watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
13:17:5518/05/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Nhạc Phi Diễn Nghĩa 1 - 20 - Trang 10
Chỉ mục bài viết
Nhạc Phi Diễn Nghĩa 1 - 20
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Tất cả các trang
Trang 10 trong tổng số 13
 

Hồi thứ mười lăm

Kim Ngột Truật đem quân đánh Tống
Lục Đăng lập kế giữ An Châu


Thấy bốn người đang đánh quyết liệt với mình đều dừng tay, anh em của Nhạc Phi cũng tạm ngưng chiến.
- Chúng em sắp thắng đối thủ, tại sao đại huynh lại không cho chúng em ra tay nữa ? Bốn người hỏi.
Người ấy không trả lời mà chỉ Nhạc Phi nói:
- Người này chính là Nhạc Phi đã đâm chết Tiểu Lương Vương tại giáo trường đó.
Bốn người nghe nói vội xuống ngựa thi lễ với Nhạc Phi. Nhạc Phi cũng gọi bốn người em lại làm lễ ra mắt nhau, rồi hỏi:
- Chẳng hay quý vị hảo hán tên họ là chi?
Người cầm kích lễ phép đáp:
- Tôi họ Thi tên Toàn, người cầm dao là Triệu Vân, người cầm thương là Châu Thanh, người cầm xoa là Lương Hưng, người cầm lang bổng là Khiết Thanh, năm anh em tôi đều kết nghĩa với nhau quyết ra đoạt chức Võ trạng, chẳng dè bị đại huynh đâm chết Lương Vương, làm tan rã võ trường, nên bọn tôi tính trở về nhà, ngặt vì trong túi không còn một xu lấy làm hổ thẹn. Chúng tôi lại nghĩ ở nhà cũng không có vợ con chi, chi bằng đi tìm đại huynh để kết nghĩa anh em mà nương dựa.

Khi đi ngang qua núi này chúng tôi lại gặp một lũ ăn cướp đón đường, tôi giết hết mấy tên đầu đảng, bọn lâu la tung hô anh em tôi làm chức Đại Vương. Chỉ vì túng quá, chúng tôi tạm ở đây ít ngày kiếm ít vàng bạc để khi tìm gặp được đại huynh dùng làm lễ tấn kiến. Ngờ đâu gặp đại huynh lại không biết nên xúc phạm, xin đại huynh miễn chấp.
Nhạc Phi mừng rỡ tỏ thái độ hoan hỉ, Thi Toàn vội mời hết mấy anh em lên núi, dọn bàn hương án kết nghĩa anh em rồi thâu góp đồ hành lý theo Nhạc Phi về Thang Âm huyện cùng ở chung luyện tập văn võ hàng ngày. Anh em khăng khít nhau như ruột thịt.
Bây giờ xin nói về phương Bắc, vua nước Đại Kim là Ô Cốt Đạt có năm người con. Thái từ là Hồ Hàn, bốn hoàng tử là Lạc Hàn, Đáp Võ, Ngột Truật và Trạch Lợi, lại có thừa tướng là Hấp Lý Cường, quân sư là Hấp Mê Xi, Nốt Mê Tây; đại nguyên soái là Khô Kịch Hốt, nhị nguyên soái là Giảo Ma Hốt, tam nguyên soái là Kỳ Ôn Xoa Trực Chơn, tứ nguyên soái là Ô Ly Đố, ngũ nguyên soái là Ngoa Ly Ba. Ô Cốt Đạt cai quản cả lục quốc tam xuyên, đất đai quá rộng mà lại còn vọng tưởng Trung Nguyên, quyết thâu đoạt giang sơn nhà Tống.
Một hôm vua Kim đang ngự triều, bỗng có quan trị điện vào báo:
-         Quân sư đã về.

Kim Vương cho triệu vào. Hấp Mê Xi vào triều bái tung hô rồi tâu:
Hạ thần qua Trung Nguyên thăm dò tin tức, được nghe lão Nam Man hoàng đế (chỉ Huy Tông) đã nhường ngôi cho con là Khâm Tông. Vị tiểu hoàng đế này lên ngôi, chỉ ham mê tửu sắc không ngó ngàng đến việc tiều chính cho nên bọn gian thần lộng hành, mưu hại kẻ trung lương. Vì thế hiện nay các ải đều không có tướng tài trấn giữ. Thừa lúc này Thánh thượng tung binh hùng, tướng mạnh qua đó thì chắc chắn chiếm cứ đất Trung Nguyên và lật đổ triều Tống dễ như trở bàn tay.
Ô Cốt Đạt nghe tâu mừng rỡ chọn ngày lành tháng tốt ra chốn giáo trường tuyển lựa một vị Đoạt Tống đại nguyên soái.
Để tuyển chọn một vị nguyên soái có thể thảo phạt cả miền Nam, đoạt cả triều Tống. Kim Vương treo bảng khắp cả trong ngoài kêu gọi kẻ có tài đến giáo trường tỉ võ. Bọn võ sĩ đổ xô đến giáo trường đông không biết bao nhiêu mà kể.
Kim Vương ngự ra giáo trường, ngồi chễm trệ trên đài cao, các quan văn võ triều kiến xong bước ra sắp hàng đứng hai bên trông rất nghiêm chỉnh.
Kim Vương giơ tay chỉ con thiết long để giữa giáo trường phán:
-   Con thiết long này của tiên vương ta để lại, nó nặng hơn ngàn cân, hễ ai cử nổi thì được phong chức Xương Bình Vương Tảo Nam đại nguyên soái.
Lệnh vua vừa ban ra mọi người đổ xô vào lần lượt kẻ trước người sau quyết tranh cho kỳ được chức ấy. Nhưng ai nấy đã ráng hết hơi mà con thiết long vẫn không thấy nhúc nhích , chẳng khác nào thằn lằn xô cột đá.
Kim Vương thấy vậy nói:
-   Xưa Hạng Võ bạt núi, Tử Tư cử đình. Nay nội nước ta chẳng có người nào cử nổi cái vật ngàn cân này sao?
Đang khi thất vọng bỗng thấy một người bước ra xin được cử. Người này mặt như than lửa, tóc tựa mây đen, mày rậm râu dài, miệng rộng mắt lồi, mình cao một trượng, lưng lớn ba vầng. Chẳng phải ai xa lạ mà chính là hoàng tử thứ tư của Kim Vương tên là Ngột Truật (cũng chính là Xích Tù Long ở thượng giới xuống phàm đầu thai vào vương gia Ô Cốt Đạt để nhiễu hại giang sơn nhà Tống)
Ngột Truật tâu lớn:
-   Con có thể cử nổi con thiết long kia.
Kim Vương nghe tâu vùng nạt lớn:
-   Quân đao phủ đâu? Hãy bắt nó đem chém đi cho ta.
Đao phủ tả hữu hai bên lập tức vâng lệnh bắt trói Ngột Truật lại.
Kim Vương đang cần tuyển kẻ tài ba mà con mình đứng ra xin cử nổi con thiết long đã không mừng lại còn truyền đem chém đi là tại làm sao? Ấy chì vì Ngột Truật là con vua Phiên mà hằng ngày cứ mơ tưởng bên Trung Nguyên, thậm chí khi vào trong cung cũng mặc y phục của người Trung Nguyên nên Kim Vương ghét cay ghét đắng, đang tức giận vì không thấy ai cử nổi thiết long lại thấy Ngột Truật ló mặt ra làm cho Kim Vương càng giận thêm nên mới truyền chém đi cho khuất mắt.
Quân sư Hấp Mê Xi thấy thế vội quỳ tâu:
-   Hôm nay là ngày chọn tướng mà hoàng tử Ngột Truật đã xin được cử, sao chúa thượng không để cho hoàng tử trổ tài lại muốn chém đi là sao? Mong chúa thượng hãy nghĩ lại kẻo oan cho hoàng tử lắm.
Kim Vương dịu giọng nói:
-   Quân sư chưa rõ chứ nội trong triều có bao nhiêu võ tướng cùng anh hùng khắp nơi mà không ai cử nổi, huống chi sức lựa của nó bao nhiêu mà dám cả gan đứng ra huênh hoang. Quân láo xược như vậy không chém đi để làm gì?
Hấp Mê Xi lại tâu:
-   Phàm dùng người chớ nên xem tướng, chúa thượng cứ để cho hoàng tử cử thử xem. Như quả cử nổi thì phong làm Tảo Nam đại nguyên soái, sai đi chinh phạt Trung Nguyên. Nếu thu phục được nhà Tống thì phúc lớn của chúa thượng, bằng cử không nổi thì sẽ xử trảm cũng chẳng muộn.
Kim Vương gật đầu phán:
-   Được rồi, trẫm sẽ vì khanh mà tạm tha cho nó nhưng nếu cử không nổi thì phải chém tức khắc để trị tội cuồng vọng ấy.
Phán rồi truyền quân mở trói cho Ngột Truật, sai đi cử thiết long.
Ngột Truật bước ra tạ ơn rồi ngước mặt lên trời vái thầm:
-   “Nếu xét ra tôi không vào được Trung Nguyên và đoạt được giang sơn nhà Tống thì đừng cho tôi cử nổi thiết long và để cho tôi chịu chết chém”.
Vái rồi tay phải vén cao, tay trái nắm cẳng con thiết long giơ lên nói lớn:
-   Phụ vương, con giơ nổi thiết long đây này.
Kim Vương xem thấy cả mừng, các quan văn võ đều vỗ tay reo lên:
-         Đệ tứ hoàng tử quả là thiên thần.

Ngột Truật nâng lên hạ xuống ba bốn lần rồi để con thiết long lại chỗ cũ, bước lên điện đợi lệnh.
Kim Vương liền phong Ngột Truật làm Xương Bình Vương Tảo Nam đại nguyên soái. Sau đó chọn thêm mấy phó nguyên soái để yểm trợ cho Ngột Truật rồi chọn ngày lành tháng tốt phát năm mươi vạn quân, làm lễ tế cờ, rầm rộ kéo xuống Trung Nguyên.
Đoàn quân Ngột Truật kéo đi, cờ xí đỏ rực trời, trống chiêng vang dậy đất. Đi bộ một tháng trời mới đến bờ cõi Trung Nguyên.
Ải thứ nhất của Trung Nguyên là Lộ An Châu, tướng giữ ải này là Lộ An Châu Tiết Đạt Sứ Lục Đăng, tự là Tử Kiến, biệt hiệu là Tiểu Gia Cát, phu nhận là Tạ Thị mới sinh được một con lên ba tuổi, binh sĩ trong thành ước hơn năm ngàn.
Lục Đăng là danh tướng của nhà Tống. Hôm ấy đang ngồi trong công đường bỗng có quân thám tử vào báo:
- Nay Đại Kim Quốc sai hoàng tử thứ tư là Hoàn Nhan Ngột Truật đem năm mươi vạn quân đến xâm phạm Lộ An Châu ta. Chúng còn cách thành chừng trăm dặm.
Lục Đăng nghe báo giật nẩy người lập tức thưởng cho tên thám tử một tấm ngân bài, sai hắn tiếp tục đi thám thính rồi sai quan kỳ bài ra ngoài thành truyền rao cho bá tánh phải lập tức đem hết gia quyến vào thành mà ở, còn nhà cửa thì phá sạch, hứa khi thái bình sẽ xuất tiền cất lại cho.
Lục Đăng tập trung hết các tướng sĩ leo lên bờ thành kiên trì cố thủ. Lại sai mua một ngàn cái chảo lớn và một ngàn cái thùng chứa đầy phân người, đoạn xây lò xung quanh bờ thành để nấu sôi nước phân ấy chờ cho quân địch đến dưới thành thì đổ phân sôi ấy xuống cho quân giặc tuột da mà chết.
Lục Đăng còn sai chặt hơn một nghìn cây tre để làm bẫy phòng khi địch có hãm thành ban đêm sẽ bị mắc bẫy. Ngoài ra Lục Đăng còn đem lưới có buộc vô số mắc câu thả xuống nước để đề phòng quân địch dùng đường thủy xông vào thành.
Sắp đặt đâu đó xong xuôi Lục Đăng thảo một đạo bổn chương, sai người mang về triều đình xin cầu cứu.
Khi người mang bổn chương đi rồi Lục Đăng lại nghĩ thầm:
- “Theo địa thế Lộ An Châu này quả là chỗ yết hầu, nếu viện binh đến trễ để cho thất thủ thì chắc chắn Biện Lương cũng khó giữ nổi”.
Lục Đăng suy tới nghĩ lui ngồi đứng chẳng yên, bèn viết hai bức văn thư sai người mang một bức qua trao cho quan tổng binh là Hàn Thế Trung và một bức trao cho thái thú hà giang phủ là Trương Thúc Dạ để yêu cầu hai người này phát binh đến giúp. Rồi Lục Đăng thống lãnh quân đội ngày đêm canh phòng nghiêm ngặt.
Nói về ngột Truật dẫn binh kéo đến cuồn cuộn như sóng trào. Khi còn cách thành Lộ An Châu chừng năm chục dặm, truyền quân an dinh hạ trại.
Lục Đăng đứng trên thành xem thấy quân Phiên trùng trùng điệp điệp cờ xí ngợp trời, gươm giáo sáng lòa, tướng mạo đứa nào đứa nấy mặt mũi dữ dằn trông dễ khiếp. Thật quả là đoàn quân vô cùng lợi hại.
Các tướng đứng trên thành thấy thế cũng lấy làm lo ngại bèn đề nghị với chủ tướng:
- Quân Phiên vừa mới đến chưa kịp đề phòng, ta thừa dịp đánh phủ đầu một trận may ra phá được.
Lục Đăng lắc đầu bảo:
- Không được đâu giờ phút này quân Phiên đang rất mạnh lại rất hiếu chiến, chúng ta cần phải cố thủ chờ viện binh đến sẽ hay.
Tướng sĩ tuân lệnh lo cố thủ thành trì chờ quân cứu viện.
Ngột Truật an dinh hạ trại xong bèn gọi quân sư hỏi:
- Chẳng hay thành Lộ An Châu này do tướng nào trấn thủ?
Hấp Mê Xi đáp:
- Ải này do quan tiết đạt sứ Lục Đăng trấn giữ. Người này có biệt hiệu là tiểu Gia Cát, có tài dụng binh giỏi lắm.
Ngột Truật lại hỏi:
- Người này trung hay nịnh? Quân sư có biết rõ không?
Hấp Mê Xi đáp:
- Người này là tôi trung bậc nhất của nhà Tống.
Suy nghĩ hồi lâu Ngột Truận hỏi:
- Thế thì hay lắm, để ta kéo quân đến hội diện với y một phen xem sao.
Nói rồi kiểm điểm năm ngàn binh mã và dẫn quân ra trận, thổi kèn gióng trống kéo thẳng đến thành.
Lục Đăng xem thấy quân Phiên kéo đến liền dặn dò tướng sĩ gìn giữ thành trì rồi nai nịt chỉnh tề, mang thương lên ngựa phát pháo khai thành, thả cầu xuống dẫn binh ra trước trận xem xét.
Trông thấy Ngột Truật đầu đội kim khôi sáng ngời, trên đỉnh giắt hai chiếc lông trĩ rã ra hai bên, mình mặc áo bào cẩm tú, mang giáp long lân khảm vàng cưỡi con ngựa “Tiết hỏa long cu”, tay cầm cây kim tước phủ, đường đường chẳng khác khai sơn lực sĩ.
Vừa trông thấy Lục Đăng, Ngột Truật lớn tiếng hỏi:
- Ngươi có phải là Lục Đăng không?
Lục Đăng đáp:
- Phải đấy, ngươi cũng biết ta sao?
Ngột Truật đứng nhìn sững đối phương, thấy Lục Đăng đầu đội đại hồng kiết đảnh xích hồng khôi, mình mang liên hồng tỏa tử hùng kim giáp, bên trái mang cung bên phải mang tên. Quả là anh hùng khí trượng, cái thế vô song bèn nghĩ thầm:
- “Nhân vật Trung Nguyên này quả là một trang tuấn kiệt ít ai bì”.
Nghĩ rồi kêu Lục Đăng ôn tồn nói:
- Lục tướng công, nay ta cử năm mươi vạn quân quyết đánh Trung Nguyên thâu tóm thiên hạ. Lộ An Châu này là chốn tiền đồn của Trung Nguyên. Ta nghe danh tướng công là một tay hảo hán nên phải đến đây để tỏ đôi lời hơn thiệt. Nếu như tướng quân thuận qui hàng thì sẽ được phong vương vị, chẳng biết tướng quân nghĩ sao?
Lục Đăng “hứ” một tiếng rồi gằn giọng:
- Ngươi là kẻ nào mà dám nói với ta lời lẽ láo xược ấy?
Ngột Truật đáp:
- Ta là Đại Kim Quốc Tông Lãnh Điện Tiền, Xương Bình Vương Tảo Nam đại nguyên soái tên là Ngột Truật đây.
Lục Đăng quát lớn:
- Đừng nói bậy, từ xưa đến nay Bắc Nam có ranh giới rõ ràng, ai lo giữ bờ cõi nấy. Chúa ta nhân đức rải khắp xa gần, thấy chúng bay là loài mọi rợ chẳng nỡ ra binh, sao chúng bay không giữ đạo làm tôi lại vô cớ mang binh đến xâm phạm cõi bờ là nghĩa gì vậy?
Ngột Truật cười khẩy đáp:
- Tướng quân nghĩ như vậy là sai rồi. Đất đai, thiên hạ trên thế gian này không phải của riêng một ai cả, hễ ai có đức thì được. Nay hoàng đế nhà Tống vô đạo ghét bỏ người hiền, tin dùng đứa gian nịnh khiến cho trời hờn dân oán. Vì vậy Chúa ta dấy binh để cứu bá tánh trong lúc đảo điên thì quả là làm một điều nhân nghĩa. Tướng quân phải thức thời theo ý trời, thuận lòng dân mới khỏi mất chức lại được phong hầu, bằng chấp né không chịu thì cái thành nhỏ này giữ sao cho được? Nếu ta phá rồi thì vàng đá chẳng phân, lúc ấy ăn năn sao kịp?
Lục Đăng mặt đỏ phừng phừng chỉ vào mặt Ngột Truật nạt lớn:
- Quân mọi rợ kia đừng huênh hoang khoác lác, hãy xem cây thương của ta đây.

Vừa nói vừa vung thương đâm Ngột Truật, Ngột Truật cũng giơ búa ra đỡ , rồi hai người đánh vùi với nhau đến năm sáu hiệp. Lục Đăng ngăn đỡ không nổi, quay ngựa bỏ chạy vào thành gọi quân lính trên thành lấy súng bắn xuống. Ngột Truật không dám rượt theo. Trên thành thả cầu xuống đón Lục Đăng lên thành.
Vào thành Lục Đăng nói với chư tướng:
- Tên Ngột Truật ấy lợi hại thật, các ngươi phải hết lòng gìn giữ, chớ nên thờ ơ mà mang hại.
Ngột Truật vừa thu binh về dinh, Hấp Mê Xi hỏi:
- Lục Đăng thua chạy sao nguyên soái không đuổi theo bắt nó?
Ngột Truật đáp:
- Lục Đăng chạy ắt có mai phục, hơn nữa trên thành súng bắn xuống như mưa thì đuổi theo làm gì?
Quân sư Hấp Mê Xi gật đầu khen là có lý.
Hôm sau Ngột Truật nai nịt chỉnh tề đến bên thành khiêu chiến nhưng trên thành treo miễn chiến bài. Ngột Truật lớn tiếng nhục mạ vua tôi nhà Tống mà cửa thành vẫn đóng kín mít.
Cứ như thế cầm cự suốt nửa tháng trời, Ngột Truật trong lòng nóng như lửa đốt bèn sai Ô Quốc Long, Ô Quốc Hổ đốc thúc quân sĩ đóng nhiều thang rồi giao cho đệ tam nguyên soái là Kỳ Ôn Thiết Mộc Chơn dẫn năm ngàn quân tinh nhuệ đi tiên phong, còn Ngột Truật thì tự lãnh binh đi hậu tập kéo đến bên hào bắc cầu tràn qua, đoạn bắc thang lên vách thành thôi thúc quân sĩ leo lên hãm thành.
Nhưng lạ thay trên thành vẫn lặng im không có một tiếng động. Ngột Truật đoán chắc Lục Đăng đã bỏ thành trốn thoát mất rồi.
Còn đang suy nghĩ bỗng nghe tiếng súng nổ vang, nước phân sôi sùng sục đổ xuống ào ào. Bao nhiêu quân Phiên ngã lăn ra chết sạch, số thang ấy bị kéo hết lên thành.
Ngột Truật thấy thế biến sắc mặt hỏi quân sư Hấp Mê Xi:
- Tại sao quân sĩ ta đang rầm rộ leo lên thành lại ngã nhào xuống chết hết như vậy?
Hấp Mê Xi đáp:
- Lục Đăng nó dùng nước phân nấu sôi đổ xuống. Phương pháp này gọi là lạp chấp thiêm, hễ trúng nhằm một giọt cũng đủ chết.
Ngột Truật nghe nói thất kinh, vội đánh chiêng thu quân trở về dinh trại. Còn Lục Đăng thì sai cắt hết thủ cấp quân Phiên treo xung quanh thành để uy hiếp kẻ địch, đồng thời cho chặt hết thang của địch ra để làm củi đun nước phân.
Ngột Truật về dinh bàn bạc với quân sư:
- Ta hãm thành ban ngày, chúng dùng nước phân đổ, ta tấn công ban đêm xem hắn làm gì nào?
Đêm hôm ấy quân Ngột Truật lại lặng lẽ kéo đi phá thành. Trời tối như mực, đoàn quân bắc cầu vượt qua hào rồi bắc thang leo lên thành như trước. Ngột Truật không thấy trên thành có đèn đuốc chi hết, quân Phiên đẽ leo tuốt vào thành, Ngột Truật mừng lắm bảo quân sư:
- Phen này chắc lấy được Lộ An Châu rồi.
Vừa nói dứt lời, trên thành bỗng có tiếng súng nổ vang, đèn đuốc sáng trưng như ban ngày. Bao nhiêu quân Phiên tràn vào thành đều bị chém đầu quăng xuống thành.
Ngột Truật thấy vậy kinh hãi hỏi quân sư:
- Nó làm cách nào lại giết hết quân ta như vậy?
Hấp Mê Xi ngơ ngác:
- Thiệt tôi cũng không rõ như thế nào cả.
Nguyên trên thành có nhiều tre gài bẫy vụt, lại có đóng lưới cột đầy móc câu thành thử quân Phiên vì trời tối không thấy rõ bị tre gạt hết sa vào lưới nên quân trong thành bắt giết hết.
Ngột Truật nhìn số đầu người lăn lông lốc liền khóc rống lên đau đớn vô cùng, các tướng phải khuyên giải hồi lâu Ngột Truật mới trở về dinh.
Ngồi trong dinh trại, Ngột Truật chống cằm suy nghĩ:
- Chỉ có một cái thành nhỏ này mà đánh phá bốn mươi ngày không được, lại hao binh tổn thương rất nhiều thì biết bao giờ thôn tính được Trung Nguyên?
Ngột Truật buồn rầu khôn xiết, Hấp Mê Xi thấy vậy khuyên Ngột Truật đi săn bắn giải buồn. Ngột Truật nghe lời đem một số quân sĩ vào rừng đuổi hươu nai, bỗng thấy xa xa có một người đang hớt hải chui vào rừng trốn.
Hấp Mê Xi nói với Ngột Truật:
- Trong rừng này có gian tế.
Ngột Truật vội sai quân đi bắt, chỉ mấy phút sau quân đã bắt đến một người. Ngột Truật quát hỏi:
- Ngươi là gian tế ở đâu hãy khai mau, bằng cố tình giấu giếm ta sẽ giết chết.

Người ấy phủ phục xuống van lạy:
- Tôi quả thiệt là một thương nhân hôm qua ra ngoài thành mua hàng hóa, lúc về thấy binh của đại vương đóng tại đây nên sợ hãi đem hàng hóa gửi nơi khác rồi trốn ở ngoại thành. Nay nghe được tin đại vương nghiêm ngặt cấm không cho binh lính động đến của dân một mảy may nên tôi đánh bạo đi lấy hàng hóa về, qua đây sợ hãi trốn tránh mà không kịp nên bị bắt, xin đại vương tha tội.

Hồi thứ mười sáu

Giả gian tế, quân sư bị xẻo mũi
An Châu thất thủ, Lục Đăng liều thân.

Nghe thương nhân nói một cách chân thành, lại có ý ca tụng quân giáp nghiêm ngặt của quân Kim, Ngột Truật nhìn hắn từ đầu chân rồi dịu giọng:
- Nếu ngươi quả thật là lương dân thì ta tha ngay.
Hấp Mê Xi thấy vậy bước tới nói:
- Chúa công chớ nên tha hắn, tôi đoán chắc hắn là gian tế không sai vì nếu hắn là lương dân thì thấy chúa công phải biến đổi sắc mặt, giọng nói run rẩy, có đâu trả lời xuôi chảy như vậy? Trên thế gian này không có một tên lương dân nào mà lớn gan vậy cả, để tôi đem hắn về dinh tra hỏi mới được.
Ngột Truật nghe theo, truyền quân dẫn tên ấy về dinh trước rồi tiếp tục săn bắn vui chơi.
Chiều về cơm nước xong, Ngột Truật cho đòi tên ấy ra hỏi thì hắn vẫn nói y như trước chẳng sai lệch một tiếng. Ngột Truật nói với quân sư:
- Quả nhiên hắn là người lương thiện, hãy thả hắn đi cho rồi.
Quân sư nói:
- Muốn thả thì phải xét trong mình hắn đã.
Vừa nói Hấp Mê Xi vừa bước tới lục lọi khắp mình nhưng không tìm thấy vật gì lạ cả. Hấp Mê Xi co chân đá vào mông hắn một đá nói:
- Hãy đi đi cho khuất mắt.
Chẳng dè hắn lại đánh rơi ra một vật lạ, xem lại thì vật ấy là một  phong thư. Quân sư reo lên:
- Có thư của gian tế đây rồi!
Ngột Truật hỏi:
- Thư gì vậy?
- Đây chính là lạp hoàn thư dùng để mang các mật thư để cho người ta đừng để ý.
Dứt lời lấy dao rạch chiếc bao lấy ra một mảnh giấy gấp làm tư mở ra xem thì ra thư này của quan tổng binh Hàn Thế Trung gửi cho tiểu Gia Cát Lục Đăng.
Trong thư nói:
- Nay có tiết đạt sứ Tôn Hạo ở Biện Kinh phụng chỉ lãnh binh ra tiếp ứng. Nếu Tôn Hạo có ra trận thì xin đừng giúp y vì y chính là kẻ tâm phúc của Trương Bang Xương nên hãy coi chừng y phản phúc. Nếu y có chết vì tay giặc cũng không đáng tiếc. Nay tôi sai Triệu Đắc Thắng mang thư này đến cho ngài biết rõ!
Ngột Truật xem thư xong nói với quân sư:
- Bức thư này cũng chẳng có điều chi quan trọng.
Quân sư nghiêm sắc mặt nói:
- Chúa công chưa rõ chứ bức thư này lọt vào tay chúng ta thì quan trọng lắm đấy chứ. Vì hễ Tôn Hạo đem quân đến đây đánh với chúa công mà Lục Đăng dẫn binh ra trợ chiến thì ta thừa dịp ấy phát binh đoạt thành. Còn bức thư này lọt vào tay Lục Đăng hắn sẽ kiên trì cố thủ thành trì, biết đời nào ta đoạt thành cho được?
Ngột Truật gật đầu cho là phải rồi hỏi Hấp Mê Xi:
- Thế bây giờ chúng ta liệu sao đây?
Quân sư nói:
- Để tôi xem, ta hãy theo thư này giả khắc ấn cho giống rồi nhái theo kiểu chữ này viết ra một bức thư khác bảo Lục Đăng hãy ra trợ chiến. Chúng ta chờ cho Lục Đăng ra khỏi thành thì vây chặt lại rồi truyền chư tướng thúc quân công hãm thành trì thì chắc chắn là nắm phần thắng lợi trong tay.

Ngột Truật mừng rỡ nói:
- Vậy thì quân sư hãy tính việc ấy gấp đi, còn tên gian tế này hãy giết quách đi cho rồi.
Quân sư đáp:
- Chẳng nên giết nó, chúa công hãy giao nó cho tôi, tôi sẽ có chuyện dùng.
Hấp Mê Xi làm một phong thư lạp hoàn giả xong rồi đến ra mắt Ngột Truật. Ngột Truật gọi chư tướng hỏi:
- Có ai dám đem thư này đến gặp Lục Đăng?
Hỏi mấy lần vẫn không thấy ai lên tiếng, quân sư Hấp Mê Xi nói:
- Giả dạng làm kẻ gian tế phải biết tùy cơ ứng biến và đầy đủ mưu chước mới được, hình như việc này tôi cần phải đi mới xong, nếu như có bề nào thì chúa công hãy chăm lo săn sóc đến vợ con tôi.
Ngột Truật đáp:
- Quân sư cứ an tâm ra đi, miễn là được việc thì công lao chẳng nhỏ.
Hấp Mê Xi bèn thay đổi y phục giả làm Triệu Đắc Thắng, giấu chiếc bao lạp hoàn trong mình rồi từ biệt Ngột Truật đi thẳng đến bên hào thành kêu lớn:
- Hãy thả cầu xuống cho tôi lên thành có việc cơ mật.
Lục Đăng đứng trên thành thấy thế truyền quân thả cầu xuống. Khi qua khỏi hào, Hấp Mê Xi lại gọi mở cửa thành nhưng cửa thành không mở. Trên thành lại thòng xuống một cái giỏ, quân sĩ gọi vọng xuống bảo y ngồi trong giỏ để chúng kéo lên.
Hấp Mê Xi không biết làm sao đành phải vào trong giỏ ngồi. Chiếc giỏ từ từ được kéo lên nhưng khi gần đến biên thành thì dừng lại treo lơ lửng ở đó.
Lục Đăng cúi xuống hỏi:
- Ngươi tên họ là chi, vâng lệnh ai đến đây? Có thư chi không?
Tuy Hấp Mê Xi nói tiếng Trung Quốc rất thạo và đã làm gian tế vào Trung Nguyên rất nhiều lần song chưa lần nào gặp hoàn cảnh kỳ dị như hôm nay.
Hấp Mê Xi gượng đáp:
- Tôi là Triệu Đắc Thắng vâng lệnh Lưỡng Lang quan tổng binh đến đây đem thư cho lão gia.
Lục Đăng nghe nói nghĩ thầm:
- “Ta cũng có nghe Hàn nguyên soái dùng một tên Triệu Đắc Thắng song ta chưa hề biết mặt, không biết tên này thật hay giả để ta hỏi hắn thử cho biết”.
Nghĩ vậy Lục Đăng cất tiếng hỏi:
- Ngươi bảo là ngươi ở với Hàn nguyên soái, vậy ngươi có biết Hàn nguyên soái lập công trạng gì ở đâu mà được phong đến chức ấy không?
Hấp Mê Xi đáp:
- Nguyên soái của tôi với Trương Thúc Dạ đã chiêu an được bọn hảo hán nơi trại Thủy Hử nên mới được phong chức lãnh nhiệm vụ trấn thủ tại Lưỡng Lang quan.
Lục Đăng lại hỏi:
- Còn phu nhân của Hàn nguyên soái họ chi?
- Bà phu nhân ấy chẳng ai bì kịp, nghĩa là đang chấp chưởng cái ấn ngũ quân đô đốc, ai lại không biết người là Lương Thị phu nhân?
- Người xuất thân thế nào?
- Dạ điều ấy tôi không dám nói.
- Người có con cái chi không? Tên gì, mấy tuổi?
- Người có hai vị công tử, đại công tử tên là Hàn Thượng Đức năm nay mười lăm tuổi còn nhị công tử là Hàn Ngạn Trực.

Đoạn truyền lệnh cho quân sĩ cắt chiếc mũi Hấp Mê Xi rồi thòng xuống thả về.
Hấp Mê Xi đau đớn vô cùng nhưng chẳng dám tỏ vẻ sợ sệt. Đợi cho giỏ thòng xuống tới đất mới hối hả bước ra, lấy tay che mũi chạy thẳng về dinh Phiên.
Ngột Truật trông thấy Hấp Mê Xi hớt hải chạy vào, mình mẩy đầy những máu kinh hãi hỏi:
- Sao quân sư lại đến nỗi này?
Hấp Mê Xi kể lại câu chuyện đem thư giả bị bại lộ và giơ cái mặt bị cắt mất mũi cho Ngột Truật xem. Ngột Truật vừa căm giận Lục Đăng vừa thương hại quân sư vội kiếm lời an ủi:
- Xin quân sư hãy về dinh dưỡng bệnh chờ khi nào vết thương kia lành hẳn tôi sẽ bắt Lục Đăng đem về cho quân sư trả thù cho hả dạ.
Hấp Mê Xi lạy tạ ơn rồi lui về dinh lo băng bó thuốc men đến hai tuần mới lành nhưng đã trở thành một người sứt mũi suốt đời.
Quân sư bèn đến dinh Ngột Truật hiến kế:
- Đánh theo đường bộ đã mấy phen bị thất bại, nay ta phải dùng đường thủy tấn công địch mới được.
Ngột Truật cho là phải, nội trong đêm ấy kiểm điểm binh mã chọn một ngàn người biết bơi lội giỏi cho sung vào tiền đội kéo thẳng xuống thành nhảy xuống nước để phá thủy quan.
Ngờ đâu dưới nước đã có giăng lưới cột đầy móc câu, lại đeo đầy lục lạc nên khi quân Ngột Truật nhảy xuống nước bị sa lưới, lục lạc reo vang quân trên thành cứ việc kéo lên chém đầu từng đứa bêu trên thành làm lệnh.
Ngột Truật xem thấy cả kinh, tặc lưỡi lắc đầu giậm chân rồi thu quân về trại nói với quân sư:
- Tên Lục Đăng này có lắm mưu thần chước quỷ, chúng ta khó bề thắng nổi. Ta quyết chuyến này đích thân đi phá cho bằng được thuỷ quan mới nghe. Chư tướng ở ngoài chờ sẵn, khi nào ta phá được thuỷ quan sẽ mở cửa thành cho tràn vào, bằng ta có thác chư tướng hãy lui về nước cho xong.

Ai nấy đều khuyên chủ soái không nên mạo hiểm nhưng Ngột Truật vẫn không nghe, cứ việc chọn sẵn một ngàn quân tinh nhuệ chờ canh ba kéo đến thủy quan cho binh đứng chực trên bờ , một mình Ngột Truật lặn xuống đáy sông, lần đến thủy quan chui vào. Bị lưới cản lại, lục lạc kêu vang, quân lính trong thành vừa thò móc xuống giật lên thì Ngột Truật đã lấy dao nhỏ bén cắt đứt hết lưới ở dưới đáy rồi trồi lên mặt nước, nhảy phóc lên bờ.
Quân canh bất ngờ bị Ngột Truật vung búa chém sạch không kịp kêu lên tiếng nào.
Ngột Truật thừa thế chạy riết đến cửa thành chém quân canh cửa rồi mở toang cửa ra và hạ cầu xuống cho quân bên ngoài ùa vào.
Lúc ấy Lục Đăng đang ở trong dinh ngồi bấm óc tìm mưu kế bỗng thấy bọn tùy tướng sợ hãi chạy vào báo:
- Quân Phiên hãm được thành đã kéo vào vô số, xin lão gia liệu định.
Lục Đăng nghe vậy vội vào hậu đường gọi phu nhân nói:
- Thành này đã thất thủ tôi còn sống làm chi nữa? Phải hy sinh cho trọn nghĩa quân vương.
Lục phu nhân đáp một cách tỉnh táo:
- Nếu tướng công quyết tận trung vì nước, thiếp đây cũng quyết tận tiết cùng chồng vậy.
Dứt lời bà quay lại nói với người vú:
- Hôm nay ta với lão gia tử tiết, dòng họ Lục chỉ còn một giọt máu này thôi, xin người vì tình ráng nuôi dưỡng cho cháu thành người để mai sau có người thờ phụng tổ tiên thì ngươi là đại ân nhân của dòng họ Lục, hai ta ở chốn tuyền đài vẫn đội ơn ngươi đấy.
Bà dặn dò đôi ba phen rồi vào trong phòng thắt cổ chết.
Lục Đăng thấy vợ chết trước mình liền than thở:
- “Thôi đã đến bước đường cùng rồi, ta nên tự xử là hơn”.
Rồi bước ra đại đường rút dao đâm xuyên qua cuống họng. Chết rồi mà thây vẫn trơ như tượng đồng nên có thơ điếu Lục Đăng như sau:
Thành vỡ, anh hùng đã hết mong
Âu đành tử tiết, thế là xong
Gương trung muôn thuở không phai nhạt
Tiết nghĩa nêu danh khách má hồng.
Tướng sĩ thấy Lục Tiết Đạt sứ và phu nhân đã vì nước quyên sinh nên không chống cự, chỉ lo chạy trốn hết. Bà vú còn đang lo gom góp vàng bạc cùng đồ tế nhuyễn đã nghe lạc ngựa đến gần, túng thế phải bế Lục công tử chạy trốn sau cánh cửa.
Ngột Truật vừa xông đến vội xuống ngựa cắp búa bước vào chợt trông thấy một người cầm gươm đứng sững giữa đại đường liền quất lớn:
- Ngươi là ai, hãy xem cây búa của ta đây.

Vừa hét vừa chém tới nhưng chẳng thấy người ấy động đậy và nói năng gì hết. Ngột Truật lấy làm lạ dừng tay bước đến nhìn kỹ xem, thì ra người ấy là Lục Đăng nhưng đã tự vẫn chết rồi.
Ngột Truật nghĩ thầm:
- “Lạ thật, lý nào người đã chết sao chưa chịu ngã?”.
Ngột Truật tiến sâu vào hậu đường nhưng vẫn im phăng phắc không một tiếng động, chỉ có một cái thây đàn bà nằm chết dưới đất, lục soát khắp nơi chẳng thấy một ai bèn trở ra đại đường thì thấy Lục Đăng hãy còn đứng trơ trơ.
Ngột Truật lại nghĩ thầm:
- “Hay là Lục Đăng đã chết rồi mà còn sợ ta vào thành nhiễu hại đến bá tính nên chưa an tâm chết chăng?”.
Còn đang ngạc nhiên, bỗng Hấp Mê Xi đến vui vẻ nói:
- Tôi nghe chúa công ở đây nên đến trợ giúp.
Ngột Truật nói:
- Có quân sư đến thì hay lắm, vậy thì quân sư hãy ra truyền lệnh cho quân sĩ hãy tìm chỗ trống mà an dinh hạ trại, chớ có động chạm đến của dân. Ai vi lệnh thì chém đầu lập tức.
Hấp Mê Xi lĩnh mệnh ra truyền lệnh cho quân sĩ. Ngột Truật đến trước thây xác Lục Đăng nói:
- Lục tiên sinh ơi! Tôi chẳng hề hại đến bá tính của ngài xin ngài hãy nằm xuống cho yên thân.
Dứt lời Ngột Truật vẫn thấy xác Lục Đăng đứng trơ trơ không nhúc nhích lại tiếp:
- Có phải người đàn bà chết nơi hậu đường là phu nhân của ngài đã vì chồng mà tận tiết chăng? Nếu quả vậy thì tôi xin đem thây hai vợ chồng chôn chung một chỗ và chôn ngoài đại lộ để thiên hạ qua lại biết danh hai vợ chồng tiên sinh là trung thần và tiết phụ, như vậy ngài có bằng lòng không?
Nhưng vẫn không thấy Lục Đăng ngã, Ngột Truật lại nói:
- Tôi nghe xưa Sở bá vương Hạng Võ tự vẫn cũng đứng sừng sững như vậy, đến khi Hán vương Lưu Bang vái lạy mới chịu ngã. Nay Lục tiên sinh là kẻ trung thần, tôi có lạy ngài vài lạy cũng chẳng hại chi.
Nói rồi liền sụp lạy nhưng cũng vẫn không thấy xác của Lục Đăng ngã xuống. Ngột Truật lấy làm lạ không biết tính sao bỗng thấy quân sĩ bắt được một người đàn bà trong tay có bồng đứa con nít  dắt đến bẩm:
- Người đàn bà này đang bồng đứa con nít cho bú sau cánh cửa, chúng tôi bắt được xin trình chúa công.
Ngột Truật bèn hỏi người đàn bà ấy:
- Ngươi là ai lại bồng đứa bé nấp sau cửa cho bú?
Mụ vú sa nước mắt đáp:
- Đứa bé này là công tử của Lục lão gia, còn tôi đây là người vú nuôi công tử. Cảm thương cho lão gia và phu nhân đã vì nước quyên sinh, chỉ còn một chút huyết mạch đây thôi, xin lão gia dung thứ.
Ngột Truật nghe nói cảm động sa nước mắt liền quay lại nhìn Lục Đăng và nói:
- Lục tiên sinh ơi, tôi không khi nào tuyệt hậu tự của ngài đâu và nguyện nhận con của ngài làm con, đưa về bổn quốc để cho vú này nuôi dưỡng cho khôn lớn nên người, rồi cũng để theo họ ngài thừa tiếp hương hỏa ngày sau, chẳng biết ngài có vui lòng không?
Nói vừa dứt lời thì thấy xác Lục Đăng ngã xuống đất, Ngột Truật cả mừng bèn bồng Lục công tử vào lòng.
Lúc ấy Hấp Mê Xi bước vào thấy thế vội hỏi:
- Chúa công bồng con ai vậy?
Ngột Truật bèn thuật lại mọi việc cho quân sư nghe, Hấp Mê Xi nói:
- Nếu quả đứa bé này là con của Lục Đăng thì xin chúa công hãy cho tôi, để tôi giết nó mà báo thù về việc bị bố nó xẻo mũi.
Ngột Truật nghiêm sắc mặt hét:
- Đừng làm như vậy, đứa bé này có tội tình gì? Vả lại làm tôi thì ai vì chúa nấy, phỏng như quân sư có bắt được kẻ gian tế có bao giờ tha cho hắn không? Tuy Lục Đăng là kẻ địch nhưng ta kính người là một đấng trung thần, chớ nên làm càn. Phải cắt năm trăm quân hộ tống công tử với nhũ mẫu đem về bổn quốc mà nuôi dưỡng, đồng thời phải khâm liệm Lục tiên sinh và phu nhân đem đến chỗ cao ráo chôn cất tử tế.
Sau đó Ngột Truật để Hấp Lợi Tô trấn thủ Lộ An Châu, còn bao nhiêu thì kéo qua đánh Lưỡng Lang quan.
Lưỡng Lang quan có tổng binh Hàn Thế Trung trấn giữ. Hôm ấy người đang thao luyện quân sĩ, bỗng có quân thám tử vào phi báo:
- Lộ An Châu đã bị thất thủ, vợ chồng Lục lão gia đều tử tiết, nay Ngột Truật lại dẫn quân đến đây còn cách thành chừng trăm dặm xin nguyên soái định liệu.
Nghe tin phi báo Hàn Thế Trung lập tức truyền lệnh cho các tướng sĩ ra nơi tam khẩu là nơi yếu địa để ngăn chặn rồi cho phục binh ở đó và đặt súng ống rất nhiều, một mặt làm biểu văn sai người về Biện Kinh cấp báo.
Hàn Nguyên soái còn đang lo liệu toan tính bỗng có quân vào phi báo:
- Nay có tiết đạt sứ là Tôn Hạo đem năm vạn quân đi vòng qua thành lướt tới dinh Phiên rồi.
Hàn Thế Trung lấy làm lạ nghĩ thầm:
- Lạ thật tên gian tặc ấy mãi đến bây giờ nó mới tới sao? Nhưng sao nó lại không đến hợp với ta lại đến thẳng dinh Phiên? Phải chăng binh của Ngột Truật hơn năm mươi vạn còn binh của nó tài cán gì mà dám đương đầu như vậy?
Hàn Thế Trung lại nghĩ:
- Nếu không phát binh tiếp ứng thì đạo binh của Tôn Hạo sẽ bị tiêu diệt hết, bằng ra tiếp ứng thì ải chẳng ai giữ.
Còn đang do dự có kẻ chạy vào báo:
- Có phu nhân đến hội kiến.
Nguyên soái bèn ra mắt phu nhân, vợ chồng ngồi đối diện, nguyên soái lên tiếng hỏi:
- Phu nhân có mưu chước chi hay không?
Phu nhân nói:
- Thiếp nghe Tôn Hạo dẫn quân đến dinh Phiên, thiết tưởng hắn tài cán bao nhiêu mà dám chống chọi với năm mươi vạn quân của Ngột Truật, nhưng nếu tướng công chẳng phát binh tiếp ứng thì ắt gian thần sẽ dâng bổn về triều báo buộc tướng công rằng ngồi yên chẳng tiếp cứu. Vì theo ngu ý của thiếp thì tướng công phải phát binh đi tiếp cứu mới được.
Hàn nguyên soái nói:
- Lời phu nhân nói rất phải.
Rồi quay qua hỏi chư tướng:
- Có ai dám lãnh binh đi cứu ứng Tôn Hạo không?
Bỗng có một tiểu tướng bước ra bẩm:
- Con xin lãnh mạng.
Nguyên soái xem lại thì tiểu tướng ấy không ai khác hơn là đại công tử Hàn Thượng Đức.
Nguyên soái nói:
- Thế thì hay lắm, con hãy đem một ngàn quân tinh nhuệ đi cứu Tôn Hạo.
Công tử điểm binh mã ra đi, bỗng nghe phu nhân kêu lại bảo nhỏ:
- Phàm đạo làm tướng thì cần phải nghe cho đủ tám hướng và thấy cho đủ bốn phương. Gặp lúc nên đánh thì chớ có chần chừ, gặp lúc không nên đánh thì chớ có cưỡng. Con không thấy mặt Tôn Hạo thì không nên xông vào chỗ nguy hiểm nghe chưa?
Công tử lĩnh mệnh dẫn quân ra khỏi thành đến gần dinh Phiên chàng quay đầu ngó qua thấy một vùng đất khá rộng đều là quân Phiên đồn trú.
Thượng Đức nghĩ thầm:
- Quân Phiên đông như vậy nếu ta đánh tới thì một ngàn binh này chết hết, bằng chẳng đánh tới thì không biết Tôn Hạo ở đâu, bây giờ biết liệu sao đây?
Nghĩ vậy, vội quay qua dặn quân sĩ:
- Chúng bay hãy đóng tại đây để một mình ta xông vào dinh Phiên tìm Tôn Hạo. Như tìm được thì hiệp nhau đánh phá, bằng không gặp Tôn Hạo ta có chết tại dinh Phiên, chúng bay hãy chạy về báo cho lão gia hay.
Quân sĩ vâng lệnh đóng binh tại đó rồi một mình Thượng Đức vỗ ngựa vung đao xông đến dinh Phiên hét lớn:
- Có lưỡng lang quan Hàn Thượng Đức đến phá dinh bay đây.
Vừa hét vừa múa đao xông tới chém quân Phiên rụng đầu như sung những tưởng đâu vào tìm cho được Tôn Hạo có ngờ đâu cả đạo quân của y đã chết hết rồi.
Quân Phiên chạy vào báo với Ngột Truật:
- Nay có một tên tiểu nam man xưng là Hàn Thượng Đức xông vào đánh phá dinh ta vô cùng lợi hại, xin chúa công định liệu.
Ngột Truật quay hỏi quân sư:
- Hàn Thượng Đức là người thế nào?
Hấp Mê Xi đáp:
- Tên ấy là con trai lớn của Hàn Thế Trung, tôi đã nói với chúa công trước rồi đó. Vì cha mẹ nó võ nghệ cao cường nên mới sinh con dũng mãnh như vậy.
Ngột Truật mỉm cười:
- Dẫu sao nó cũng chỉ có một mình xông vào dinh trại ta, há lại có thề chống nổi năm mươi vạn quân của ta sao? Thôi để ta đi bắt sống dụ nó đầu hàng.

Nói rồi truyền lệnh các tướng sĩ cần phải bắt sống Hàn Thượng Đức cho kỳ được nhưng chớ gây thương tích. Quân Phiên ào ra một lượt bao vây Thượng Đức nhưng Thượng Đức không chút sợ hãi, chàng tả xông hữu đột tung hoành trong đám quân Phiên giết chúng vô số nhưng lớp này ngã lớp kia ùa vào, công tử không tài nào thoát ra nổi.
Binh tướng của Hàn Thượng Đức đóng ngoài xa trông ngóng hơn nửa ngày vẫn không thấy tin tức công tử đâu cả, chúng đoán chắc công tử đã chết trong dinh Phiên rồi, bèn đem nhau trở về thành báo với nguyên soái Hàn Thế Trung:
- Công tử bảo chúng tôi đóng binh ở ngoài rồi một người một ngựa xông pha trong dinh Phiên đã hơn nửa ngày mà không thấy ra, chúng tôi đoán chắc tính mạng người khó bảo toàn.
Nguyên soái nghe báo vội vào chốn hậu đường nói lại cho phu nhân hay.
Bà phu nhân nghe xong liền khóc rống lên nói:
- Đành rằng đã làm tướng thì phải liều mình vì nước, ngặt vì con tôi tuổi còn trẻ chưa từng thụ hưởng tước lộc của triều đình mà lại bỏ mình chốn sa trường, thật tội nghiệp.
Nguyên soái nói:
- Thôi phu nhân chớ nên bi thương làm gì, tôi quyết đem quân ra đó để nghe tin tức quân Phiên và báo thù cho con.
Nói rồi kiểm điểm binh mã kéo ra thành nhắm dinh Phiên thẳng tới.
Đi được nửa đường binh sĩ đều dừng ngựa, nguyên soái lấy làm lạ hỏi:
- Tại sao đến đây chúng bay lại không đi nữa?
Quân sĩ bẩm:
- Lần trước cũng đến tại đây, công tử truyền lệnh rằng trong dinh Phiên binh mã đông lắm, dù cho chúng ta có đôi ba nghìn quân đi nữa đến đó cũng chỉ nạp mạng mà thôi, nên để chúng tôi đồn trú tại đây chờ đợi.
Nghe vậy nguyên soái rơi nước mắt nói:
- Trước đây đã có lệnh của con ta như vậy thì đến lượt ta, các người cũng đóng binh tại đây mà đợi ta.
Dứt lời nguyên soái một mình một ngựa xông vào dinh Phiên hét lớn:
- Có Đại Tống Hàn nguyên soái đến đây!
Vừa hô hét vang rền vừa vung dao xông vào dinh Phiên chém giết mở đường qua khỏi mấy lớp dinh của giặc, không ai ngăn cản nổi.
Ngột Truật nghe quân phi báo khen nức nở:
- Hàn Thế Trung quả thật là anh hùng.
Rồi quay lại bàn việc cơ mật với quân sư, đoạn truyền quân sĩ hãy bao vây Hàn Thế Trung cho chặt, cố bắt sống không được giết.
Ngột Truật điểmmấy mươi vạn binh mã đi vòng sang phía hữu quyết chiếm lấy Lưỡng Lang quan.
Quan tổng binh Hàn Thế Trung tuy võ nghệ tinh thông song quân Phiên đông như kiến khó bề thoát khỏi vòng vây, vì thế đành chịu mắc kẹt trong đám quân giặc.
Một ngàn quân của Hàn Thế Trung đang đóng giữa đường bỗng thấy Ngột Truật rầm rộ kéo quân tới, hoảng hốt chạy về thành phi báo:
- Nguy tai! Nguy tai! Nguyên soái cũng đã bỏ mạng bên dinh Phiên rồi.
Phu nhân đang đứng trên ải nghe quân về phi báo tin dữ, lòng đau như cắt nhưng không dám khóc than vì sợ rối lòng quân khó bề phòng thủ.
Phu nhân tỏ ra bình tĩnh, không một chút nao núng truyền lệnh:
- Chúng bay phải cố sức canh giữ ải quan cho nghiêm ngặt, nếu ai trái lệnh ta chém đầu lập tức.
Quân sĩ dạ ran rồi bà cho gọi hai vợ chồng người vú giữ nhị công tử vào phòng dặn nhỏ:
- Việc đã khẩn cấp không biết rồi đây ta sống chết ra sao chưa có thể đoán trước được. Hai ngươi hãy thu góp hết vàng bạc cùng đồ tế nhuyễn , bồng con ta lên ngựa chạy ra khỏi ải, lựa chỗ rừng rậm ẩn nấp để nghe ngóng tin tức. Nếu như ta thắng được giặc thì hai ngươi sẽ trở về thành, bằng ta có thất thủ bỏ thây giữa trận tiền thì hai ngươi phải bồng con ta đi cho thật xa, dùng tiền của đó buôn bán làm ăn, nuôi con ta ăn học nên người. Khi khôn lớn hãy đưa về triều để nối chức của lão gia. Hai ngươi cũng được chung hưởng phú quý với nó.

Nói đến đây phu nhân thò vào túi lấy cái ấn trao cho vợ chồng người vú nói:
- Ngươi hãy giữ kỹ hai cái tướng ấn đây, phòng ngày sau dâng cho Thiên triều để làm tín vật. Ta phó thác chút huyết thống ấy cho hai ngươi, xin hai ngươi vì tình mà tận tâm với ta chớ nên sơ suất, linh hồn ta dưới suối vàng sẽ theo phù hộ hai ngươi.
Hai người động lòng rơi lụy, lo thu nhặt vàng bạc rồi bồng công tử lên ngựa chạy thẳng ra khỏi thành.
Chỉ mấy khắc sau quân lại vào phi báo:
- Quân Phiên đã đến bên thành rồi.
- Tướng Phiên đang đứng trước thành khiêu chiến.
Quân vào cáo cấp dồn dập, Lương phu nhân vội nai nịt gọn gàng rồi cầm thương lên ngựa ra quan ải.
Khi bà đến nơi, các tướng tá nghênh tiếp lên ải và thưa:
- Thưa Ngũ quân đề đốc, quân Phiên tràn đến thế mạnh như nước vỡ bờ, xin phu nhân chớ nên xuất trận, hãy kiên trì phòng thủ thành chờ binh tiếp cứu đến rồi sẽ hay. Nhưng Lương phu nhân lúc ấy tưởng chồng mình đã bỏ mạng trong dinh trại địch nên quyết sống chết với chúng một phen, làm sao có thể ngồi chờ quân tiếp viện cho đành?!

HOMECHAT
1 | 1 | 183
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com