watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
18:25:5118/05/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Gót Sen Ba Tấc - Trang 2
Chỉ mục bài viết
Gót Sen Ba Tấc
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Tất cả các trang
Trang 2 trong tổng số 14

Hồi thứ nhất

Cô cháu ngoại Qua Hương Liên

Nhìn bà cứ bận bịu hết ra sân lại vào nhà, cô cháu gái Qua Hương Liên thấy rờn rợn trong lòng. Bà bọc một mảnh vải to mầu xanh thành những dải dài hồ trong chậu, lấy chày đập cho mịn, cho bóng rồi vắt lên dây phơi trong sân thành hàng dài. Gió thổi những dải vải lật qua lật lại soàn soạt, có lúc xoắn với nhau như thừng, xoắn chặt rồi quay ngược lại, tở ra từng dây một. Đầu này tở ra, đầu bên kia lại xoắn.
Sau đấy bà ra phố mua về gói to gói nhỏ. Đặt gói to sang một bên, bà mở gói nhỏ ra trên giường lô. Bao nhiêu là thứ ngon! Táo ngọt này, lê chua này, kẹo mạch nha, váng sữa đậu này, lại cả kẹo bông mà Hương Liên thích ăn nhất. Kẹo bông vừa trắng vừa xốp như bông mới tinh bà may thành áo vào đầu mùa đông, bỏ vào mồm đã tan ngay, chỉ để lại chút vị ngọt. Những món ăn ngon ngày ba mươi Tết đã nhiều mà cũng không đủ như hôm nay.
- Bà ơi, sao bà thương cháu thế hả bà?
Bà không đáp, chỉ cười. Thấy bà cười, Hương Liên yên tâm ngay. Có bà là chẳng phải sợ gì cả. Bà có nhiều cách tài tình, hàng xóm phía trước phía sau đều gọi bà là bà "đại tài". Mùa đông năm ngoái khi xâu lỗ tai, Hương Liên sợ lắm. Các chị đã xâu bảo chẳng khác gì tra tấn; thịt đang nguyên lành thế kia chọc thủng một lỗ nhìn xuyên qua được, lại không đau đớn sao? Vậy mà bà không coi việc ấy ra gì. Bà lấy sẵn một cây kim, xâu chỉ vào, ngâm trong bát dầu thơm. Đợi ngày tuyết rơi, bà vốc một nắm xát mạnh vào dái tai Hương Liên, xát đến đỏ ửng, tê dại đi, kim xuyên qua chẳng đau tẹo nào. Bà rút kim ra, buộc hai đẩu chỉ vào với nhau, mỗi ngày kéo vài lần, máu không dính cứng. Chỉ thấm dầu kéo rất trơn, chỉ thấy hơi ngưa ngứa. Nửa tháng sau, bà đeo cho Hương Liên một đôi hoa tai có hai hạt lưu li màu xanh lủng lẳng, đẩu hơi ngoắt một cái, hai hạt lưu li vừa nhẵn vừa mát đã chạm vào cổ. Hương Liên hỏi bà bó chân cũng ngon lành như vậy sao? Bà ngẩn người một lát, rồi bảo:
- Bà có cách, cháu ạ!
Nhưng Hương Liên vẫn lo lo. Không biết ai mách hay Hương Liên nghe được rằng việc bó chân khó như vượt ải Quỉ Môn, nhưng Hương Liên tin bà có cách giúp em qua được cửa ải ấy.
Chiều hôm sau, Hương Liên đang chơi ngoài sân, bỗng nhìn thấy mấy món đồ chơi rất lạ màu đỏ, màu lam, màu đen bày trên cửa sổ. Thì ra đó là bốn năm đôi giầy bé tí xíu. Hoàng Liên chưa từng thấy giầy bé đến thế bao giờ, chúng chỉ rộng bằng một lát dưa, nhọn như góc bánh nếp ăn ngày tết mồng năm, giầy của bà to hơn nhiều. Em ướm thử đế giầy vào chân liền thấy rùng cả mình, gân dưới bàn chân giật co rút lại. Em cầm giầy chạy vào nhà hỏi bà:
- Giầy của ai đây hả bà?
Bà cười bảo:
- Của cháu đấy mà, con bé ngốc ạ! Có thấy đẹp không, cháu?
Hương Liên quẳng giầy đi nhoài vào lòng bà vừa khóc vừa nói:
- Cháu không bó chân đâu, không bó, không bó đâu!

Những thớ thịt do bà cười dồn trên mặt bỗng chảy xệ xuống, đuôi mắt, khoé môi bà nhếch lên, rồi từng giọt nước mắt to tí tách rơi xuống. Nhưng bà không nói gì cả. Cho đến tối, Hương Liên sụt sịt mãi rồi thiếp đi, suốt đêm em mơ màng cảm thấy bà cứ ngồi bên cạnh, bàn tay thô nhám của bà không ngừng xoa nắn chân em, lại còn cầm bàn chân em lên, đặt vào đôi môi mềm mà khô, có nhiều nếp nhăn của bà thơm mãi, thơm mãi.
Hôm sau là ngày bó chân.
Ngày bó chân, vẻ mặt bà thay đổi hẳn. Da mặt bà căng đến mức giật lên, mắt không ngó Hương Liên lần nào. Em cũng chẳng dám gọi bà một câu. Qua cửa nhìn ra ngoài sân thấy tình thế thật đáng sợ - cổng đóng chặt, cây gióng to chặn cứng. Con chó Mực lớn tướng cũng bị cột lại. Đôi gà trống hoa mơ mào đỏ chót không biết từ đâu ra, cẳng to bằng ngón tay cái bằng thừng buộc chặt, đang nằm nghiêng trên mặt đất ra sức nhảy lên. Bó chân mà bắt gà làm chi? Giữa sân bày một lô đồ vật: bàn thấp, ghế con, dao phay, kéo, hộp phèn, hộp đường, ấm nước, bông, giẻ rách. Những dải vải buộc chân cuộn thành cuộn đặt trên bàn. Vạt áo trứơc của bà gài mấy cây kim to dùng để khâu chăn, lỗ kim xâu chỉ trắng buông thõng trước ngực. Hương Liên tuy nhỏ tuổi cũng hiểu những của tội nợ bày trước mắt kia là dành cho em.
Bà ấn em ngồi xuống ghế con, tháo giày cởi tất em ra. Mắt Hương Liên đỏ mọng lên, em van xin:
- Cháu xin bà để đến mai hãy bó, mai nhất định cháu bó mà!
Bà hình như không nghe thấy, xách đôi gà trống lên, ngồi trước mặt Hương Liên, chập cổ hai con gà lại với nhau, chặn một chân lên, chân kia đè lên chân gà, tay túm lấy đám lông dưới ức gà vặt trụi rồi cầm dao phay lên, phập phập phanh bụng hai con gà ra. Máu chưa kịp trào, mỗi bên tay bà đã túm lấy một bàn chân Hương Liên nhét vào bụng gà, vừa nóng bỏng vừa dấp dính. Hai con gà chưa chết hẳn cứ giãy đành đạch dưới chân, Hương Liên sợ quá rút chân ra, bà liền quát như điên:
- Chớ động đậy!

Chưa từng nghe bà quát tháo bao giờ, Hương Liên ngớ người ra. Chỉ thấy hai tay bà ấn chân em, hai chân bà đè cứng đôi gà. Em run rẩy, gà run rẩy, chân tay bà cũng run rẩy, tất cả run rẩy cùng nhau. Vì để giữ cho chặt, bà rời ghế chổng mông lên rõ cao, Hương Liên chỉ sợ bà gượng không nổi, chúi đầu ngã vào người em.
Một lúc sau, bà buông tay bỏ chân em ra. Máu gà đỏ tươi nhỏ giọt dính nhơm nhớp. Bà vứt hai con gà to tướng ra một bên, một con đạp được hai cái là ngoẻo, con kia vẫn còn nhảy dựng lên. Bà kéo cái chậu gỗ lại, rửa sạch chân cho Hương Liên, lau khô, đặt trên đầu gối bà. Thế là sắp bó rồi. Hương Liên không còn biết nên la, nên gào, nên van xin hay nên giãy giụa, cứ ngó sững bà nắm chặt chăn em, chân phải trước, chân trái sau, tách riêng ngón cái ra, túm lấy bốn ngón chân còn lại, ra sức bẻ gập về phía gan bàn chân, xương kêu đánh "cách" làm em hoảng quá kêu "ối" một tiếng. Bà giũ dải vải bó chân ra buộc chặt lấy bốn ngón này. Hương Liên thấy chân mình biến dạng, chưa cảm thấy đau đã khóc òa lên.
Tay bà nhanh thoăn thoắt. Bà sợ Hương Liên làm dữ nên bó nhanh tay cho chóng xong. Dải vải bó chặt bốn ngón, quấn xuống lòng bàn chân, vòng lên mu bàn chân, kéo chặt ra sau gót rồi lại bó bốn ngón một vòng nữa. Đoạn bà lật ngửa bàn chân lên, lấy sức kéo về phía sau, bắt bốn ngón quặp hẳn vào lòng bàn chân. Hương Liên chỉ cảm thấy chỗ này đau, chỗ kia chặt, chỗ đó tức chỗ nọ gãy, nhưng bà không cho em kịp cảm nhận kĩ từng vị, cứ làm thật nhanh, quấn thêm hai vòng như trước. Sau đó bà kéo dải vải về phía trước, quấn kĩ ngón chân cái còn để chừa ra ngoài, rồi cứ từng lượt từng lượt từ trước ra sau, bó chặt cứng bốn ngón chân quặp vào lòng bàn chân, chặt như lấy kìm kẹp chặt, không thể động cựa một li một lai, nửa li nửa lai nào.
Hương Liên vừa sợ vừa đau, kêu thét lên như lợn ré. Đám trẻ con hàng xóm nghịch ngợm chen chúc ngoài cổng gọi nhau:
- Xem kìa, cái Hương Liên bó chân đấy!
Cửa bị đẩy rung ầm ầm, những hòn đất nhỏ từ ngoài ném vào trong. Con chó mực to vừa xông ra vừa nhảy lên, sủa về phía cửa, sủa cả về phía bà, cái cọc cột chó bị kéo nghiêng hẳn đi. Lông gà, bụi bặm trên mặt đất bay mù. Móng tay Hương Liên bấm vào cánh tay bà đến ứa máu, nhưng dù trời sập bà cũng mặc kệ, hai tay bà vẫn không ngừng bó, dải vải bó chân quấn qua quấn lại càng quấn càng ngắn dần. Đến đấu mút, bà rút kim xâu sần chỉ gài ở vạt áo trước xuống, khâu hàng trăm mũi đặc kín, rồi lấy đôi giầy nhỏ màu đỏ lắp vào chân em. Bà giơ tay vén những sợi tóc bết vào trán, thớ thịt trên mặt giãn ra, bảo Hương Liên:
- Xong rồi. Có đẹp không?

Hương Liên thấy đôi chân mình biến dạng ki quặc như thế, khóc càng thương tâm, nhưng em chỉ nức nở khan, không còn hơi để khóc thành tiếng nữa. Bà bảo em đứng dậy thử bước. nhưng hai chân vừa chạm đất đã đau đến mức em phải ngồi bệt ngay xuống, không đứng lên được nữa. Tối hôm ấy, hai chân nóng như lửa đốt, Hương Liên van nài bà nới vải bó một chút, nhưng bà vừa nghe đã sầm mặt lại. Đêm chịu không nổi, em phải gác chân lên bệ cửa sổ để gió đêm thổi cho đỡ nhức.
Ngày hôm sau chân càng nhức. Nhưng nếu không bước xuống đất mà đi, đầu bốn ngón không mòn đứt được thì chân nhỏ không thành hình. Mặt đằng đằng sát khí như quỉ dữ ở miếu thờ thành hoàng, bà cám chổi quét giường đánh em, quất em, kéo em xuống đất, em có xin tha, làm mình làm mẩy hay ra đều chẳng ăn thua. Em đành như con gà què, cả nhắc gượng đi trong sân, có ngã lăn ra bà cũng không cho nghỉ lấy một chốc. Em cảm thấy đầu ngón chân răng rắc đứt rời ra, những mảnh xương vụn cọ đi cọ lại vào nhau kêu kin kít, mới đầu buốt tận ruột, sau không còn thấy đau và cũng không còn thấy là mình nữa, vậy mà em vẫn cứ phải đi.
Hương Liên mồ côi cả cha lên mẹ từ thuở bé thơ, trên đời chỉ có bà là cưng em nhất. Nay chỉ chốc lát bà đã trở nên dữ dằn như vậy. Em thấy cô đơn như con chim non không nơi nương tựa. Một đêm, em nhẩy cửa sổ trốn ra ngoài, lần một mạch ra bờ sông Hàm. Không qua được sông mà cũng không còn sức đi được nữa, em cầm chân lên dùng răng dứt đứt vải bó, cởi ra xem. Dưới ánh trăng, hình thù bàn chân trông đến sợ. Em giúi bàn chân xuống đám bùn nhão không dám nhìn nữa, chỉ muốn cứ thế mà chết đi. Trời mờ mờ sáng, bà tìm thấy em, không mắng cũng chẳng đánh, cõng em về nhà, bó chân lại như cũ.
Không ngờ lần này bà bó càng ác, bẻ gập cả đốt chân liền với đầu ngón chân, bốn ngón quặp dưới lòng bàn chân càng ép sâu hơn nữa. Lần này bà bó càng chặt, càng nhọn và càng đau hơn. Hương Liên chỉ nghĩ là bà giận em bỏ trốn, quyết phạt em, có biết đâu đó chính là một khâu quan trọng bậc nhất trong phép bó chân. Gãy được đốt ngón chân mới thành một nửa, rụng cả xương ngón chân mới gọi là hoàn thành. Thế mà bà vẫn chưa vừa ý, ngày nào cũng cầm cái trục cán bột mì đập đánh, đau đến nỗi em kêu thét lên, vang ra cả bên ngoài. Bà lão họ ôn nhà ở đằng Đông chịu không nổi, đến mắng bà:
- Mụ làm cái gì thế? Lúc nhỏ xương mềm không bó, có đời thuở nào bảy tuổi mới bó, để cho con bé khổ sở đến như thế bao giờ! Mụ không hiểu hay sao mà cứ làm như vậy hả?
- Nếu chân con cháu tôi từ lúc sinh ra không nhỏ, không mềm, không sẵn có dáng đẹp, nếu tôi còn đợi được nữa thì hôm nay tôi cũng chưa ra tay...
- Đợi? Mụ đợi mà được à? Đợi đến lúc thịt dai xương cứng, cầm trục cán mì đánh đập nó mà thành dáng được chăng? Sao chẳng cầm dao đẽo cho rồi? Thôi đừng làm tội con bé nữa, chẳng còn cách nào nữa đâu, dáng được đến đâu hay đến đấy thôi!

Bà ngoại Hương Liên đã sẵn chủ ý nên không cãi lại nữa. Bà nhặt ít mảnh bát vỡ, đập vụn ra, đệm dưới bàn chân khi bó lại. Hễ em bước đi, mảnh bát vỡ cứa nát chân em. Mấu cán chổi của bà có vụt đen đét như thế nào, Hương Liên cũng không chịu nhúc nhắc nữa. Bị đòn còn hơn chân bị cứa đau. Bàn chân nát bó kín trong đám vải vỡ mủ ra. Mỗi tần thay vải bó, bao giờ bà cũng phải lôi tuột cả máu mủ lẫn thịt thối. Thực ra đó là cách bó chân có từ lâu đời ở nông thôn miền Bắc. Thịt có rữa, xương có gãy mới có thể thay hình đổi dáng như ý muốn.
Đến lúc này, bà không bắt ép Hương Liên bước xuống đất nữa. Bà gọi các cô, lớn có bé có, ở cạnh nhà đến chuyện trò bầu bạn với em. Một hôm, cô Ba nhà họ Hoàng ở mạn Bắc phố đến chơi. Cô này người cao to, bàn chân dài gần sáu tấc, ai cũng gọi là cô "chân voi". Vừa vào nhà nhác thấy bàn chân nhỏ của Hương Liên, cô kêu lên:
- Ái chà! Từ bé chưa thấy bàn chân nào như thế này. Vừa nhỏ, vừa nhọn, vừa thon, thanh tú đáng yêu thật đấy. Nếu cô tiên thứ bảy có thấy, nhất định cũng phải phục lăn. Bà em tài thật, nếu không, sao được gọi là "bà đại tài"?
Hoàng Liên giảu môi, nước mắt đã cạn từ lâu, chỉ mếu máo:
- Mẹ chị mới thương chị, không bó quá chặt cho chị. Em thà để chân to còn hơn.
- Chà chà, con bé chết tiệt này! Không mau mau nhố nước bọt đi, nhổ hết những câu bậy bạ đó đi! Mày thích chân to à, tao đổi ngay! Cho mày ngày ngày kéo lê đôi chân to như tao, ai nhìn thấy cũng cười, cũng mắng, gả cũng chẳng gả cho ai được. Dù mai ngày có ai lấy thì chắc chắn chẳng phải nhà tử tế gì. Có câu hát, em chưa nghe à? Chị hát cho em nghe nhé! "Bó chân nhỏ, lấy tú tài bánh bột trắng, thịt cá ăn hoài; bó chân to, lấy anh mù mắt, bánh bột cám hẩm xơi với ớt!" Nghe rõ chưa?
- Chị chưa phải chịu cái tội nợ này, nói mới dễ chứ!
- Chịu cũng chỉ chịu một lúc, cắn răng lại là qua được thôi. "Chịu khổ một lúc, đẹp cả một đời" mà lị! Đến lúc chân nhỏ bó xong, ai nhìn thấy cũng khen, lúc lớn lên nhờ đôi chân quý giá ấy mà ăn ngon mặc đẹp, hưởng cả đời không hết, thế có phải đẹp bao nhiêu, sướng bao nhiêu không?
- Nhưng mà đau lắm chị ạ.
- Nếu em cứ nhụt chí như thế, chị không đến thăm em nữa đâu! Muốn đẹp, muốn hơn người thì đừng sợ đau, đã sợ đau thì đừng mong đẹp, muốn cả hai thế nào được?
Cô "chân voi" không ngờ nói khích Hương Liên bằng câu đó đã giúp cô bé có sức mạnh. Em không kêu đau nữa, chỉ hỏi:
- Từ nay em còn chạy được không hả chị?
- Ngốc ơi là ngốc! Con gái chúng mình bó chân cốt để không chạy được. Em có thấy con gái lớn nhà ai suốt ngày xoạc cẳng chạy lung tung ngoài đường chưa? Trẻ con chưa bó chân, chưa phân biệt trai gái, bó rồi mới kể là con gái. Kể từ nay em không còn như trước nữa, bắt đầu có danh có giá rồi đấy.
Đôi mắt nhỏ của cô " chân voi" nhíu thành hình trăng non, ánh mắt đầy vẻ thán phục.

Từ hôm ấy Hương Liên thay đổi hẳn. Hàng ngày em tự xuống giường, hai tay vịn chống vào mép giường, cạnh bàn, lưng ghế, khung cửa, mép vại, tường, thân cây, cán chổi để tập đi, nuốt nỗi đau lớn như trời đất vào bụng, miệng không bao giờ hé nửa câu mềm lòng thối chí. Lúc phải thay vải quấn chân, em cứ ngẳng đầu nhìn trời, tay phải cấu tay trái, răng cắn chặt lấy môi, mặc cho bà dứt đứt từng miếng da thịt dính máu mủ, không hề nhăn mặt nhíu mày. Thấy bộ dạng đó bà cũng ngẩn người ra, kinh ngạc không hiểu cô cháu gái do đâu mà gan lì đến vậy. Nhưng bà vẫn nghiêm nét mặt, kì cho đến khi chân em hết máu mủ, đóng sẹo và bong vẩy.
Ngày hôm ấy, bà mở rộng cổng, bà cháu mỗi người một cái chế đẩu ngồi ngay ngoài cổng. Người trên phố rất đông, quần xanh áo đỏ rực rỡ, các cô gái thoa son đánh phấn, ríu rít vào thành. Thì ra hôm nay là tết Trùng Dương, mồng chín tháng Chín âm lịch là ngày mọi người lên trên cao, qua bờ sông bên kia viếng lầu Ngọc Hoàng. Sau khi bó chân, hôm nay là ngày đầu tiên Hương Liên ra khỏi cổng. Trước kia em chẳng bao giờ để ý đến chân người khác, nay chân mình có chuyện mới ngắm nghía chân người. Bỗng em nhận ra, người không cùng nét mặt thì chân bó cũng mỗi người mỗi khác. Nét mặt có xấu, có đẹp có thô, có tinh tế, trắng, đen, sáng sủa, đôn hậu, ngờ nghệch, thông minh, thì chân bó cũng có to, có nhỏ, có bụ, có gầy, có ngay, có vẹo, phẳng, nhọn, thô kệch, khéo léo, nặng nề, nhẹ nhõm. Có một cô bé tuổi xấp xỉ em, đi đôi giầy bằng đoạn đỏ nhỏ như hai củ ấu, rất linh hoạt má giầy thêu hoa kim tuyến, mũi giầy đính hai quả cầu nhung xanh biếc, lại gắn hai cái nhạc bằng bạc, bước đi nhún nhẩy quả cầu nhung lắc qua lắc lại, nhạc loong coong vang lên. Em cầm chân mình lên so, đâu có bằng được. Em đứng ngay dậy trở vào nhà, cầm mớ vải bó chân ra đưa cho bà, nói:
- Bà cứ bó đi, bó chặt nữa cũng được, cháu muốn như bạn kia kìa!
Em chỉ cô bé đi đã xa. Không thấy vẻ mặt em, ai tin được một cô bé con lại quyết tâm đến thế. Đôi mắt già nua của bà đẫm nước mắt. Vẻ mặt hung dữ vài ba tháng nay lập tức biến mất để trở về với bộ mặt hiền từ như xưa. Khuôn mặt nhăn nheo của bà quay qua quay lại, chợt bà ôm chầm lấy Hương Liên khóc hu hu:
- Nếu bà mềm lòng thì lúc lớn con sẽ oán bà thôi!

Hồi thứ hai

Viêc quái lạ mới bắt đầu

Trong đời này, những việc đi từng cặp với nhau như xấu tốt, thành bại, thật giả, vinh nhục, ân oán, cong thẳng, thuận nghịch, yêu ghét v.v..., xem ra đối đầu quyết liệt với nhau, như không tốt tức là xấu, không thật tức là giả, không được tức là mất, không thành tức là bại. Có biết đâu giữa những cái xấu tốt, thẳng cong, ân oán, thật giả ấy còn tiềm ẩn biết bao quanh co, biết bao kiểu cách, biết bao tri thức, nếu không, làm sao lại có lắm việc rối rắm quện chặt cứng lại thành cục không phân giải ra được đến thế? Làm sao lại có lắm người bị lừa, trúng kế, vào tròng, xong việc rồi lại vẫn có lắm người bị lừa, trúng kế, vào tròng lần nữa đến thế?
Chỉ đơn cử hai chữ thật giả, trong đó đã có biết bao điểu sâu sắc, kì bí mà nếu có mời thánh nhân nói mỏi mồm, chưa chắc đã nói được rành. Có thật tất có giả, có giả ắt có thật; thật càng nhiều, giả càng ít, mà giả càng nhiều, thật càng ít. Ngay ở sự thật thật giả giả này, từ xưa tới nay đã có biết bao nhiêu trò vè, đã diễn biết bao nhiêu màn kịch lớn nhỏ? Kịch tiếp theo kịch, kịch lồng trong kịch, chưa bao giờ thôi. Thay thật bằng giả là thủ đoạn cao của con người; dùng giả nhiễu thật là tài năng của con người; tưởng giả là thật, ấy là đầu óc anh mù mờ, mắt anh kém cỏi. Xin bạn đừng giận, đừng sốt ruột, biết bao người cả đời tưởng giả là thật, đến lúc chết vẫn chưa nhận ra sự thật, thế chẳng phải giả chính là thật hay sao? Giữa hai chữ thật giả này, người thật thà chỉ biết đó là hai cực, người tinh ranh biết lộn sòng ở quãng giữa, còn có người nhờ vào chúng mà kiếm cơm nữa kia.
Ông họ Đồng, chủ hiệu đồ cổ Dưỡng cổ trai trên phố lớn Bắc Cũng là một người như thế. Con người này ngón nghề như thế nào khoan hãy bàn. Ông còn là một quái nhân. Thế nào gọi là quái? Người viết truyện không thể nói trắng ra được, chỉ có thể kể sự việc để các bạn nghe lời lẽ ông ta, xem hành động ông ta, đo nỗi lòng ông ta, dần dần suy ra mà thôi.
Một sáng nọ, Đồng Nhẫn An từ nhà đi ra, vào đến cửa hiệu liền cho tất cả người làm công lớn nhỏ ra ngoài, cài chặt cửa, chỉ để cậu chủ Đồng Thiệu Hoa và thằng bé coi kho tên là Hoạt Thụ ở lại. Không đợi hai người có thì giờ nghỉ ngơi, ông chủ vội bảo:
- Mau đem mấy bức tranh ấy treo lên coi!

Khi nào cửa hiệu mua được món hàng tốt, mời ông chủ xem qua đều làm như thế. Đồ cổ thật hay giả là điều tuyệt mật, không được để lọt tăm hơi ra ngoài. Đồng Thiệu Hoa là con trai, tất nhiên không cần giấu. Còn thằng Hoạt Thụ coi kho không phải là đứa tin được mà chỉ vì nó là thằng nửa ngây dại nửa tàn phế. Gần hai chục tuổi đầu mà bộ dạng chỉ bằng dứa trẻ mười ba, mười bốn, người không sao lớn lên được, lại còn vẹo ngực lệch vai, chẳng khác gì cái hộp giấy bẹp dúm dó. Nói thì cứ như miệng ngậm hột thị, không biết là lưỡi đầy hay lưỡi ngắn, hai con mắt từ nhỏ không mở to được con ngươi bé tí thụt trong kẽ mắt như là không có con ngươi vậy. Hắn lại có bệnh suyễn, một năm ba trăm sáu lăm ngày, hơi thở cứ mắc trong cổ họng kêu khò khè, ngồi không mà thở cũng đứt hơi, từ lúc đẻ ra đã có cái đức đó rồi, thuở nhỏ gọi là Hoạt Thụ lúc lớn vẫn gọi Hoạt Thụ, cha mẹ liệu chừng hắn không sống được lâu, đặt tên hẳn hoi cho là rách việc. Đồng Nhẫn An lại ưng ý cái bộ dạng không mắt, không mồm, hụt hơi, ngây dại của hắn, thuê hắn coi kho, đem người chết dùng như người sống mà cũng là đem người sống dùng như người đã chết.
Hoạt Thụ mở kho, ôm bó tranh mua hôm qua ra, cầm cây gậy khều từng bức một treo lên. Đồng Nhẫn An hé mắt liếc qua mặt tranh, rồi nói:
- Thiệu Hoa, con hãy nói chất lượng mấy bức tranh này cho cha nghe! - Nói xong, lão chủ ngồi xuống uống trà.
Đồng Thiệu Hoa cố nén khoe tài trước mặt cha từ nãy, bây giờ cha vừa khép miệng hắn liền mở mồm:
- Theo mắt con, bức tranh sơn thủy có trục cuốn của Đại Địch Tử này cũ thì cũ thật đấy nhưng nhìn kĩ thì không phải, chữ đề nét yếu ớt, con ngờ chỉ là món đồ chơi hù dọa người đúng không ạ? Bức Mây phủ trăng treo này tất nhiên không phải giả, nhưng trong số tranh của Kim Giới Chu, nhiều nhất cũng chỉ vào loại trung bình. Còn bốn bức vẽ cảnh sĩ nữ của Tiêu Bỉnh Trinh và bức Vượn trắng hái đào của Lang Thế Ninh này lại là của hiếm. Cha nhìn kìa, lụa bồi tranh toàn thứ lụa hoàng lăng. Người bán nói đây là bức lấy được từ một nhà giàu có hồi kinh thành bị đánh phá năm xưa. Câu ấy đúrg thôi, nhà tầm thường quyết không thể có đồ vật cỡ đó được...
- Người bán có phải con cháu nhà Trương Lâm ở Vấn Tân viên không?
- Cha có cách gì nhận ra được thế? Trên tranh có đề lạc khoản đâu? - Đồng Thiệu Hoa giật mình.
Đồng Nhan An có ánh mắt hút hồn người, lần nào duyệt tranh cũng làm Thiệu Hoa giật mình kinh ngạc như thế. Đồng Nhẫn An không trả lời, giơ tay chỉ một bức tranh lụa khổ rộng treo trên bức tường phía Đông, bảo:
- Lại nói về bức kia xem...
Trước kia, khi duyệt tranh, Thiệu Hoa hễ mở miệng là cha hắn đã lắc đầu. Hôm nay cha hắn không lắc cũng không gật, hắn chắc mẩm đoán đúng đến tám phần, bèn đắc ý cười:
- Cha còn định thử con à? Ai mà chẳng thấy đó là tranh Tô Châu chính cống, loại hàng chợ? Bút pháp thì đúng bút pháp người đời Tống, tiếc rằng già dặn một chút nên để lộ ra là giả. Việc làm giả này thua kém bản lĩnh ông Năm Ngưu, tức ông Ngưu Phượng Chương ấy. Cha xem, họ cố ý không để lạc khoản, là vì sợ lộ chân tướng, hoặc giả muốn làm mê hồn trận... Sao thế? Cha nhìn thấy gì đó?
Thiệu Hoa thấy cha đứng lên, mắt sáng quắc nhìn đăm đăm vào bức tranh lớn đang treo. Hắn biết mỗi khi cha nhận ra vật báu, mắt cứ tóe lửa ra như thế. Lẽ nào đó là hàng thật sao? Đồng Nhẫn An kêu lên:
- Anh lại đấy xem xem trên cành cây khô ở góc dưới kia có viết gì không? - Bàn tay chỉ bức họa của Nhẫn An run bắn.
Đồng Thiệu Hoa bước tới, thoạt nhìn hắn đã kêu "oái" lên một tiếng như con vịt bị ai dẫm phải, đoạn nói:
- Trên đó viết "Bề tôi là Phạm Khoan làm", thì ra tranh đời Tống. Cha thánh thật đấy? Hôm mua con đã xem đi xem lại đến ba ngày cũng không nhìn ra trên chỗ này có chữ! Cha, cha... - Hắn không hiểu vì sao Đồng Nhẫn An đứng cách tranh đến một trượng mà nhận ra có chữ trên tranh.
Chẳng ai biết Đồng Nhẫn An mắt viễn thị, chỉ có một mình lão biết. Lão tránh câu trả lời, chỉ nói:
- Làm rộn cái gì? Kêu ầm cái gì? Ta đã dạy từ lâu rằng người đời Tống không thịnh đề chữ trên tranh. Lạc khoản không viết trên đá thì cũng để xen vào đám cây. Như thế gọi là "tàng khoản". Mấy điều đó ta đều nói cả rồi, anh chẳng để ý nghe lại còn kinh ngạc hỏi lại...
- Thế thì nhà ta vớ được bức tranh quý rồi. Cha biết không, tổng cộng mình chỉ mất có mấy đồng...
- Tranh quý cái gì? Ta còn chưa xem kĩ, ai dám chắc đúng là tranh đời Tống? - Đồng Nhẫn An chặn ngang, mặt sầm xuống, ngoảnh đầu liếc xéo Hoạt Thụ đứng đằng sau, bảo hắn: - Đem bức tranh khổ lớn, tranh sơn thủy có trục cuốn và bức Mây phủ trăng treo của Kim Giới Chu cuộn lại nhập kho!
- Coòng... lai... mí... bứ... treng... a! - Hoạt Thụ rụt rè hỏi.
- Lắp ba lắp bắp cái gì, đi! - Lão chủ sốt ruột nói.
Hoạt Thụ rướn đầu lưỡi, cố nói rành rọt câu vừa rồi:
- Còn - lại - mấy - bức - tranh - này - thì - sao - ạ? - Hắn chỉ vào mấy bức của Tiêu Bỉnh Trinh và Lang Thế Ninh.
- Giữ lại quầy đề giá bán! - Đồng Nhẫn An ngoảnh lại bảo Thiệu Hoa. - Người nước ngoài hỏi thì đòi giá cao vào!
- Chà, chẳng lẽ mấy bức tranh này không phải là...

Đồng Nhẫn An lộ rõ vẻ khinh thường. Lão thở một hơi rõ dài, hơi thở lạnh giá, bất giác lẩm nhẩm bốn câu vè lưu truyền ở vệ Thiên Tân:
Nước biển về Đông chảy,
Đất này khó bền lâu.
Giầu sang ba đời hiếm,
Thanh liêm chẳng đến đầu.
Rồi lão lại lẩm bẩm nói một mình:
- Người làm nên thì làm nên, kẻ sa sút thì sa sút. Hoa nở rồi lại tàn, nước đầy rồi tự cạn, chẳng ai thoát ra khỏi cái vòng này. Ôi chao...
Lão trầm ngâm một lát, tính nén cơn giận trong lòng song không được. Lão toan lên tiếng, chợt liếc thấy Hoạt Thụ đang nghiêng vai lệch cổ như đợi nghe lão nói tiếp, bèn giục hắn ôm đống tranh xuống kho. Hoạt Thụ vừa bước khỏi, lão đã xông tới trước mặt con trai gắt lên:
- Hừ, hỏi này hỏi nọ mãi! Thật giả mày nhìn ngược hết cả, lại còn muốn tao chỉnh cho mày một trận trước mặt kẻ dưới hay sao? Vả lại, có mặt người ngoài, nói chuyện thật giả được không? Tao hỏi mày, ta kiếm cơm bằng cái gì?
- Bằng thật giả.
- Câu này đúng. Nhưng mà thật giả ở chỗ nào?
- Ở trên tranh.
- Tầm bậy! Sao lại ở tranh? Ở mắt mày ấy! Mày nhìn không ra thì tranh thật hay giả có ích gì? Của quý dưới mắt mày thành tờ giấy lộn, tờ giấy lộn dưới mắt mày trở nên của quý! Mấy bức Lang Thế Ninh, Tiêu Bỉnh Trinh rõ ràng phơi bày "đường cổng sau", vậy mà mày lại cho là của tốt, ngược lại coi tranh thật đời Tống là tranh chợ Tô Châu. Bức tranh đời Tống ấy đủ cho mày xài nửa đời, vậy mà mày có mắt như mù, cầm vàng bạc quý giá vứt ra đường như vứt cứt chó! Còn bức tranh có trục cuốn ấy cũng là giả à? Mày không biết từ năm thứ hai mươi chín đến năm ba mươi mốt niên hiệu Khang Hy, nhà vua đến làm khách ở Thiên Tân, ở ngay nhà họ Trương trong Vấn Tân viên hay sao? Tranh rõ ràng ghi năm Tân Mùi niên hiệu Khang Hy, chính là được vẽ hồi ngài ngự ở nhà họ Trương niên hiệu Khang Hy năm thứ ba mươi. Dựa vào ngón nghề lặt vặt bề ngoài cũng kiếm được cái định kiếm, thế mà mày không nắm vững, lại còn định làm nghề buôn đồ cổ. Tao để cửa hiệu cho mày chẳng bằng cho một mồi lửa còn hơn! Vài ba năm nữa, không chừng mày gán cả xương cốt cái thân già này. Nghe đây, từ ngày mai, mày cuốn chăn đệm dọn đến đây ở, tao chưa bảo, không được phép về nhà. Bảo thằng Hoạt Thụ lục đồ trong kho ra, từng thứ một, xem, xem, xem, xem, xem... - Nói đến đây, miệng Đồng Nhẫn An cứ loanh quanh với tiếng "xem", y hệt âm này ngáng ngang miệng lão.

Đồng Thiệu Hoa thấy cha hắn nhìn ra phía ngoài cửa sổ mà mắt cứ sáng quắc thì tưởng lão lại nhìn thấy cái gì quý báu hiếm có trên đời. Dõi theo ánh mắt của cha qua chấn song cửa hình ô vuông, hắn thấy có mấy người đang làm việc ở sân sau.
Sân sau này, người ngoài không ai biết, là nơi bí mật làm giả đồ cổ của hiệu Dưỡng cổ trai. Thì ra lão Đồng Nhẫn An này không giống người khác: lão làm nghề buôn đồ cổ nhưng không bán của thật, chỉ bán của giả. Tất cả các hàng đổ cổ khác đều bán cả của giả lẫn của thật. Phàm những ai đến cửa hiệu đồ cồ đểu muốn kiếm đồ thật, nhưng cũng có người chuyên kiếm đồ dởm. Đồng Nhẫn An nhận thấy điều đó. Cửa hiệu của lão tuyệt không bày đồ thật, toàn một mã đồ giả, khác nào Gia Cát Lượng bày kế thành bỏ trống, không có lấy một lính, mốt tốt nào. Trong nghề đồ cổ, cách đó gọi là dùng giả làm nhiễu thật; chiêu này thực sự đã vận dụng bí quyết của nghề buôn đồ cổ đến chỗ huyền diệu. Chỉ cần xỉa tiền ra là thế nào cũng vào bẫy, đừng hòng được lợi tẹo nào. Lão Nhẫn An còn có ngón nghề kì lạ, ấy là làm đồ giả. Dưới quyền lão có những người chuyên làm tranh giả cho lão. Còn ở sân sau, lão đóng chặt cửa làm đồ cổ giả. Đồ ngọc, đồ đồng, tiền cổ, quạt xưa, lò Tuyên Đức, đồ ngà, nghiên mực, đồ sứ, đồ mạ, thảm, mực Huy Châu v.v..., không thứ nào lão không hiểu, không biết, không thể làm. Làm phỏng theo đồ cổ không khó, làm nhiễu được đồ thật mới khó. Kiểu dáng, chất liệu, hoa văn của đồ cổ, mỗi triều đại một dạng, thậm chí một triều đại có mấy trăm dạng, ngư long biến hóa vô cùng tận, thiếu chút tay nghề thì chớ nói sờ đến cửa nghề, ngay bức tường vây quanh "nơi làm nghề" cũng chưa mó́ đến được. Khó hơn nữa là cái vóc, cái khí, cái vị, cái thần của đồ cổ. Chẳng hạn như cách nói của nghề đồ cổ, có loại cổ "truyền thế" và loại cổ "xuất thổ". Cổ truyền thế là những đồ truyền từ đời này sang đời khác, tay người sờ đi mó lại, lâu dần đồ cổ nhẵn bóng, không thật rõ vận. Cổ xuất thổ là những thứ được chôn dưới đất từ lâu, khi đào lên dính nhiều mạt đất và sét gỉ, có một vẻ cổ riêng. Nói chi tiết hơn, những đồ ngọc xuất thổ như trâm cài tóc, sáo, chụp ngón tay, vòng đeo tay, chuỗi hạt, ống điếu vùi trong đất hàng trăm hàng ngàn năm, để cạnh những đồ đồng tủy tảng, lâu ngày gỉ đồng ngấm vào nên có những chấm xanh, gọi là "tẩm đồng"; máu người chết ngấm vào sinh ra những chấm đỏ, gọi là "tẩm huyết". Làm đồ giả làm thế nào có được "tẩm đồng" và "tẩm huyết"? Lại nói đồ vật để lâu ngày, không va chạm cũng sinh ra những vết rạn, lâu hơn nữa có một tầng vết rạn trùm lên trên hết, tầng này đến tầng khác, tự nhiên như thế, làm lấy được thì rõ ngay là giả, người tinh đời chỉ ra được liền. Riêng Đồng Nhẫn An có phép làm được tất. Phép đó, một nhờ từng trải, hai nhờ mắt tinh, ba nhờ ngón nghề.

Ba thứ đó gọi là cao thủ, cao nhãn, cao chiêu, thiếu một là không xong. Hàng giả cũng có hạ phẩm, trung phẩm, thượng phẩm, tuyệt phẩm. Hàng giả tuyệt đỉnh là thứ phải nhờ "con mọt" trong nghề ngắm đủ một trăm lẻ tám ngày mà trong lòng không do dự thì mới gọi là được. Đông Nhẫn An chỉ làm thứ hàng đó.
Người giúp việc do lão thuê cũng khác với các hàng đồ cổ nói chung. Lão không dạy nghề, chỉ sai việc vặt. Những người được thuê làm đồ giả đểu là người nghèo không biết tí gì về đồ cổ, chẳng khác gì trứng vịt muối, than qua lửa, bảo làm sao thì làm vậy. Khắp sân chất đầy vại chưa nung, gộc củi, hộp bột màu, sọt, than đá, đất sét, sắt đỏ, đồng xanh, người ngoài có nhìn vào cũng không thể biết làm cái gì.
Lúc ấy, nơi thu hút ánh mắt của Đồng Nhẫn An có hai cô gái đang kéo một tấm thảm để làm thành thảm cổ theo phương pháp của lão. Lão mua thảm sản xuất ở Trương Gia Khẩu, toàn thảm hoa xanh viền đen kiểu đời Minh. Lão quết phẩm vàng, vắt ngang sợi chão lớn, sai hai người kéo đi kéo lại cho thảm mòn tuyết. Xong, lấy bàn chải sắt chải hết tuyết rụng, rồi dùng vải thấm nước chùi sạch lần nữa, thế là thành cũ. Kéo thảm không được kéo nhanh, phải mài từ từ mới thành vẻ xưa cũ. Đồng Nhẫn An cố ý thuê đàn bà để kéo; đàn bà sức yếu tất nhiên kéo chậm. Hai người con gái ấy mỗi người nắm một góc thảm, kéo qua kéo lại, người này rướn lên, người kia thụp xuống.
Cô gái đứng bên này tấm thảm quay lưng lại phía lão, cô đứng phía bên kia khuôn mặt lấp sau tấm thảm, chỉ có thể nhìn thấy đôi chân xinh xinh, xỏ trong đôi giày vải đỏ trơn thông thường, bình dị. Mỗi khi cô đẩy tấm thảm lên, gót giầy kiễng cao, mỗi khi kéo về, gót dận xuống lùi lại, trông sinh động chẳng khác gì đôi cá lội. .
- Thiệu Hoa! - Đồng Nhẫn An gọi to.
- Con đây, có việc gì thế?
- Con bé kia ở đâu đến vậy?
- Đứa nào? Đứa xây lưng lại ấy à?
- Không, con bé đi giày đỏ kia!
- Con không biết. Con nhà Hàn thuê hộ, để con đi hỏi.
- Khỏi, khỏi cần, anh ra dẫn nó vào đây, ta muốn hỏi nó vài câu.

Đồng Thiệu Hoa chạy ra dẫn cô gái vào. Cô gái lần đầu tiên lên nhà trên, lần đầu tiên gặp cụ chủ nên rụt rè xấu hổ, mắt không biết nhìn vào đâu, luống cuống thế nào lại nhìn vào chính lão. Nhưng lão không nhìn mặt cô mà cứ nhìn chăm chăm vào đôi chân nhỏ của cô ánh mắt dấp dính như dán chặt vào chân cô, cô càng hoảng, không biết dấu chân vào chỗ nào. Khi ngước mắt lên, con ngươi lão tựa dát vàng lóe lên những tia sững sờ cứ như gặp ma không bằng. Cô gái sợ sệt, trống ngực đánh liên hồi. Thiệu Hoa đứng cạnh ngầm đoán ra, bèn bảo cô gái:
- Bước thử một bước xem sao.
Cô gái không biết ý tứ ra sao, càng sợ, bước lùi lại nửa bước. Hai chân rụt về phía sau, như đôi chim sẻ đỏ tinh nhanh, sợ hãi, run rẩy chui vào tổ, chỉ còn lại hai mũi giầy thò ra dưới gấu quần như hai cái đầu chim. Đồng Nhẫn An mặt mày hớn hở hỏi cô gái:
- Cháu bao nhiêu tuổi?
- Thưa mười bảy.
- Họ gì tên gì?
- Dạ họ Qua, tên Hương Liên.
Đồng Nhẫn An hơi giật mình, sau đó kêu lên:
- Tên hay đấy! Ai đặt cho cháu?
Qua Hương Liên xấu hổ không dám nói nữa, thầm lấy làm lạ. Tên Hương Liên có gì là hay? Nghe cụ chủ hỏi, nhìn nét mặt cụ chủ, cô như rơi vào đám sương mù.
Đồng Nhẫn An lập tức bảo Đồng Thiệu Hoa trả công cho cô đủ ba tháng, không giao việc cho cô nữa, bảo cô cứ ở nhà. Hương Liên bối rối. Cô làm việc chăm chỉ, chẳng nói nửa câu gì, sao lại bị thải về? Nhưng xem ra không phải bị thải mà như muốn trọng dụng cô. Không biết cụ chủ toan tính cái gì? Rồi đây là việc tốt hay xấu, cô chưa biết, chỉ biết lúc này là một việc lạ.
Nếu nói đến việc quái lạ, lúc này chẳng qua mới chỉ bắt đầu.

HOMECHAT
1 | 1 | 181
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com