảo lần lần hết bệnh, nhưng nó vẫn nằm trên giường mãi, không chịu dậy.
Thu Trân thầm nghĩ "Cậu nhỏ này đã được nghỉ học mấy tuần rồi, nên đâm ra lười, ngán đi học lại, bây giờ cứ giả bộ chưa bình phục để né tránh đến trường chứ gì".
Nàng cố ý đặt ôn kế biểu cho Bảo Bảo, rồi nói:
- Nầy, cưng đã hoàn toàn khỏi bệnh rồi, hãy dậy mà sửa soạn đi học, kẻo nghỉ lâu quá, học không kịp chúng bạn, cuối năm không được lên lớp người ta cười chết.
- Bệnh con chưa hết đâu. Con còn nhức đầu quá chừng đây nè!
Bảo Bảo làm bộ nhăn mặt đau đớn, cố nhiên là Thu Trân biết ngay. Nàng ôn tồn khuyên:
- Cưng là đứa bé ngoan lắm, cô không ưng cho cưng kiếm chuyện đặt điều nói dối đâu. Còn nhỏ tuổi mà nói dối, khi lớn lên sẽ thành người xấu, biết hôn?
Bảo Bảo lặng thinh, từ từ cúi gầm mặt xuống.
Thu Trân âu yếm vuốt má, vỗ đầu Bảo Bảo:
- Người không thành thật là người thiếu chí khí, không anh hùng, ai cũng chê.
Nàng chợt phát giác đôi má nó ướt đẫm nước mắt nên không khỏi tội nghiệp, liền an ủi:
- Đứa trẻ nào cũng ham chơi cả, đó là sự thường, hồi nhỏ, cô cũng vậy, cứ hay ngán đi học... Nhưng bệnh đã hết rồi không nên giả bộ đau ốm. Bây giờ cô đồng ý cho cưng nghỉ thêm hai hôm nữa rồi cưng đi học nhé. Hãy mạnh dạn lên đừng nằm mãi trên giường, nên ra ngoài chạy nhảy, nếu nằm giả bệnh mãi, lạ trở thành bệnh thật đấy.
Bảo Bảo bật khóc rấm rức.
Thu Trân trìu mến dỗ dành.
- Đừng khóc! Cô đâu có trách mắng cưng, cô vẫn thương cưng lắm mà.
Bảo Bảo tức tưởi:
- Con muốn... cô ở đây...
- Ồ! Thì cô chẳng đang ở đây là gì.
- Ba con nói, hễ chừng nào con hết bệnh, thì cô sẽ đi...
Bảo Bảo nghẹn lời, hấp tấp quàng tay bá chặt cổ Thu Trân, như chỉ sợ nàng bỏ đi. Nàng chợt hiểu ra, vừa rồi mình đã đoán Bảo Bảo lười đi học là không đúng.
- A, thì ra... vì sợ cô đi nên con giả bộ chưa hết bệnh, cứ nằm lì trên giường vậy sao?
Nàng nghe xúc động mãnh liệt, đến run run giọng và cơ hồ muốn tuôn lệ. Bảo Bảo ngẩng gương mặt thơ ngây đầy nước mắt lên:
- Cô! Vì sao cô định rời bỏ nhà này? Cô có giận gì ba con không? Con có làm chi khiến cô buồn không, hở cô?
- Không! Không phải thế đâu. Mà là vì cô vốn là tá viên điều dưỡng đặc biệt cho má cưng, bây giờ má cưng mất rồi, tự nhiên cô hết nhiệm vụ, còn ở đây làm gì nữa.
- Má con mất rồi, nhưng cô còn cần phải săn sóc cho con chứ.
- Cưng đã có ba cưng với chị Hội săn sóc đâu cần phải có cô.
- Con thương cô nhất, con muốn cô ở đây với con. Cô à! Cô đừng đi đâu hết, nghen! Cô đừng bỏ con, nghen!
Bảo Bảo lại bật khóc:
- Coi! Cưng lại khóc nữa! Đừng khóc mà!...
Thuận miệng, nàng thốt tiếp luôn:
- Được rồi, cưng đừng khóc nữa, cô còn ở đây chớ đã đi đâu ngay mà cưng sợ.
- Con muốn cô vĩnh viễn chẳng đi đâu hết. Cô yêu thương con cũng y như má con vậy. Cô à! Cô chịu làm má con không?
Thu Trân không khỏi cau mày, khẽ đẩy Bảo Bảo ra, nhìn chăm chú vào mắt nó:
- Ai dạy cưng nói như vậy? Có phải ba cưng bảo cưng hỏi cô như vậy, phải không?
- Đâu có! Tự con nói chứ cần gì ai dạy. Cô à! Sao cô không có vẻ vui vậy? Cô không thích làm má con hở cô?
Thu Trân vội bụm miệng Bảo Bảo:
- Trẻ nít không nên nói chuyện đó, cô làm sao lại là má của cưng được? Chớ để ba cưng nghe câu nói đó mà ba cưng mắng cho đấy.
- Dạ, từ rày con không nói câu đó nữa. Nhưng con năn nỉ cô lần nữa, cô đừng bỏ con mà đi nghen.
- Thật tình cô cũng mến cưng lắm, nhưng hoàn cảnh đâu thể ở chung nhau mãi được. Bất quá xa nhau cũng có buồn thật, nhưng chỉ một thời gian rồi thì cưng sẽ quên đi mà vui với bạn bè...
- Không! Con vĩnh viễn không quên cô!...
Bảo Bảo lại khóc và ráng nói thêm:
- Nếu cô nhất định rời khỏi cái nhà này, thì cô cho con đi theo với.
Thêm lần nữa, Thu Trân nghe xúc động mãnh liệt, tự dưng nước mắt nàng rưng rưng. Nàng chẳng thốt nên lời, chỉ âu yếm vuốt đầu, nựng má Bảo Bảo.
Bảo Bảo kêu lên:
- A! cô khóc! Cô khóc rồi! Vậy là cô không đành lòng bỏ con đi nữa, phải hôn?
Nàng gạt nhanh ngấn lệ:
- Cô đâu có khóc. Này, cưng dậy đi, hai cô cháu mình xuống lầu đi dạo vườn một lát.
- Nếu con ngồi dậy, rời khỏi giường, thì cô bỏ đi không?
Thu Trân bật cười vì câu hỏi ngây thơ chất phát của Bảo Bảo. Nàng lắc đầu, buột miệng thềt để an ủi nó:
- Cô sẽ không đi ngay, có thể cô sẽ đợi đến lúc cưng bắt đầu lên trung học, mới đi.
Bất thình lình sự thể đã vượt ngoài việc có thể ngờ của Thu Trân; nàng vừa nói dứt lời như thế, đột nhiên thấy ông Phùng Hưng Long bước vào phòng, mỉm cười:
- Tôi tin là cô Thu Trân đã hứa tất giữ đúng lời, thì hay vô cùng. Ban nãy cô dạy Bảo Bảo phải thành thật, cố nhiên cô không khi nào nỡ đánh lừa Bảo Bảo...
Thu Trân đỏ bừng mặt mũi, nóng ran toàn thân.
Nàng vừa mặc áo cho Bảo Bảo, vừa ngụ ý trách móc:
- Ông chủ đến nghe chuyện lúc nào mà tôi chả hay biết.
- Tôi thật khiếm nhã. Nhưng quả tình tôi không hề cố ý, xin cô hiểu cho. Vả lại, tôi thiển nghĩ lời cô vừa hứa với Bảo Bảo không phải là khó thực hiện, vì đại khái từ nay đến lúc Bảo Bảo lên sơ trung, chỉ lâu lắm là hai năm nữa thôi. Nếu được cô vui lòng chiếu cố, giáo huấn Bảo Bảo từ nay đến đó, thì ân đức cô đối với tôi thật là vô lượng, tôi mãi mãi không dám quên.
Trong nhất thời Thu Trân không biết đối đáp thế nào cho xuôi, đành lặng thinh.
Bảo Bảo cười thích thú:
- Ba! Ba khỏi lo, cô con đã hứa với con rồi chắc chắn sẽ không đi đâu hết, cô nhất định ở đây luôn.
Nàng cảm thấy cậu bé trở nên quá ư lanh lợi, và nghe khắp huyết mạch càng nóng bừng hơn. Nàng vội bồng bé Bảo Bảo bước ra vườn hoa...

o0o

Tròn hai năm sau ngày kết hôn, cho đến hôm nay Xuân Châu mới cảm thấy mãnh liệt rung động thật sự, mới nghe tràn ngập trong tâm hồn một niềm hân hoan trọn vẹn.
Vì hôm nay nguyện vọng khắc khoải của nàng đã thành sự thật.
Hôm nay là ngày Thu Trân lên xe hoa.
Hai năm rồi mãi tới giờ này Thu Trân mới chấp thuận lời cầu hôn của ông Phùng Hưng Long.
Trong lúc rộn rịp chuẩn bị giờ "đưa dâu", Xuân Châu và Gia Kỳ không ngớt chạy tới chạy lui, kiểm điểm cho chu đáo mọi việc. Sẵn có mặt Thu Trân, nàng liếc chồng, hỏi lắc léo, để trêu chị:
- Gia Kỳ, rồi đây chúng ta nên xưng hô với vị giáo sư cũ ấy như thế nào cho ổn? Nên gọi Phùng tiên sinh bằng anh rể hay... "thưa thầy"?
Thu Trân lườm em.
Cô Hai cười hiền hòa:
- Cô xem các con, dầu đến lúc có con đàn cháu đống, vẫn quen cái tánh trẻ thơ, như thuở học trò!
Xuân Châu cười khúc khích, vừa bước lại cài cho thật ngay ngắn đóa hoa hồng trên áo chị. Nàng hình dung trước mắt đang hiển hiện cả một vườn hồng rực rỡ, ngát hương...

Hết

QUỲNH DAO

Điệp khúc màu xanh

Chương 3

Mười bảy tuổi, Thu Trân tốt nghiệp Sơ Trung.
Vóc dáng phát triển đầy đặn, cơ thể nẩy nở kiều diễm và trí tuệ, tâm tình cũng tăng trưởng, kể chung Thu Trân đã "thành nhân chi mỹ", đã là một "đại cô nương".
Xuân Châu tuy kém một tuổi rưỡi nhưng thể chất nẩy nở sớm, cũng cao lớn suýt soát Thu Trân.
Cả hai đều xinh đẹp duyên dáng hơn người.
Càng lớn khôn, chị em càng thêm thân thiết gắn bó.
Có lẽ vì thấy Thu Trân không còn khờ dại gì nữa, nhất là lúc nào cũng có Xuân Châu bên cạnh nên kế mẫu đâm ra dễ dãi đôi phần và chẳng mấy khi giở đến trò gậy gộc đòn vọt như trước.
Song le, như thế chẳng phải là hảo ý, mà bên trong nụ cười của bà ta lại chứa đầy gươm đao. Bà ta đang rắp tâm cắt ngang đường học vấn của Thu Trân.
Mùa khai trường sắp đến. Trong khi chị em Thu Trân nôn nao, hí hửng chuẩn bị nhập học cấp Cao Trung thì, một hôm, nhân bữa cơm chiều, kế mẫu cố ý gợi chuyện, hỏi thân phụ Thu Trân:
- Gần đây người bạn thân của ông có liên lạc thư từ gì với ông không?
Thình lình bị hỏi, thân phụ Thu Trân không hiểu là vụ gì, phải hỏi lại:
- Bà muốn nói người bạn thân nào?
- Thì là vị bằng hữu sui gia của ông chớ còn ai nữa.
- À... anh Lương Minh Đăng! Hai năm nay chẳng được tin tức gì. Từ ngày xảy cuộc chiến tranh Trung Nhật, mọi sự đi lại thư từ đều gián đoạn.
Sáu năm trước, Thu Trân đã từng nghe đến danh tánh Lương Minh Đăng, nhưng không có cảm tưởng gì đặc biệt. Giờ đây, chợt nghe nhắc lại, không hiểu tại sao quả tim nàng đập loạn lên. Đồng thời đôi má nàng cũng tự dưng đỏ bừng.
Xuân Châu có vẻ nhớ ra ngay câu chuyện "chỉ phúc vi hôn" thuở nọ, liền ngó Thu Trân, nheo mắt mỉm cười.
Bà kế mẫu lại lên tiếng:
- Nhà họ Lương ấy đã tính định cư lâu dài tại Thượng Hải, bằng không thì mấy năm trước đã trở về Đài Loan rồi. Như thế, xem chừng người ta chẳng tha thiết gì đến vụ chỉ phúc vi hôn. Nay cuộc chiến Trung Nhật lại kéo dài không biết tới bao giờ mới kết thúc. Nếu cứ phải gián đoạn liên lạc, phải chờ đợi hàng chục năm nữa thì sao? Chẳng lẽ bắt con Thu Trân nhà này phải đóng vai Hòn Vọng Phu, trở thành gái già lỡ thời?
Lời lẽ của bà ta thật khôn khéo, khiến không ai lường được là hảo ý hay ác ý.
Thân phụ Thu Trân trầm ngâm chẳng nói gì.
Bà kế mẫu lại tiếp:
- Theo tôi thì "chỉ phúc vi hôn" là một lệ tục, không thể áp dụng ở thế kỷ hai mươi này được, bởi vì nó vừa vô lý vừa kém văn minh. Ai đời, chỉ căn cứ vào hai cái bụng chửa mà hứa hôn bừa. Lấy gì bảo đảm? Hai trẻ khi lớn lên, liệu có vừa ý nhau không? Ái chà!... đủ thứ vô lý. Chẳng hạn như hiện giờ, Thu Trân với cái cậu Lương Tường Phương gì đó, chẳng hề biết mặt mũi nhau ra sao cả chớ đừng nói là tư cách, tính tình. Hai bên xa cách hoàn toàn, không ai hiểu ai tí ti gì hết mà cứ coi như là vợ chồng, thật đáng tức cười. Huống chi, cậu Lương Tường Phương nay đã là chàng trai mười bảy tuổi, nếu đã chọn người yêu rồi và không thừa nhận Thu Trân là vị hôn thê nữa, thì sao? Hừ... ông làm cha mà định việc hôn nhân cho con gái một cách hồ đồ như vậy ư?
Bị vợ cho là hồ đồ ngay trước mặt con cái, thế mà thân phụ Thu Trân chẳng chút bất bình. Dường như ông tự cảm thấy cái tuổi năm mươi của mình có bổn phận phải nhịn nhục, càng nhiều càng tốt, đối với bà vợ mới ba mươi ngoài tuổi cho yên cửa yên nhà. Ông chỉ ôn tồn biện bạch:
- Hồi đó, tôi làm sao biết trước được là anh ấy dời nhà sang Thượng Hải? Nhưng mà... không hề chi. Dù sao anh Lương Minh Đăng cũng là một người bạn tốt, nhất định giữ chữ tín. Anh ấy vẫn giáo dục con cái rất nghiêm. Tôi tin anh ấy không khi nào quên vụ chỉ phúc vi hôn này, cũng không khi nào để cho cậu Phương tự ý chọn người yêu... Bà khéo lo thì thôi, tuổi con Thu Trân hãy còn nhỏ, dẫu có chờ đợi năm ba năm nữa sẽ thành hôn cũng đâu muộn.
Kế mẫu hất hàm, nghinh mặt:
- Tôi hỏi ông, lúc ông với người ta chỉ phúc vi hôn gì gì đó, ông có nhận được một chút tiền bạc, vật dụng nào của người ta, gọi là làm sính lễ không?
- Ồ! Cần gì vấn đề đó. Tôi với anh Minh Đăng đã là chỗ kết bái huynh đệ, chỉ một lời hứa với nhau cũng đủ rồi.
Kế mẫu cười lạt:
- Chiếu theo lời ông nói thì cuộc hôn nhân ấy chả có giá trị, không nghĩa lý gì hết. Đã không có người mai mối, giới thiệu, cũng không có sính lễ, tức chẳng một nghi thức nào ràng buộc, thật y như một trò đùa.
Thu Trân tuy không dám nói ra, song quả tình cũng cảm thấy việc hôn nhân trọng đại mà tính sơ sài như thế thật là bất ổn. Nàng chỉ tán thành phụ thân một điểm, là nàng hãy còn trẻ, dù năm ba năm nữa sẽ bàn tới việc hôn nhân cũng chẳng muộn. Đúng ra, nàng không hề nghĩ đến chuyện kết hôn gì cả, mà tâm nguyện của nàng là tiếp tục được học, tốt nghiệp cao trung, rồi lên đại học. Nàng muốn có sức học khá, để dễ tự lập, chớ không thích ỷ lại vào người khác.
Nãy giờ, thấy phụ mẫu kém hòa hợp về chuyện của mình, Thu Trân chẳng an tâm, nàng lựa lời góp ý:
- Thưa ba má, xin ba má đừng bận tâm tới vụ đó làm chi bởi vì hiện tại điều cần ích nhất cho con là học tập, còn chuyện gì khác, xin thủng thẳng sẽ bàn sau ạ.
- Sao lại thủng thẳng? Con gái đã mười bảy, mười tám tuổi rồi, đâu phải còn nhỏ. Xưa nay, hễ con trai lớn thì phải cưới vợ, con gái lớn phải lấy chồng, lẽ đương nhiên như vậy. Nếu có chỗ xứng đáng, đàng hoàng, thì cô nên ưng người ta phứt cho xong, còn hơn bám mãi vào nhà này, thêm nặng gánh, nghe chưa?
Nghe qua lời kế mẫu, Thu Trân không khỏi đau xót, buồn tủi, vì rõ ràng bà ta coi nàng là một kẻ ăn bám, chỉ muốn gả phứt đi cho rồi.
Nàng toan nói mấy tiếng phản kháng, nhưng không dám, đành nuốt nghẹn, cúi đầu lặng thinh.
Nhưng Xuân Châu lại lên tiếng:
- Má! Sao má nói vậy? Chị hai ở nhà này là lẽ tự nhiên, chớ sao gọi là gánh nặng?
Kế mẫu lạnh lùng:
- Hừ, con gái lớn rồi mà lúc nào cũng dàu dàu cái bản mặt như đưa ma. Như thế, không phải có bất mãn, ta thán vì không được ăn ngon, không được mặc đẹp dó sao? Ai mà lo cho nổi. Tốt hơn nên đi lấy chồng, có bên chồng nó lo cho.
Thu Trân làm gan mở miệng:
- Thưa má, có lẽ má đã hiểu oan cho con rồi. Con chẳng bao giờ mơ tưởng ăn ngon mặc đẹp chi hết. Con chỉ mong có sách vở học, là đủ lắm rồi.
- Nhưng con gái không cần học cao. Bổn phận của phụ nữ là săn sóc chồng, dạy con. Người con gái nào lớn lên cũng phải lấy chồng, sinh con, thử hỏi cứ lo đọc cho đầy bụng sách vở kinh luân để làm gì, có phải là uổng tiền ăn học không? Nói thật đấy, ngay như con Xuân Châu, vài ba năm nữa, cũng cần kiếm chỗ gả chồng như thường.
Xuân Châu nhún vai, lắc đầu:
- Khỏi có chuyện đó! Con cho má hay, nếu không lên tới đại học thì dù má có chặt đầu con, thì cũng đừng hòng bắt con lấy chồng.
Được Xuân Châu nói lên thay cho lời của chính mình muốn nói, Thu Trân lấy làm hả dạ. Nào ngờ kế mẫu chẳng lý gì đến Xuân Châu, mà quay sang thân phụ nàng, hí hửng kể:
- Sáng nay, bà Tư ở nhà bên cạnh có đến nói chuyện với tôi về con Thu Trân. Bà ấy làm mai một chỗ rất xứng đáng, đàng trai là một người Nhật rất giàu, đang làm chủ nhiều cửa tiệm lớn; lại có địa vị cao trong xã hội đương thời... vừa rồi, vợ ông ta bị tai nạn hàng không, chết tan xác, nên ông ta muốn tục huyền, để có người phụ lực trông nom sự nghiệp.
Phụ thân Thu Trân hỏi:
- Đã lớn tuổi chưa? Đời vợ trước còn để lại đứa con nào không?
- Ba mươi tám tuổi. Dường như chỉ có đứa con trai bốn tuổi. Con Thu Trân nhà mình mà lấy được người chồng Nhật như thế là vô cùng vinh hạnh, rất có lợi cho nhà mình.
Thu Trân không ngờ câu chuyện lại đi đến chiều hướng như thế này.
Kế mẫu quan niệm có một ông chồng ngoại nhân dường ấy là vinh hạnh. Nhưng Thu Trân lại cho là điều sỉ nhục.
Nàng cắn chặt răng, nén tức giận, cố lấy giọng bình tĩnh:
- Thưa má, con hy vọng học đến tốt nghiệp Cao Trung xong, sẽ tính vấn đề hôn nhân.
Kế mẫu quắc mắt:
- Cô chê người ta lớn tuổi chớ gì? Cô ghen với đời vợ trước của người ta, phải không?
Thu Trân uất ức đến run cả tay chân lẫn tiếng nói:
- Không! Con không... không hề có ý đó.
Thấy Thu Trân sắp khóc, phụ thân nàng không đành lòng, liền can thiệp:
- Thu Trân mới mười bảy tuổi, lại còn đang đi học, đã có kinh nghiệm gì mà tự dưng về nuôi con nhà người ta đã bốn, năm tuổi. Không tiện đâu. Chuyện ấy hãy gác lại, thủng thẳng sẽ bàn sau.
Kế mẫu giở giọng đanh đá ngay:
- Ông nói vậy mà nói được ư? Thế hồi đó, lúc ông lấy tôi thì sao? Tôi mới mười chín tuổi, ông lớn hơn tôi những mười sáu tuổi, mà ông cũng chả giàu có gì, thế sao tôi vẫn ưng về làm vợ ông, lo nuôi cả con ông cho tới ngày giờ này? Bây giờ tôi đã cậy cục tìm được cho con Thu Trân gặp chỗ xứng đáng dường ấy, sao ông lại ngăn cản? Bộ ông cho là tôi làm hại nó chăng?
Tình thương cha trỗi dậy, Thu Trân chẳng nhịn được, nghiêm trang ngó kế mẫu, nói bằng giọng cương quyết:
- Thưa má, được má quan hoài đến việc tương lai đời con, con rất cảm kích. Thật ra, con không chê người ta lớn tuổi hay gì gì hết, mà chỉ nghĩ hơi khác má một điểm, nói ra xin má bỏ qua cho, là con không thích có chồng ngoại nhân, thế thôi.
Như bị tạt vào mặt gáo nước lạnh, kế mẫu Thu Trân nổi hung, vỗ bàn đánh "rầm" một cái, khiến chén dĩa ngã nghiêng, vừa chồm lên, la ó:
- Người ta tu chín kiếp, cầu có chồng ngoại quốc, giàu có, cho sướng cái thân, còn không được. Còn mày, mày là cái thá gì mà bày đặt chê bai? Nói! Nói cho trôi, mày là cái thá gì mà chê người ta, hả?
Thân phụ Thu Trân giận tái mặt, chân tay run lẩy bẩy, nhưng hình như không muốn chuyện bất hòa thêm rùm beng, ông gắng gượng ôn tồn khuyên:
- Bà làm gì mà dữ vậy? Bề nào cũng đang bữa cơm, hãy ăn xong cho vui vẻ cái đã, rồi chuyện đâu còn có đó, sẽ bàn thêm sau, muộn màng gì!
- Không có cái gì phải bàn thêm nữa hết. Nó là con. Tôi đã khổ cực nuôi nó từ nhỏ tới lớn, tôi có quyền định đoạt việc dựng vợ gả chồng cho nó. Nếu nó cãi lời thì mau mau cút khỏi nhà này, đừng có ăn hột cơm nào của tôi nữa.
Thu Trân ứa nước mắt, vì cố nén nhịn uất hận. Nếu không kịp nghĩ thương cha già, nàng đã đứng phắt dậy, sẵn sàng cho kế mẫu biết là nàng chấp nhận thoát ly gia đình và nàng sẽ ra đi lập tức. Nàng sợ gì; cùng lắm thì nàng đến ở với bà cô như tổ mẫu nàng đã dặn dò lúc lâm chung, chớ có bơ vơ đâu. Tuy nhiên, bấy lâu này nàng không đủ can đảm làm thế, vì không muốn gây cảnh thương tâm trầm trọng cho thân phụ.
Xuân Châu chẳng kiên nhẫn được nữa:
- Má! Không phải con có ý chống đối má, nhưng... con nghe sao kỳ quá. Theo con nghĩ thì mỗi người có một ý thích, không thể cưỡng bách vô lý được. Nếu má thực tâm thương yêu, lo lắng cho chị hai con, thì má cũng nên để cho chị hai con được bày tỏ ý kiến với chớ? Trái lại, má cứ khăng khăng ép buộc, là tại sao? Má cho việc lấy chồng ngoại quốc là vinh dự, nhưng tụi con không nghĩ như má. Riêng con, xin nói thật, con cũng phản đối, một ngàn, một vạn lần phản đối!...
Bị Xuân Châu dồn cho một hồi, bà ta vừa giận vừa thẹn, cơ hồ phát run. Nhưng Xuân Châu quả nhiên lợi hại, chẳng đợi bà ta kịp phản ứng, đã bồi thêm một đòn đúng vào chỗ yếu của bà ta:
- Má! Má khỏi nổi nóng, con hiểu ý má rồi, má sợ chị em tụi con ăn hại, hết cơm hết gạo nhà này đi, phải không? Được rồi, không sao đâu, tụi con đã có cách cho vừa bụng má!... Chị hai, chúng ta đi thôi! Chúng ta xin vô công xưởng, làm thuê dù dở gì cũng không đến nỗi chết đói!
Vừa nói, Xuân Châu vừa đặt chén đũa xuống, nắm tay Thu Trân kéo đứng dậy.
Kế mẫu Thu Trân không còn đủ sức giận dữ nữa, mà tự dưng ôm mặt khóc ròng.
Phụ thân Thu Trân lộ vẻ khoan khoái. Nhưng ông ta vẫn muốn cho yên cửa yên nhà, bèn ngăn giữ Xuân Châu lại và giả bộ trách mắng.
- Xuân Châu! Mới mười mấy tuổi đầu mà con đã bắt chước ai, ăn nói vô lễ. Má của con chỉ nói thế chứ đã ép buộc gì chị hai con đâu, sao con lại phản đối lăng nhăng quá vậy? Có mau xin lỗi má con hay không hả?
Xuân Châu lãnh hội ngay dụng ý của thân phụ, liền tuân lời, đến bên thân mẫu, tuy xin lỗi nhưng vẫn còn câu thòng đe dọa:
- Má! Con đã có lỗi, xin má nguyên lượng cho. Có điều, từ này về sau, yêu cầu má để yên cho chị hai với con cùng đi học, đến tốt nghiệp Cao Trung; nếu không thì... bất cứ lúc nào tụi con cũng có thể rời khỏi nhà mà tự do liệu lấy.
Bà ta không nói năng gì, cứ khóc, chứng tỏ đã... chịu thua.
Cảm thấy thương hại, Thu Trân nảy ý gỡ thể diện phần nào cho bà ta, nàng bước đến xin lỗi.
Nào ngờ bà ta bỗng ngẩng phắt dậy, vung tay tận lực giáng cho Thu Trân một cái tát như sấm sét.
Đau đớn thì Thu Trân có thể chịu đựng nổi, nhưng sự buồn tủi lại dâng lên, khiến nàng không còn làm cách nào hơn là chạy vụt vào buồng, nằm vật xuống giường, úp mặt vào gối, khóc nức nở.
Không biết đã trải qua bao lâu, đột nhiên Xuân Châu đến ngồi ở mép giường, âu yếm vỗ vỗ vai Thu Trân:
- Chị hai! Đừng buồn! Gặp hoàn cảnh này, chị ráng nhẫn nhịn cho xong...
Thu Trân choàng dậy, ôm chầm lấy Xuân Châu, đầy cảm kích:
- Em! Chị không biết nói sao cho vừa với lòng tốt của em đối với chị. Em đã vì chị mà dám đắc tội với má thì chị dù có nhẫn nhịn một chút, nào đáng gì.
Tự dưng Xuân Châu cũng đầm đìa nước mắt, nghẹn ngào:
- Chỉ hận là em còn nhỏ tuổi, nếu khôn lớn hơn, em nhất định không thể chấp nhận cái lối sinh hoạt nghẹt thở ở trong cái nhà này. Tất cả đều do má gây nên. Má càng thiên vị, cưng chìu em mà ngược đãi chị, khiến em càng xấu hổ, khổ sở! Thật chả hiểu nổi, trong nhà này có đông đảo gì cho cam, má đâu có năm bảy người con mà cứ đem dạ hẹp hòi đối xử với chị, sao chẳng lấy tình thương tạo yên vui chung?
- Có lẽ do má với chị không hạp tuổi. Mà thôi em ạ! Miễn có em bên cạnh, một người em gái thiện lương, nhân từ bác ái, một tâm hồn vĩ đại... là vô vàn an ủi cho chị rồi.
- Chị hai đừng nói vậy. Sở dĩ ngày nay em tương đối biết đạo lý làm người là đều nhờ chị cả. Chính chị mới vĩ đại, đã cảm hóa em...
Xuân Châu bỗng đổi buồn làm vui, đưa tay xoa lên má Thu Trân, nhoẻn miệng cười:
- Mặc dù bữa nay chị bị bả tặng cho cái tát trời giáng, nhưng kể ra chúng ta đại thắng lợi. Cái vụ bả lập tâm bán đứng chị cho ông phú thương ngoại nhân, cầm bằng như hư bột hư đường mà vãn sớm rồi; không còn phải lo ngại gì nữa. Ngoài ra, từ nay chị có quyền yên chí lớn, sẽ tiếp tục lên Cao Trung, học với em như thường.
- Xuân Châu! Cho tới ngày giờ này chị vẫn còn được cấp sách đến trường và trong những tháng năm sắp tới, chị lại được tiếp nối cuộc đời một nữ sinh, đều nhờ ơn em.
- Nhưng ngày giờ này em trở nên một nữ sinh tốt, là hoàn toàn nhờ ơn chị.
Hai chị em cùng cười mà nhìn nhau, trong khi lệ nóng vẫn chan hoà.
Thu Trân và Xuân Châu lại tiến thêm một quãng nữa trên đường học vấn, vừa trải qua niên khóa thứ nhất cấp Cao Trung, tức học xong lớp mười.
Thành tích về mọi môn học Xuân Châu đều theo gần bằng chị, cuối năm Thu Trân đứng hạng năm còn Xuân Châu đứng hạng bảy.
Thu Trân rất mừng cho em và cực lực khuyến khích:
- Niên học tới, lên lớp Mười một, em gắng lên tí nữa, hy vọng sẽ vượt qua chị đấy. Ráng nhé!
Xuân Châu bật cười, thật chân thành:
- Trừ phi chị cố ý xao lãng học, còn thì, bất luận như thế nào, em cũng vô phương qua mặt chị nổi.
Nhằm lúc thím Trương bệnh, xin nghỉ việc, kế mẫu Thu Trân nhất định không chịu thuê người làm mới, mà dồn tất cả gia vụ vào Thu Trân, bắt nàng phải chu toàn mọi công việc lớn nhỏ trong nhà.
May là nhà chẳng đông người. Thu Trân lại cũng khôn lớn rồi nên liệu lý các việc đâu vào đấy, không đến nỗi cực nhọc thái quá.
Gặp dịp nghỉ hè, hằng ngày Thu Trân làm xong hết công tác nội trợ, vẫn còn dư thì giờ để đọc sách, ôn tập bài vở và thêu thùa may vá. Gia dĩ, lúc nào cũng có Xuân Châu trợ lực, công việc càng chóng tươm tất.
Kế mẫu vẫn đi đánh bài suốt ngày, thành thử không rảnh để làm khó dễ gì Thu Trân. Đúng ra thì tự Thu Trân cũng chẳng có sơ xuất gì cho bà ta kiếm chuyện được. Mỗi khi bà ta từ sòng bài về đến nhà, là Thu Trân dâng trà tận tay, dọn cơm tận miệng và cả đến nước nôi tắm rửa, nàng cũng lo sẵn. Như vậy, so ra còn hơn thuê đầy tớ nhiều, bà ta còn đòi chi hơn...
Chiều nay, thân phụ Thu Trân từ phố trở về nhà với dáng điệu vội vàng, đầy hoan hỉ.
Ông lấy trong túi ra một phong thư, đựng một bức thư khá dài và bốn tấm ảnh, tươi cười bảo:
- Thu Trân, con lại đây xem thử cậu thiếu niên trong ảnh này, có anh tuấn không nào?
Thu Trân ngơ ngác như con nai vàng. Đầu óc nàng không khỏi suy đoán, phải chăng "anh chàng" Tường Phương của nhà họ Lương từ Thượng Hải gởi ảnh tới?
Tự nhiên nàng nóng mặt, đỏ bừng đôi má, rồi không dám bước tới xem ảnh nữa.
Xuân Châu đã nhanh chân sấn lại, cầm lấy tấm ảnh, ngắm nghía một hồi, bỗng vỗ tay nhảy choi choi như con chim sẻ, hỏi:
- Ba, đây là ảnh của Tường Phương, anh rể của con, phải không ba?
Phụ thân nàng gật đầu. Nhiều năm nay, nàng nhận thấy đây có lẽ là lần ông cao hứng nhất. Ông cười như hoa nở:
- Phải rồi! Tiểu nha đầu, mau đem lại cho chị con coi đi!
Xuân Châu nhăn mặt nheo mắt ngó Thu Trân một cái, vừa cầm tấm ảnh mang qua, nhưng khi Thu Trân mới vừa chìa tay ra, chưa kịp tiếp lấy, thì Xuân Châu bất thần rụt lại và ngoẹo đầu, cười khanh khách:
- Chị hai! Không được vội... bồ! Úi chu choa! Trông ảnh mà còn thế này, nếu là con người thật thì phong lưu anh tuấn biết chừng nào. Đúng là một mỹ nam tử. Chị phải hứa đãi em một chầu kem thì em mới cho xem.
Thu Trân bị em làm cho lỡ bộ, còn trêu ghẹo thêm, đâm ra thẹn chín người, đến hai vành tai cũng bừng đỏ. Nàng không biết đối đáp ra sao cho xuôi, chỉ có nước nhìn em gái mà cười trừ.
Phụ thân nàng cũng cười rộ, vừa la Xuân Châu:
- Tiểu nha đầu! Giỡn gì mà giỡn lãng vậy nè! Có mau đưa ảnh cho chị con hay không? Rồi ba đãi ăn kem, mặc sức mà ăn.
Xuân Châu lại làm bộ bước chậm chậm một hồi, mới đặt bức ảnh vào tay Thu Trân. Nàng phải "làm gan" cầm ảnh lên xem.
Đây là ảnh bán thân một thiếu niên mặc âu phục, đầu hớt cao, mặt mũi khôi ngô, tề chỉnh, mi thanh mục tú, vừa phong lưu tiêu sái, vừa hiên ngang khí khái.
Nói cho công bình thì bất luận người con gái nào cũng mong có người chồng anh tuấn cả, cố nhiên tâm lý Thu Trân không vượt ngoài thông lệ ấy. Cho nên, khi xem bức ảnh này, nàng không khỏi ngấm ngầm vui mừng. Nàng không ngờ vị hôn phu do việc "chỉ phúc vi hôn" lại là một chàng trai khí độ bất phàm như thế này.
Tuy nhiên, theo với nỗi vui mừng nàng lại cảm thấy man mác hoài nghi, buồn buồn, vì chợt nghĩ:
- Một thiếu niên anh tuấn có học như chàng lại có thể dễ dàng tán thành cuộc hứa hôn mơ hồ, mù mờ của cha mẹ. Đành rằng phụ mẫu chàng phải giữ đúng lời giao kết, nhưng phần chàng, liệu có thực tâm tuân theo hôn ước chăng? Néu chàng chẳng tán thành hay chỉ miễn cưỡng tuân theo, thì sao? Chàng đang sống ở một dô thị hoa lệ như Thượng Hải, lại là một sinh viên tuấn tú, dễ gì chẳng giao du với ít nhiều bạn gái cùng lứa tuổi, thiếu chi người đẹp và sang giàu? Nếu chàng đã có người yêu thì sao?
Thu Trân mãi thầm tự vấn đến quên lửng đi Xuân Châu hiện diện bên cạnh, đang chú mục nhìn nàng, trong khi nàng cứ sững sờ ngắm bức ảnh.
Xuân Châu bật cười ha ha, gọi lớn:
- Ba ơi! Ba coi chị hai con xem xong vị như ý lang quân rồi đâm ra tương tư, không chịu rời mắt khỏi tấm ảnh.
Thu Trân như sực tỉnh cơn mộng, hấp tấp đặt bức ảnh lên mặt bàn và nguýt Xuân Châu một cái để chữa thẹn.
Ngay lúc ấy, thình lình bà kế mẫu xuất hiện, hỏi:
- Chuyện gì mà Xuân Châu cười thích thú quá vậy?
Xuân Châu vốn ngay thẳng thật tình, liền lấy bức ảnh đưa cho bà ta và tươi cười khoe:
- Má! Đây là anh Lương Tường Phương, vị hôn phu của chị hai con, má xem, thật đẹp trai, có vẻ người lớn ghê chưa?
Bà ta coi ảnh một hồi, sắc diện dửng dưng chợt quay sang ông chồng, cất giọng lạnh lùng:
- Cái này là gì? Hình của ai vậy?
- Hôm nay tôi ra văn phòng công ty, nhận được thư của anh Minh Đăng từ Thượng Hải gởi đến, trong thư có kèm theo bốn tấm ảnh, chụp một kiểu, tức là ảnh này. Anh Minh Đăng cho biết đây là con trai anh ấy, cậu Lương Tường Phương năm vừa rồi đã tốt nghiệp Cao Trung, đang theo Đại Học Luật, năm thứ nhất. Anh Minh Đăng ngỏ ý muốn tôi cũng gởi ảnh của con Thu Trân đến cho anh ấy và gia đình biết mặt nhất là để đôi trẻ nhận thức diện mục nhau. Sau đó, sẽ cho phép hai đứa nó thường xuyên liên lạc thư từ, đặng tìm hiểu tánh ý nhau, xây dựng tình cảm dần dần.
Nói tới đây, ông càng rạng rỡ nét mặt, bật cười ha hả một loạt, lại tiếp:
- Tôi đã biết chắc mà, ai chớ anh Minh Đăng thì tín nghĩa chắc nịch, đã hứa cái gì là nhất định giữ lời. Anh ấy làm việc đều có phương pháp kế hoạch chu đáo, cứ từng bước, từng bước tiến hành không thất bại bao giờ!
Thu Trân xem chừng kế mẫu càng lúc càng lộ nét bất bình. Bà ta chỉ cười lạt chớ chẳng thèm nói một tiếng.
Phụ thân nàng đang cao hứng, không buồn để ý đến nét bất bình của bà ta, cứ thao thao:
- Về cái vụ người thương gia ngoại quốc cầu hôn Thu Trân năm ngoái, may là Xuân Châu ngăn cản được, nếu không thì không biết bây giờ tôi lấy lời lẽ nào mà giải thích cho trôi với anh Minh Đăng.
- Hả? Ông nói cái gì? Bộ ông cho rằng cái vụ hứa hôn kẻ chân trời người góc biển này là chắc chắn lắm sao? Hừ, nếu thực tâm giữ lời, sao người ta không thân hành đến đây, mà cứ mãi ngàn trùng đâu đâu, cả chục năm mới gởi một lá thư? Còn vị phú thương Nhật ấy, ai mà cần cưới con gái cưng của ông? Người ta đã có vợ khác rồi, vừa trẻ đẹp, hiền thục vừa giàu có. Ha ha... bộ muốn làm một bà chủ dễ lắm sao? Đi lạy người ta chưa chắc đã được.
Bầu không khí vui vẻ đang tràn đầy trong nhà bỗng trở nên u ám, nghẹt thở vì lời lẽ của bà ta.
Ánh mắt thân phụ Thu Trân long lên. Nhưng ông kịp nén cơn giận, cho đúng truyền thống "vui cửa vui nhà", nên chẳng nói gì hết, mà cứ rít liên tiếp hết hơi thuốc này tới hơi thuốc khác, nhả khói mù mịt.
Xuân Châu bực tức ra mặt, toan lên tiếng. Thu Trân vội láy mắt ra hiệu khuyên ngăn. Xuân châu không nói được, phải cắn chặt vành môi và mắt rơm rớm lệ.
May thay giữa cơn căng thẳng ấy, chợt có một bà hàng xóm đến rủ kế mẫu Thu Trân đi gầy sòng.
Nghe nói tới đánh bài, bà ta tươi rói ngay sắc diện và hăng hái đi liền.
Đợi bà vợ trẻ đi khuất dạng rồi thân phụ Thu Trân vung tay ném mạnh mẩu tàn thuốc, thở dài, dàu dàu:
- Không biết trái tim của bả bằng đá hay gỗ?
Xuân Châu lắc đầu, giọng chán nản:
- Chắc là bằng đất sét! Thật không tưởng tượng nổi!... Nếu không có bà khách kêu má đi đánh bài, chắc phen này thế nào má cũng đánh con vì hồi nãy, con nhịn hết kham, suýt tí nữa là đã nói hỗn rồi.
- Xuân Châu! Con thì nhân từ, lương ái, còn má con thì hẹp lượng, khắc nghiệt, ba thật không ngờ người đàn bà như thế lại sinh ra đứa con gái như con.
- Bởi vì con là con gái của ba!
Xuân Châu quả là một thiếu nữ thẳng thắn, hồn nhiên, đang buồn bỗng nhớ đến một chuyện, liền tười cười liến thoắng:
- Ba! Thôi đừng nhắc tới chuyện chán như cơm nguội đó nữa. Bây giờ tía con mình bàn về vụ chụp hình chị hai con, để gởi cho bác Đăng...
- Để ba viết thư hồi đáp, lấy mấy tấm ảnh của Thu Trân gởi kèm theo. Đơn giản như thế thôi có gì mà phải bàn tính?
- Ơ! Ba thiệt là lẩm cẩm! Hai năm nay chị hai con đâu có chụp hình, chẳng lẽ ba lấy hình cũ ba bốn năm trước mà gởi cho người ta? Chị hai con hiện giờ cao lớn như vậy, xinh đẹp như vậy, ba lại nhè lấy hình cũ gởi đi, không khéo người ta tưởng là một tiểu nha đầu nào, thì "kẹt" quá. Anh rể của con sẽ... khóc ròng đấy.
Ngẫu nhiên Xuân Châu đã nói trúng phóc tâm trạng Thu Trân. Vì mắc cở, Thu Trân không tiện đưa ý kiến, chớ thật ra nàng vốn đang băn khoăn điều đó, chẳng lẽ gởi ảnh cũ mấy năm trước cho vị hôn phu, coi "kỳ" quá.
Được Xuân Châu đề nghị hộ như thế, nàng vừa khoan khoái, vừa cảm động, nhưng chẳng biết nói sao cho ổn, chỉ đưa mắt hàm ý biết ơn nhìn em gái.
Phụ thân nàng kêu "ủa" một tiếng:
- Đúng! Có con tiểu nha đầu này nhắc, ba mới nhớ. Hay lắm! Bây giờ hai con mau vào thay đổi y phục, nhất là Thu Trân, hãy trang điểm cho đàng hoàng, rồi ba dẫn đi chụp hình ngay.
Thu Trân vô cùng hứng khởi, vì đã lâu lắm rồi, mới được cùng đi với ba ra phố. Nàng vội kéo tay Xuân Châu:
- Đi, em! Em phải theo "hộ tống" chị chứ!
Xuân Châu bỗng lắc đầu:
- Em khỏi cần đi. Em phải ở nhà, coi chừng nhà chứ.
Người cha già nua như bừng trẻ hẳn lại:
- Ấy! Xuân Châu cũng phải đi mới được. Ba phải cho chụp sẵn hình con, để mai kia mốt nọ có ai cầu hôn con, ba sẽ có hình mà dùng liền chứ. Nhà khỏi coi chừng cứ khóa cửa lại là xong.
Xuân Châu đi theo chị, vừa ửng hồng sắc diện quay lại nũng nịu:
- Con hỏng chụp hình đâu. Con hỏng thích nghe ai nói tới chuyện cầu hôn đâu!
- Cái gì cũng không chịu hết, nhưng chắc chắn là chịu ăn kem! Ban nãy con đã chẳng đòi Thu Trân đãi con một chầu kem là gì? Được rồi, hãy cùng đi, chụp hình xong, ba sẽ mời hai con đi ăn kem, rồi đi xem xi nê luôn. Chịu chứ?
- Ha ha! Hoan nghênh bốn tay! Vạn tuế ba!
Xuân Châu vỗ tay reo hò và kéo Thu Trân vào buồng thật nhanh.
Thân phụ Thu Trân bỗng gọi:
- Thu Trân! Con lấy tấm ảnh của Tường Phương mà cất giữ đi chứ!
Thu Trân còn đang ngập ngừng e thẹn thì Xuân Châu đã chạy trở lại bàn, lấy bức ảnh, dúi vào tận tay chị, rồi lại đưa nhau về buồng thay đổi y trang...
<< Lùi - Tiếp theo

HOMECHAT
1 | 1 | 188
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com