watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
14:30:4318/05/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Nhục Bồ Đoàn - Trang 11
Chỉ mục bài viết
Nhục Bồ Đoàn
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Tất cả các trang
Trang 11 trong tổng số 11

Hồi 18
Vợ con lưu lạc, rõ ràng trả nợ
Anh em trác táng, quả báo lãnh nghầm.

Sự đắc ý của Bán Dạ Sinh đã kể hết đến tám chín phần, còn chuyện thất ý thì chưa được một hai phần. Nay hãy xét xem ân oán giang hồ, Sinh giải quyết cách nào.
Ðộc giả chắc còn nhớ vợ của Sinh, là Quý Hương đã cùng với a hoàn tên Như Ý đào tỵ theo Quyền Lão Thực. đến nơi nọ thì nghiệt chướng trong bụng nàng tuột mất. Phải chi trước đây nó tuột đi sớm hơn, thì đâu có lỡ dở đời nàng. Bây giờ làm gái có chồng, bỏ nhà theo trai, làm sao trở về. Có phải đây là mối oan nghiệt chồng nàng đã tạo, mà nàng gánh chịu không?
Lúc đầu Quyền Lão Thực đến cốt tầm cừu, chứ không vì ham dâm hiếu sắc, chừng đem nàng đi trốn mới nẩy sanh ý đem vợ kẻ thù bán vào nhà thổ. Chỉ vì nàng đang thai nghén, chưa biết sanh trai hay gái, nghĩ rằng nàng đang mang hạt máu mình, tình cốt nhục sẽ phải chào đời chốn nhơ, sau này không ra gì, nên còn do dự bất quyết.
Bây giờ nàng đã hư thai, vậy không chần chờ chi nữa. Ngay trong đêm, lão đưa cả hai chủ tớ lên kinh đô, tìm người đưa mối. Nhưng muốn bán người lương thiện làm điếm thì phải bày mưu lập kế, giả đò như có bà con ở đây, muốn tìm chỗ trú tạm, rồi đưa người đến xem mắt, nếu vừa ý thì gạt đến nơi ấy. Nơi kinh sư có một mụ tú bà rất nổi tiếng, tên Cố Tiên nương. Mụ thấy Quý Hương thì biết ngay là người ngọc, bèn mua ngay, theo y giá ra từ người đưa mối. Mụ cũng mua luôn Như Ý về hầu hạ cho nàng như xưa.
Quyền Lão Thực lúc chưa bán Quý Hương thì trong bụng chỉ nghĩ đến việc báo thù, nhưng khi bán xong thì dần dần thấy hối hận. Lão tự nghĩ: Trong kinh Phật có câu:
Dục trì tiền thế nhân, kim sinh thụ giả thị
Dục tri lai thế quả, kim sinh thụ giả thị
Có nghĩa:
Muốn biết kiếp trước mình đã gieo nhân gì
Hãy xem kiếp này mình đã nhận quả gì
Muốn biết kiếp sau mình sẽ nhận quả gì
Thì cứ xem kiếp này mình đang làm điều gì.

Kiếp này mình lơ là bất cẩn, đến nỗi vợ làm chuyện tồi bại, há không phải vì kiếp trước mình gian dâm với vợ người ta, nên kiếp này vợ mình bị người ta gian dâm hay sao. Nếu mình biết cam chịu để rửa sạch tiền oan nghiệp chướng kiếp trước thì hay biết bao, cớ sao lại đi gian dâm để trả oán. Nếu bảo là để báo thù, thôi thì cứ ngủ với vợ người ta vài đêm cũng đủ hả giận rồi, cớ sao lại đem bán vợ người ta vào nhà thổ, khiến cho vợ một người thành thiếp của muôn người, chẳng lẽ mình thù với chồng họ, người khác cũng có thù với chồng người ta sao. Bán một mình người ta làm đĩ, tội đủ nặng rồi, cớ sao lại bán luôn người hầu vô tội của người ta, chẳng lẽ người ta có chồng thù với mình, mà kẻ hầu của người ta cũng lại có chồng thù với mình sao."
Nghĩ đến đây, Quyền Lão Thực bất giác mặt mày ủ rủ, tự trách mình, nhưng chuyện đã lỡ dĩ rồi, chỉ muốn sám hối mà thôi. Lão bèn đem hết của cải bố thí cho người tàn tật, còn chính mình thì thí phát, vân du đây đó để tầm sư học đạo. Sau cùng lão đến Cao Thượng Sơn, gặp Cô Phong trưởng lão. Biết là vị Phật sống, lão bèn xin quy y, sau tu hành được mười năm thì thành đạo.
Còn tiểu thư Quý Hương và nũ tỳ Như Ý, khi đặt chân vào động của Tiên nương thì biết đây là nơi thờ thần Bạch mi, mình đã lầm mưu kẻ xấu, nhưng biết làm sao. Huống chi nghĩ thân mình thất tiết, còn coi đàn ông ra gì, bèn kể hết lai lịch cho Tiên Nương nghe, xong từ đó chính thức trở thành gái lầu xanh. Lại thay tên đổi họ để tiện hành nghề.
Khách đầu tiên đến, là một lão phú ông. Lão ngủ được một đêm, qua đêm sau đòi về, Cố Tiên nưong cầm giữ cách mấy cũng không được. Lúc sắp ra đi lão dặn Tiên Nương:
"Con bé dung mạo, phong tư đều được cả, có điều còn thiếu ba ngón tuyệt kỹ khó mà thưởng thức. Bà là một tướng giỏi, chẳng lẽ dưới trướng lại có một tên lính hèn như thế, hãy huấn luyện cho nó đi. Bây giờ ta cáo biệt, bao giờ con bé thuần thục, ta mới trở lại"
Cố Tiên nương vốn sở trường ba ngón tuyệt diệu, đàn bà con gái xưa nay không hề nghĩ tới. Vốn khi còn trẻ, tuy dung mạo không có gì hơn người, chữ nghĩa chả biết, nhưng mụ trong nghề tới ba chục năm, bướm ong dìu dặt, khách lui tới toàn bọn con ông cháu cha, kẻ tầm thường đâu dám bén mảng. Ðến năm năm mươi tuổi, mụ thành tú bà, vậy mà cũng còn khối tay cự phú tìm đến mụ hành lạc. Ngón nghề tuyệt diệu của mụ gồm có:
Thứ nhất là phủ âm tựu dương
Thứ hai là đĩnh âm tiếp dương
Thứ ba là xã âm gia dương
-Thế nào là phủ âm tựu dương?

Lúc hành lạc, người đàn ông cứ nằm ngửa ra, mụ sẽ trèo lên, cầm lấy dương vật nhét vô âm hộ, rồi hết nhổm lên lại ngồi xuống, khi đứng thời thôt xuống, khi ngồi thì ve vuốt. Những người đàn bà khác chỉ làm được như vậy vài ba lần là chân cẳng rụng rời, không thể chuyển động được nữa. còn mụ thì cặp đầu gối như đúc bằng đồng, mà càng hành dâm càng thêm khí lực. Mà mụ làm thế có phải chỉ vì khách thôi đâu, mụ còn làm vì khoái lạc cho chính mụ nữa.
-Thế nào là đĩnh âm tiếp dương?
Khi mụ nằm dưới, nhưng lúc giao hoan, lại không để đàn ông ra sức, mà lúc nào mụ cũng nãy người lên tiếp sức cho đàn ông. Người đàn ông ấn nhịp xuống thời mụ cũng ưỡn nhịp lên, cả hai cùng hoan hỉ, như con nít bắt bướm vậy. Làm như vậy, mụ đỡ cho người đàn ông phân nửa sức lực, mà phần mụ chỗ kín cũng được phân nửa sức công phá.
Mụ thường nói với mọi người:
"Chuyện khoái lạc trong thiên hạ, đâu phải chỉ có một người làm được. Âm phải hợp với dương, dương cũng phải hợp với âm, như nhế mới là âm dương giao hoán. Nếu người đàn bà cứ nằm trơ ra để mặc cho người đà ông một mình chọc vào, thì sao người ta khi nắn tượng mỹ nhân, giữa khoảng hai bên đùi không khoét một cái lỗ thật sâu, chỉ cần nhét dương vật vào rồi kéo ra thọt vào, há cần phải có đàn bà để giao hoan? Người biết đào tạo danh kỹ ở đời, ắt phải hiểu lẽ đó để vừa gây khoái cảm cho đệ tử của mình, vừa cho tân khách mới phải.
-Thế nào là xả âm trợ dương?
Phép này còn huyền diệu hơn nữa, vốn là người nữ khi thương yêu nam hết lòng mới chịu cho âm tinh xuất, chứ không để âm tinh tiết ra một cách vô ích, nên khi xuất muốn cho người yêu được bồi bổ ích lợi, phải biết kỹ thuật.
Phàm khi sắp sửa ra, người đàn bà phải làm cho quy đầu vào đúng vị trí nơi hoa tâm, dương vật tuyệt đối bất động, để cho cái lỗ nơi hoa tân ăn khớp với cái lỗ trên quy đầu, người nữ dùng kỹ thuật vặn người quanh eo cho âm tinh ứa ra, vô thẳng ống nơi dương vật. Dược như vậy, đàn ông già hóa trẻ, tinh thần phấn chấn, sảng khoái hơn bất kỳ thứ gì trên đời bồi bổ cho. Phải biết rằng trên đời không có gì quý hơn âm tinh. Nhân sâm, phụ tử đã không công hiệu bằng, mà ngay cả thuốc trường sinh bất tử cũng thua xa.
Mụ đã học được phép này từ năm tuổi mới mười sáu, nhiều khách làng chơi đã được hưởng phép này mà tinh thần sảng khoái, sắc diện tốt tươi. Vì coi là mụ học được tiên thuật, nên gôi mụ Cố Tiên nương.

Phép hấp tinh này thật ra cũng dễ, chỉ cần sao cho đặt đúng hai cái lỗ ăn khớp với nhau, thế mà chỉ có mụ biết làm đúng mà thôi. Do đó mới gọi là tuyệt kỹ.
Người khách đầu tiên đến với Quý Hương, vốn là khách mộ tiếng mà đến, không mộ tiếng nàng, mà mộ tiếng Cố Tiên nương là người có tài chăn gối. Người ấy cứ đinh ninh rằng các ả trong động chắc được mụ huấn luyện ắt thuộc hết bí quyết cả. Khách mập mạp, leo lên mình Quý Hương thọt được bốn năm chục cái là đã hào hển, đành phải leo xuống và bắt Quý Hương ở trên chủ động. Nàng chưa làm xong nổi mươi lần lên xuống là chân cẳng đã muốn rụng rời. Khách phải ôm hạ thân nàng mà nhấc lên kéo xuống, đúng ra nàng chỉ có đẹp mà khách mập kia mới thật có miếng. Vì nàng không biết gì về các ngón tuyệt kỹ trong nghề, nên lão khách chỉ hành lạc qua loa cho xong rồi về. Như ta đã biết, trước khi cáo biệt, lão ta còn ân cần nhắc mụ chủ phải truyền nghề cho nàng.
Lúc đầu nghe giảng lý thuyết, nàng không nghe hiểu, làm mãi không xong thành thử bị đòn vọt. Sau rồi mụ bắt nàng phải dự khán cách mụ giao hoan với khách để thấy tận mắt. Vì sợ bị đòn, nàng không chểnh mảng nữa, chú tâm luyện tập nên chỉ một hai tháng là đã ràng rẽ cả ba ngón tuyệt kỹ. Từ đó kỹ thuật đã không nhường chủ chút nào, lại thêm tư dung, văn nghĩa làm danh tiếng trên mụ hồi xưa thiệt xa.
Thế là dập dìu bướm lượn ong bay, tiếng tăm nàng lừng lẫy chốn king sư, vương tôn tới lui tấp nập. Trong số có hai quan viên trẻ ái mộ vô cùng, tính hào phóng, ngủ với nàng một đêm mà dám chi hai chục lượng vàng, càng ngày nàng càng được mụ tú cưng chiều.
Hai quan viên ấy là ai?

chính là chồng của Thụy Châu, Thụy Ngọc. Người tên là Ngọa Vân sinh, người tên là Ỳ Vân sinh. Họ đến kinh sư tòng học, nhân nghe tiếng Quý Hương nên tìm đến thưởng thức tài nghệ nàng. Hai anh em nói gạt nhau lén đi ngủ với nàng. Chỗ riêng tư cả hai đều khen nàng là con người văn học lễ nghĩa văn nhã trong chốn lầu xanh, nhưng Quý Hương lúc ấy nào màng gì huyết thống tôn ti, nếu có tiền nàng vẫn hành lạc được cả với khách ba đời cùng tộc cũng chả sao. Sau này, say mê hết sức, chả cần giấu nhau, hai anh em xuất cạn tiền, đem Quý Hương về nhà trọ cho thầy cùng hưởng. Thế là cả ba anh em thầy trò, cùng có dịp hưởng thụ Quý Hương, chăm chỉ học hỏi thú nguyệt hoa ngay trong thư phòng. Vô tình cả ba đã trả thù riêng với Bán Dạ Sinh một lượt.
Ở kinh đô được nmột năm, họ bỗng thấy nhớ nhà. Thế là sau khi xin phép quan trên, họ cùng từ biệt Quý Hương để trở về cố quận. Về đến nhà khi các phu nhân trẻ tò mò hỏi về cảng ăn chơi nơi đế đô, cả ba đều khoe rằng đã được tiểu nữ thần Bạch Mi cho thuốc cải lão hoàn đồng ra sao, nhất là họ không quên tán dương ba phương pháp tuyệt kỹ chốn phòng trung, nhưng không biết cách huấn luyện cho vợ nhà được.
Sáng hôm sau khi gặp nhau, ba chị em thuật lại cho nhai nghe những gì chồng mìng đã khoe, hóa ra các đấng lang quân một lòng khoe chuyện cùng từ một người danh kỹ mà thôi. Thụy Châu, Thụy Ngọc bực mình nói:
"Làm sao tin được có người đàn bà giỏi quá sức như vậy. Nói thế chả hóa ra bọn ta vô dụng, ngu ngốc hết sao? Họ chắc đặt điều khích mình cho tức thế thôi."
Hương Vân nói:
"Việc này ta hảy tạm gác lại. Người mà bấy lâu nay ba chị em mình chia nhau cùng ngủ vốn biết rộng hiểu nhiều. Nếu quả có hạng kỹ nữ như thế, chắc chàng biết rành hơn ai hết. Ðợi khi nào chàng đến, mình đem chuyện này ra hỏi lại. Nếu quả có thế thật mình bảo chính chàng tới tận nơi, học xong tuyệt kỹ ấy, về truyền cho chị em ta, tha hồ cùng nhau khoái lạc."
Thụy Châu, Thụy Ngọc đều khen phải.
Một hôm vào tiết Thanh minh, ba ông chồng đều đi tảo mộ qua ngàu hôm sau mới về.
Thừa dịp này, ba cô sai a hoàn mời Bán Dạ Sinh lén qua nhà. Lúc gặp chàng cả ba bèn đem thắc mắc ra hỏi.

Bán Dạ Sinh nói:
"Trên đời này có nhiều chuyện kỳ kỳ quái quái mình chưa từng nghe nói đến bao giờ, chẳng hạn như chuyện người kỹ nữ này. Nếu ả ở chốn kinh sư, thì thế nào kia anh cũng phải gặp phân tài cao thấp. còn ba chú đàn ông như thế này thì àm sao lường nổi bản lãnh người ta?"
Bàn tán một hồi, bốn người cùng lên giường hành lạc.
Sáng sớm hôm sau, Bán Dạ Sinh ra về, trong bụng nghẫm nghĩ:
"Chồng họ cùng về nói như vậy, chắc là chuyện này phải có. Ở đời có bậc dị nhân như vậy, chẳng lẽ mình không đến một lần cho biết. Người đẹp mình đã từng trải qua rất nhiều, đây là lúc lo bồi dưỡng. Ả danh kỹ kia hẳn có nhiều thuật diệu kỳ, mình chỉ cần ngủ một đêm là sẽ học được nghệ thuật, nhất là phép hấp âm tinh. Có được phép này thì tha hồ sung sướng suốt đời. Việc hay đến thế, sao mình không đi cho sớm?"
Chủ ý đã định, Sinh dự tính về quê thăm vợ, rồi sau đó tiến kinh để tìm ả danh kỹ kia.

Hồi 19
Oan nghiệt ngập dầu, oan kia sinh quả
Cơ trời sáng mắt, sắc nọ thành không.

Lúc sắp lên đường, Bán dạ sinh đến từ giả Tái Côn Lôn, nhờ Tái côn lôn lo liệu việc nhà cửa mình. Tái côn lôn nói:
"Gởi vợ, gởi con, không phải là việc tầm thường. Gởi con còn dễ, chứ gởi vợ rất khó. Anh là người thô kệch, chỉ có thể giúp em việc gạo nước, chứ không thể giúp em việc gìn giữ khuê môn. Em đi rồi, tronh nhà có thiếu hụt cái gì, anh lo phụ được, còn những việc khác anh không thể bao biện. Em phải dặn dò với vợ em."
Bán dạ sinh nói:
"Em chỉ nhờ việc gạo nước mà thôi, còn việc riêng em đã căn dặn vợ con rồi. Vợ em có kinh nghiệm, đối với em không giống như đối với chồng trước của nó. Mà đàn ông con trai ở đời này chắc cũng không hơn gì Quyền Lão Thực, nên không hợp với ní đâu. Nó đã nguyện cùng em ăn ở suốt đời, em nghĩ trên đời này đàn ông chắc không có người thứ hai bằng em, vậy xin anh yên tâm."
Tái côn lôn nói:
"Em nói phải, chỉ cần em tin cậy là anh yên tâm nhận lãnh việc em giao phó."

Bán dạ sinh từ giã Tái côn lôn xong bèn viết một bức thư mật và làm một bài thơ gửi cho Hoa Thần và chị em Hương Vân. Sinh còn cùng Diễm Phương ân ái vài đêm rồi mới lên đường.
Không bao lâu đến quê vợ, Sinh ghé về nhà Thiết phi đạo nhân. Sinh gõ cửa, gõ mãi mà không người ra mở. Chợt có bóng người thấp thoáng trong nhà, hồi lâu mới mở cửa. Sinh biết là Thiết phi đạo nhân, bèn cất tiếng:
"Thưa cha, con đây."
Ðạo nhân mở cửa, Sinh vào nhà hỏi thăm sức khỏe của cha vợ và của vợ.
Ðạo nhân than thở nói:
"Cha thì còn khỏe, nhưng vợ con không may, lúc con đi rồi, thì nó sanh bệnh, ăn ngủ không được, không đầy một năm thì chết. Thương thay"
Nói xong khóc oà.
Nghe thế Bán dạ sinh bèn hỏi:
"Sao có chuyện lạ như vậy"
Rồi đấm ngực, dậm chân, đau đớn muôn phần. Sinh lại hỏi:
"Linh cữu vợ con ở đâu? đã chôn chưa?"
Ðạo nhân nói:
"Còn quàn ở phòng đợi con về nhìn qua rồi mới đem chôn"
Bán dạ sinh sai người mở phòng, nằm bên linh cữu nghi ngút khói hương mà khóc rồi làm lễ trước người quá cố. sai cùng Sinh bình tĩnh nói:
"Cha con mình nên gấp mai táng cho nàng"

Thì ra lúc con gái trốn theo trai, đạo nhân sợ một là hàng xóm chê cười, hai là khi chàng rể về biết ăn nói làm sao, nên sai mua một cỗ áo quan đặt sẵn trong nhà, đợi Sinh về, nói thác là con gái chết vì bệnh.
Bán dạ sinh không nghi ngờ gì cả, chỉ tự trách mình đã bỏ bê vợ. Sinh cho rước cao tăng đến làm lễ cầu siêu suốt ba ngày ba đêm rồi mới khóc lóc chôn cất.
Xong xuôi, Sinh từ giả đạo nhân, nói là phải lên đường tiến kinh, kịp ngày ứng thí, nhưng chính là để học được thuật lạ.. Sinh phải lặn lội vất vả lắm mới đến nơi. Gởi xong hành lý, Sinh hỏi thăm đường tới xóm bình khang ngay, để gặp danh kỹ mà tiếng đồn khắp đế kinh.
Không ngờ mấy ngày trước, có một vị đường quan bắt nàng về ngủ, đã mấy ngày rồi mà không chịu trả về. Bán dạ sinh đành phải trở về quán trọ đợi suốt hai hôm. Khi trở lại, thì Cố Tiên nương nói:
"Ðêm qua con gái tôi có viết thư báo đêm nay chắc chắn sẽ về. Nếu có khách quý đến chơi, xin cứ giữ lại đợi nó không sao."
Bán dạ sinh rất mừng, ứng ngay ba chục lượng đặt cọc trước để được tiếp đón, lại hứa sẽ có quà đợi nàng về sẽ tặng thêm.
Nhận tiền hồ xong, Cố Tiên nương nói:
"Trời hãy còn sớm, nếu công tử có việc thì cứ đi. Nếu không có, thì xin ở đây đợi em nó."
Bấy giờ có con tiểu kỹ trong phòng, Sinh hỏi:
"Ai mới dòm ta vậy?"
Tiểu kỹ đáp:
"Chính là chị em trong nhà"
Bán dạ sinh nghe nói, chắc là người danh kỹ mình muốn, sợ nàng từ chối, nên chạy ra tìm, không chịu chờ cho đến khi nàng ấy trở lại. Nhưng Quý Hương, khi nhận ra chồng, đã vội bỏ chạy vào phòng Tiên nương mà trốn. Nàng khóa trái cửa lại sau khi đã nói vắn tắt với mụ là nàng tuyệt đối không thể tiếp Sinh, với lại tuyệt đối không để ai gặp nàng trong ngày.
Tiên nương vì không rõ ý, nên nghĩ có lẽ nàng không thích người khách ấy mà không chịu tiếp chăng. Mụ bèn nói thác với Bán dạ sinh:
"Con gái tôi lại viết thư về, nói rằng nó phải còn ở lại một hai hôm nữa. công tử tính sao?"
Bán dạ sinh nói:
"Lệng ái đã về, sao lại nói thế, hay là hiềm rằng lễ vật ít oi, cần phải thêm gì chăng?"
Tiên nương cố giấu quanh, chỉ biết nhất mực nói rằng nàng chưa về tới nhà mà thôi.
Bán dạ sinh sa sầm nét mặt nói:
"Vừa rồi lệng ái đứng bên song cửa nhìn tôi, sao cứ hồ đồ như vậy. Nếu lễ vật chưa đủ không tiếp được, thì ít ra cũng xin nhớ người xưa đã có câu:
Quái nhân hạn tại phúc
Tương kiến hữu hà phương
Có nghĩa:
Giận mấy cũng để bụng
Gặp nhau thì đã sao

Nàng phải gặp tôi đã, rồi có từ chối thế nào thì hãy từ chối. Phần tôi, gặp nàng xong xin ra đi. Sao nàng lại cự tuyệt một cách quá đáng, không lẽ sợ tôi bắt hồn hay sao?"
Tiên nương vẫn một mực trả lời như trước.
Bán dạ sinh nói:
"Vừa rồi tôi có trông thấy một người đàn bà chạy trốn vào phòng mụ. Nếu quả cô ấy chưa về, xin bà cho tôi vào xét. Nếu quả không phải cô ấy, tôi không đòi gì thêm mà đi ngay, cả lễ vật cũng không lấy lại nữa."
Thấy Sinh đối đáp cứng cỏi, Tiên nương sợ lỡ bị truy nguyên đầu đuôi không biết phải tính sao, nên lựa lời mà đáp lại:
"Không nói dấu gì công tử, con gái tôi đã về rồi. Có điều nó tiếp khách mấy đêm liền mệt quá, nên phải nghỉ một hai đêm nữa mới tiếp tướng công được. Công tử có lòng muốn gặp, xin để tôi gọi nó xem sao."
Rồi mụ đứng bên cửa phòng nói to:
"Con ơi, ra gặp công tử một chút đi con"
Mụ gọi luôn miệng mấy lượt, nhưng vẫn không nghe tiếng trả lời.
Bán dạ sinh đứng đợi lâu mãi không thấy nàng trở ra, cũng bắt đầu nổi giận.
Riêng nàng thì nghĩ rằng nếu gặp chồng thì thế nào cũng bị đưa lên quan, cũng bị gia đình đày đọa rồi cũng phải chết vì làm điếm nhục gia phong, chi bằng chết ngay tại đây trước khi gặp chồng, vừa khỏi bị quan bắt tội, vừa thoát cảnh người ta đàm tiếu mình làm gái lầu xanh. Tự mình xử mình, may ra nơi suối vàng cũng không xấu hổ với tổ tiên.
Nghĩ vậy, nàng rút thắt lưng ra, cột lên sà nhà rồi treo cổ tự vẫn. Lúc Bán dạ sinh phá cửa vào được bên trong, thì nàng đã chết từ lâu rồi. Thấy cớ sự như thế, Sinh định bỏ trốn, nhưng Sinh lại muốn xem mặt người chết là ai. Sinh vừa quay ra, thì bị mụ chủ nắm lại nói:
"Ta với ngươi kiếp trước không oán, kiếp này không cừu, sao mi nỡ vào đây giết con ta."

Nghe tiếng động ồn ào, các vương tôn công tử đổ xô lại. Họ vốn ái mộ Quý Hương. Nghe nói nàng mới về, họ định đến gặp, không ngờ nàng đã ra người thiên cổ, mà kẻ gây ra án mạng chính là Bán dạ sinh. Vì vậy vừa tiếc người đẹp, vừa hận kẻ giết người, họ hối gia nhân áp lại đánh tơi bời, rách da nát thịt. Ðánh xong họ trói Sinh lại nằm bên cạnh xác chết, chờ làng xóm kêu sai nha đến giải quan.
Sinh nằm dưới đất, quay sang nhìn thây ma một hồi, thấy ngờ ngợ. Thôi rồi, đây chíng là vợ mình, cả vết sẹo nhỏ nơi trán cũng vẫn còn, đâm hốt hoảng, trong bụng nghĩ ngay là bố vợ nói gạt, chắc vì xấu hổ, hẳn vợ mình bỏ nhà theo trai, rồi bị bán vô lầu xanh mà thôi. Nàng tự vẫ vì mình đây. Ôi oan nghiệt! Lúc ấy bọn bảo giáp cũng vừa đến. Sinh bèn cho họ biết người chết chính là vợ Sinh, có lẽ vì bị bán vào lầu xanh, nên xấu hổ không muốn gặp Sinh và tìm cách tự sát. Sinh mong được trình quan nỗi oan uổng của mình.
Nhưng lúc ba người bảo giáp, nghe Sinh thuật chuyện, bèn đòi thêm bằng chứng, Sinh bảo, mối manh lúc nàng mới vô lầu xanh, xin truy nguyên chắc rõ. Sai nha mới lục vấn Cố Tiên nương, bảo rằng nếu nàng bị bán vào lầu xanh, chắc cũng có con hầu cùng đến. Manh nó ra hỏi cung, người chết đã không nói được, tất phải hỏi người sống vậy.
Tiên nương nói:
"Lúc mua tôi mua cả chủ lẫn tớ. Hiện giờ con a hoàn có mặt tại đây. Ðể tôi bảo nó ra."
Nói xong, mụ lên tiếng gọi Như Ý, nhưng gọi mãi không thấy nó đâu. Thì ra lúc Quý Hương treo cổ chết và Bán dạ sinh xông vào phòng, sợ quá nó bèn chui xuống gầm giường để trốn. Mãi về sau, người ta mới tìm được nó. Thế là lai lịch của Quý Hương như thế nào, nó kể hết cho mọi người nghe.
Bán dạ sinh được minh oan, trở về chỗ trọ, đau khở tuyệt cùng. Nằm trên giường, Sinh tự nghĩ:
"Mình cứ nghĩ vợ người ta là để mình ngủ, còn vợ minh thì không ai ngủ được. Nào ngờ lẽ báo ứng thật nhanh chóng. Mình ngủ với vọ người ta thì lén lén lút lút, còn người ta ngủ với vợ mình thì công công khai khai. Mình ngủ với vợ người ta như kẻ trộm vậy, còn vợ mình bị người ta ngủ như con đĩ.
Còn nhớ ba năm về trước, Cô Phong trưởng lão đã khuyên mình xuất gia, mình mấy lần từ chối, Trưởng lão còn đem việc gian dâm quả báo giải thích cho mình, mình cứ một mực cãi lại.
Bây giờ mới thấy mình vay một mà trả đến mười, đến trăm. Mình ngủ với vợ người ta tính không đến năm sáu mươi người, nhưng người ta ngủ với vợ mình thì có đến hàng trăm, hàng ngàn.

Co Phong lã sư lại nói:
"Cái lẽ nhiệm mầu này, chỉ nói miệng thôi không có bằng cớ, mà phải ngồi trên nhục bồ đoàn mới tham ngộ ra."
Mấy năm nay, mình ngồi trên nhục bồ đoàn cũng đã đủ rồi, những mùi vị chua, ngọt đắng caytrong ấy mình cũng đã nếm qua rồi, bây giờ mình không tỉng ngộ thì còn đợi đến bao giờ? Có phải Cô phong muốn mình quay đầu lại bằng cách mượn tay người khác để đày đọa mình?
Bây giờ thì không còn mặt mũi nài trở về quê cũ, chi bằng hãy viết một bức thư khẩn thiết cho Thụy Châu nhờ tìm người để gả Diễm Phương, còn hai đứa con gái thì giao lại cho mình. Mình sẽ đến Thương sơn quỳ trước Cô Phong trưởng lão mà lạy một trăm hai mươi lạy để chuộc lỗi lầm, rồi xin quy y."
Chủ ý định xong, Sinh bèn lấy giấy ra viết thư, nhưng vì bị đánh một trận nhừ tử, phải đợi hơn một tháng lành lặn mới viết được.
Cũng vừa lúc ấy thì có thơ của Thụy Châu gửi đến. Trong thư cho biết nhà có việc thật cấp bách, hãy về ngay. có điều trong thư không nói là việc gì.
Bán dạ sinh thần nghĩ:
"Nếu không phải là người lớn bệnh, thì chắc trẻ con bệnh chứ gì."
Nhưng khi Sinh gạn hỏi người đưa thư thì mới rõ là Diễm Phương cũng bắt chước Quý Hương, bỏ nhà trốn theo trai. Trốn theo ai không biết. Có điều trước khi nàng đi, thì mươi đêm liền nghe trong buồng ngủ có tiếng lục đục, nhưng không thấy bóng người. Rồi sáng sớm một ngày nọ, cửa nẻo trong nhà đều mở toang, hai chủ tớ Diễm Phương bỏ con thơ lại, đi dâu mất biệt. Vì vậy, chủ nhà là Thụy Châu một mặt đi truy lùng, một mặt nhờ báo tin cho Sinh biết cớ sự mà về trông con gấp.
Bán dạ sinh ứa nước mắt thở dài:
"Thôi rồi, mình trổ nóc nhà người, người trổ nóc nhà mình. Mình gian dâm dụ dỗ vợ người ra sao nay vợ mình bị y như vậy.
Cô Phong hòa thượng viết cho mình mậy câu kệ hồi nào, nay đã đến lúc xét lại chăng?"

Hồi kết
Túi từ bi rộng lớn, sắc quỷ gian hùng đều thu lại
Ðường thiền đàn thênh thanh, oan gia trái chủ thảy gặp nhau.

Lại nói về Cô phong trưởng lão, từ khi không thu phục được Bán dạ sinh, cũng tự trách, nói:
"Vì đạo hạnh ta không cao, tài thuyết giảng không sâu, nên không khống chế được con quỷ dâm dục lảng vảng trước mặt, lại để nó đi gây họa chốn khuê môn, đó không phải là cái lỗi của bản thân ta, mà là cái tội của lão hòa thượng. Ðã không thu phục được ma quỷ, thì cái bi da treo ngoài cổng có ích gì?"
Trên ngọn cây tùng, lão trượng cho vót một miếng ván nhỏ, trên có ghi mấy dòng tiểu tự:
Ngày nào Bán dạ sinh chưa đến, thì ngày đó vẫn để nguyên bị da.
Ngày nào bị da không rách, thì ngày đó trưởng lão hòa thượng không chết.
Chỉ mong sớm dẹp bị da, để khỏi cứ phải ngồi trên nhục bồ đoàn.
Cũng lạ là cái bị kia treo trên ngọn cây tùng từ ngày Bán dạ sinh ra đi đến nay đã ba năm, nghĩa là dầm sương giãi nắng đẵ một ngàn mấy trăm ngày, không những không rách mà cũng không hư hao chút nào, như đợi đến khi túm được cổ kẻ dâm dục kia mới thôi.
Bán dạ sinh trở lại núi cũ tìm hòa thượng, nhìn thấy túi da còn treo, biết là hòa thượng còn chờ mình, Sinh ứa nước mắt bước vào chính điện, rạp mình xuống mà lạy, lạy rồi quay ra cửa, leo lên cây, tháo túi da đem xuống.
Trở vào trong, thì hòa thượng còn đang xếp bằng tham thiền. Bèn ạp đầu hướng về hoà thượng đảnh lễ, lạy đủ trăm lần, xong rồi ngồi im mà đợi. cho đến ba khắc sau hòa thượng mới xuắt thiền, ra dấu bảo Sinh lại gần.
Sinh thưa:
"Nay con đã trở về. Nếm đủ mùi đời lòng mới biết hối. xin hòa thượng dung nạp cho."
Cô phong hòa thượng bảo:
"Ta rất sẳn lòng, chỉ ngại con bất quyết đó thôi. Chốn bụi hồng còn làm lư luyến tâm con không? Cái túi da mưa nắng mà trơ trơ, lòng con có được bền vững như thế về sau không?"
Bán dạ sinh thưa:
"Kính xin sư phụ nhận lời cho con quy y, lòng con nay đã quyết."

Sinh được cạo đầu, lấy tên Ngu sa, ý nói hạt cát ngu si trong đời, tự răn mình đã khoe mẽ kiến văn lúc trước, một lòng học đạo.
Lúc mới tu tập, huyết khí phương cường, không xua hết dục vọng quá khứ, thỉnh thoảng trở lại những lúc nằm ngồi một mình, phải nghiến răng chịu đựng, dằn nén lửa dục chưa tàn.
Có khi trong mộng, vẫn thấy đủ sáu giai nhân cùng hiện đến, cười cợt vẫy gọi, như rủ gọi Sinh trở về với thú nguyệt hoa. Các nàng nõn nà da thịt nằm ngổn ngang trên bồ đoàn, trong cơn mơ xuất hiện, tươi cười lôi kéo. Ngu sa chợt hoảng hốt tỉnh giấc, tự thống trách mình sao còn vướng víu của nợ trong thân, trời chưa sáng đã thắp đèn vào nhà sau, lấy dao nghiến răng chặt đứt cái của tự coi là bửu bối bấy lâu. Cũng may máu chảy chan hòa mà cơn đau, lạ thay, không hành hạ cho chết đi sống lại.
Ngày qua tháng lại, tiếng tăm lão hòa thượng là bậc chân tu, nhiều người cầu đạo tìm đến bái yết, sư thu thập được khoảng hai mươi đệ tử. Một hôm, sư họp chúng, cùng làm buổi sám hối. Ngu sa được dự chỗ thấp nhất, vì thời gian tu tập chưa là bao, ngồi nghe các lời thú tội, thấy rõ ai ai không ít thì nhiều cũng vì tham sân si mà phạm tội cả. Ðền phiên một tu sinh trunh niên, thú rằng đã quyến rũ vợ người, còn đem luôn cả con hầu bán cho nhà chứa để trả thù riêng, xin được minh hối. Ngu sa nghe chuyện xúc động, lên tiếng hỏi chi tiết tên xứ tên người, hóa ra đây đúng là người rù quyến rồi đem bán vợ mình, mà mình cũng từng gian dâm vợ người này hồi xưa. Quả đây chính là Quyền lão thực. Bèn cùng ăn năn tội mình.
Ngu sa tiểu tăng mới tỏ ý lo ngại cho số mạng mấy đứa con do nghiệp chướng mình tạo ra, sợ chúng tạo ngiệt về sau, một hôm chảy nước mắt mà xin thầy cho về quê giết chúng, cũng là giải thoát cho chúng.
Hòa thượng chắp tay , niệm A di đà phật, mà bảo Sinh chớ có sai lầm:
"Vòng luân hồi không ngừng nghỉ. Nay con xuất gia sao dám nghĩ đến chuyện giết người? Oan ai người ấy trả, nghiệp ai người ấy chịu. Các con của con khi nào hết nợ, sẽ có số phần riêng của chúng."
Nga sa sợ hãi mà tỉnh ngộ. Bỗng thời gian sau, khoảng nửa năm, một khách lạ vạm vỡ tới viếng chùa, vào lễ nơi chíng điện, Ngu sa nhìn kỹ, không ai khác hơn là Tái côn lôn. Hai anh em nắm tay nhau mà nghẹn ngào.
Tái côn lôn lên trình hòa thượng rằng:
"Tội con rất nhiều, toàn là trộm đạo. Xin cửa từ bi rộng mở, cho con được kính lễ bậc cao tăng." Nói rồi bèn đảnh lễ.
Xong xuôi quay sang Nga sa mà thuật chuyện nhà:
"Hai con gái của tiểu đệ mới đột ngột qua đòi. Ðang khỏe mạnh bỗng một đêm cùng lăn ra chết một lượt. Hai người vú đêm trước còn nghe trêm không có tiếng gọi chúng rằng: "Nghiệt chướng trả xong, các con đi thôi". Thế là chúng chết.
Còn Diễm phương thì theo trai, ca ca phải lùng kiếm khắp nơi, mãi rồi mới biết họ xây tổ uyên ương nơi một bìa rừng hoang vắng"
Nga Sa hỏi:
"Ðại ca sao biết được tận chỗ xa xôi như thế?"

Tái côn lôn đáp:
"Bởi vì đại ca nghe đồn vùng ấy có sư hổ mang mới hóa thàng cướp cạn lẫy lừng, nên tìm cho được để so tài. Trộm ggặp cớp mới xứng tài phỉ sức. Quả thật bên trong sào huyệt rất tiện nghi, chiếu rèm phong lưu, không thua nhà quyền quý. Nửa đêm lắng nghe thì ra đôi trai gái trên giường đang tâm sự. Khi người đàn bà kể chuyện đời mình, có nhắc cả tên em, cả tên Quyền lão thực, quả thật thị đích thị Diễm phương. Thị oán hờn hai hồng cũ của thị không đễ đâu cho hết. Ca ca nghe vậy, lửa giận phừng phừng, tuốt gươm chém chết luôn hai đứa, lại lấy được hai ngàn lượng bạc, nổi lửa đốt sạch cả động"
Nói rồi quay sang lão hòa thượng hỏi:
"Xin dám trình hòa thượng, con làm vậy có phải hay không? Còn số tiền phi nghĩa ấy, con lấy có đúng không?"
Sư trả lời:
"Hai người ấy tuy tội đáng chết, nhưng con không nên ra tay giết họ. Còn số tiền lẽ ra cũng không được lấy đi. Nhưng nghiệt chướng này sợ rằng chỉ tạo nặng thêm nghiệt chướng kia mà thôi, lưới trời thưa mà khó lọt. con nghĩ có phải chăng?" Nói rồi hòa thượng đem thuyết luân hồi ra giảng.
Vốn là người khí phách ngang tàng, khó ai thuyết phục, những lời từ bi của vị cao tăng, lạ thay cảm hóa được Tái côn lôn. Thế là ba oan nghiệt tu cùng một nơi, đêm ngày theo đạo, dứt hẳn chuyện đời.
Sau khi xuất gia vào cửa thiền, ba mươi năm sau, một đại đạo cũng chứng quả.

<< Lùi - Tiếp theo

HOMECHAT
1 | 1 | 280
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com