Hôm sau, chúa Thổ Phiên Ngột Tòng Đào định đích thân dẫn binh ra trận, bỗng thấy Xích Phong Bất Hoa quì tâu:
- Hà tất chúa công phải thân chinh làm chi cho nhọc sức? Thiết tưởng một mình hạ thần cũng đủ sức tiêu diệt chúng rồi.
Ngột Tòng Đào nói:
- Cần phải có ta xuất trận tướng sĩ mới chịu hết lòng, Nguyên soái chớ nên khinh địch.
Ngột Tòng Đào nói rồi mang giáp lên ngựa kéo binh xông ra khỏi trại thì đã thấy quân Nguyên kéo đến sắp đặt hàng ngũ đâu ra đó chỉnh tề rồi.
Sau khi một tiếng pháo nổ vang, binh Nguyên bỗng rẽ ra làm hai, từ phía sau xông ra một viên đại tuớng, mình mặc chiến bào, cỡi con bạch mã, tay cầm giáo, bên tả đeo cung, bên hữu mang tên, tướng mạo đường đường, oai phong lẫm lẫm. Phía sau lại có trương cây cờ lớn đề một hàng chữ “Võ Trạng nguyên Đô đốc Đại Nguyên soái Hoàng Phủ”.
Xích Phong Bất Hoa thấy thế giục ngựa lướt tới gằn giọng hỏi:
- Ngươi có phải là Hoàng Phủ Kính không?
Hoàng Phủ Kính gật đầu:
- Phải, còn ngươi là ai, xưng rõ tên họ trước khi dâng đầu cho ta.
Xích Phong Bất Hoa giận dữ vỡ ngực đáp:
- Xích Phong Bất Hoa Đại tướng là ta đây, tài cán ngươi bao nhiêu dám múa rìu qua mắt thợ.
Nói chưa kịp dứt lời, Xích Phong Bất Hoa đã vung kiếm đâm thẳng vào mặt Hoàng Phủ Kính, Hoàng Phủ Kính vung giáo đỡ vẹt ra rồi hai người đánh vùi với nhau chưa đầy vài hiệp đã nghe một tiếng pháo nổ vang. Bên tả Phùng Nhựt Thăng, bên hữu Thi Tổ Vinh xua quân đánh nhầu ra một lượt. Quân Phiên bị đánh bất thình lình, hoảng hốt bỏ chạy tán loạn.
Xích Phong Bất Hoa cảm thấy sức mình không thể cự nổi Hoàng Phủ Kính, lại thấy quân ình cả loạn nên đâm bậy một kích rồi quày ngựa chạy dài.
Lúc ấy, Ngột Tòng Đào lại hay tin lương thảo của mình bị quân Nguyên thiêu hủy hết, thất kinh quày ngựa bỏ chạy. Hoàng Phủ Kính xua quân đuổi theo đến mười dặm mới đánh trống đắc thắng thâu quân trở về.
Về đến trại, Nguyên soái Hoàng Phủ Kính truyền quân sĩ nấu cơm ăn no nê, đặng chờ cho trời tối đi đánh tiếp một trận nữa.
Hoàng hôn vừa phủ xuống, Hoàng Phủ Kính đã phân công cho Phùng Nhựt Thăng đem binh đánh vào phía tả, Thi Tổ Vinh đánh vào phía hữu, còn mình thì bản thân dẫn đại binh đánh thẳng vào đại dinh của Thổ Phiên.
Lịnh truyền ra, quân sĩ rần rộ kéo đi như vũ bão.
Khi Ngột Tòng Đào chạy về đến dinh trại kiểm điểm lại binh tuớng thì thấy chết mất một đại tướng là Hàn Khởi, còn binh mã hao mấy ngàn, quân bị thương không biết bao nhiêu mà kể.
Ngột Tòng Đào mười phần buồn bực, một mình chong ngọn đèn lo lập mưu kế để chống lại quân Nguyên. Qua đến canh ba, bỗng bên ngoài dinh nổ lên một tiếng pháo long trời, rồi quân Nguyên từ ba mặt la ó vang trời dậy đất đánh rốc vào một lượt.
Ngột Tòng Đào và Xích Phong Bất Hoa đều thất kinh, vội vã mang giáp lên ngựa xông ra.
Nhờ có ánh lửa soi sáng, Xích Phong Bất Hoa trông thấy Hoàng Phủ Kính đang đứng trong trận điều khiển quân sĩ, nên vội xông nhào tới. Tướng Nguyên là Trần Thượng Cử thấy vậy vội vung giáo đón Bất Hoa lại giao chiến.
Lúc bấy giờ hai cánh quân của Phùng Nhựt Thăng và Thi Tổ Vinh từ hai bên đánh vào rát quá, khiến Xích Phong Bất Hoa cảm thấy lính quýnh, bị Hoàng Phủ Kính lướt tới đâm một giáo trúng ngay yến hầu té nhào xuống ngựa chết tốt. Tướng Phiên Hình Thăng thấy vậy lòng nóng như lửa đốt vung đại đao xông vào, bị Trần Thượng Cử đâm một giáo thủng tới sau lưng rồi vít ra xa lắc. Hoàng Phủ Kính khiến quân cắt lấy thủ cấp hai tướng Phiên rồi đốc quân ùa vào chém giết binh Phiên thây nằm chật đất, máu chảy thành sông. Binh Thổ Phiên thất kinh hồn vía vỡ chạy, quân Nguyên rượt theo đến hai mươi dặm mới chịu trở lại.
Sau trận đại thắng, Hoàng Phủ Kính truyền mở tiệc khao thưởng, cho tướng sĩ nghỉ ba ngày để dưỡng sức rồi sẽ ra binh.
Trận ấy Ngột Tòng Đào chạy xa đến ba mươi dặm mới dừng chân; sau khi kiểm điểm đám tàn binh thì thấy quân mình hao hơn phân nửa, lại bị mất Nguyên soái Xích Phong Bất Hoa cùng rất nhiều đại tướng.
Ngột Tòng Đào rơi lụy than:
“Ta không ngờ Hoàng Phủ Kính tài giỏi đến thế. Ta đã thua tiếp hai trận, tinh thần binh tướng đã nhược, biết tính sao đây?”
Thừa tướng Cát Siêu Nhân tâu:
- Tôi còn sợ Hoàng Phủ Kính có thể thừa thắng đem quân nã ta nữa, mà hiện giờ binh tướng ta đã mất tinh thần rồi, làm thế nào có thể chống cự nổi. Chi bằng sai sứ đến cầu hòa, lập kế hoãn binh rồi ngày sau sẽ liệu.
Ngột Tòng Đào khen phải, viết một hàng thư đổ lỗi cho Xích Phong Bất Hoa, đoạn sai Thổ Kim Tinh mang đến dinh Nguyên xin hàng.
Thổ Kim Tinh lãnh thư đi thẳng đến dinh Nguyên xin vào ra mắt để dâng hàng thư, quân sĩ chạy vào báo, Hoàng Phủ Kính truyền cho vào. Thổ Kim Tinh vào khép nép quì bẩm:
- Chỉ vì Chúa công tôi nghe lời Xích Phong Bất Hoa nên mới đem binh xâm phạm Thiên triều, nay Xích Phong Bất Hoa tử trận, chúa công đã biết ăn năn tự hối nên sai tôi mang hàng thư kính dân lên Nguyên soái, mong Nguyên soái rộng lòng dung cho chúa tôi một phen, chúa tôi về nước sẽ mang lễ vật sang dâng nạp và đầu hàng.
Thổ Kim Tinh nói dứt lời, hai tay dâng bức hàng thư lên, Hoàng Phủ Kính tiếp lấy giở ra xem rồi gật đầu bảo:
- Được rồi, ta cũng lấy lòng quảng đại dung thứ cho chúa ngươi, nhưng ta hạn cho trong vòng một tháng phải mang đồ cống lẽ sang, bằng bê trễ ta sẽ cử binh sang gia phạt.
Thổ Kim Tinh bái tạ, lui về báo lại vớii Ngột Tòng Đào. Ngột Tòng Đào mừng rỡ vội truyền quân nhổ trại kéo về nước, Hoàng Phủ Kính cũng thâu binh hồi thành rồi viết biểu sai người mang về trào báo tiệp.
Độ nửa tháng sau đã thấy Ngột Tòng Đào sai Thổ Kim Tinh mang đồ cống lễ sang, Hoàng Phủ Kính liền sai Phùng Nhựt Thăng đưa Thổ Kim Tinh đến kinh cho tướng Phiên bái yến Thiên tử.
Thổ Kim Tinh vào triều bái tung hô rồi dâng lên nhiều ngọc ngà châu báu, vua Thế Tổ nhà Nguyên mừng rỡ phán:
- Đã hai lần Hoàng Phủ Kính bình phục được Thổ Phiên. Trẫm muốn triệu va rút quân về triều, chẳng hay các khanh nghĩ sao?
Hữu Thừa tướng Kỳ Thạnh Đức bước ra tâu:
- Bệ hạ mới lên ngôi cửu ngũ, lòng dân chưa được yên ổn cho lắm, vả lại chỗ Vân Nam là nơi trọng trấn, cần phải để cho Hoàng Phủ Kính trấn giữ luôn tại Vân Nam mới được.
Nguyên Thế Tổ khen phải rồi lập tức hạ chỉ phong cho Hoàng Phủ Kính làm Đô đốc Vân Nam Binh mã Đại Nguyên soái để trấn giữ mãi mãi ở Vân Nam.
Tiếp đặng thánh chỉ, Hoàng Phủ Kính sai Tổng binh Trần Thượng Cử đem bớt binh mã về kinh, đồng thời rước gia quyến ra Vân Nam.
Từ đó vị Nguyên soái họ Hoàng trấn thủ Vân Nam hết lòng dạy dỗ dân tình và siêng năng hết mực, đem lại thái bình cho dân trong tỉnh.
Nhân lúc nhàn hạ, ông lo dạy dỗ hai con. Ngày giờ thấm thoát thoi đưa, chẳng bao lâu Trưởng Hoa và Thiếu Hoa tuôi đang đôi mươi, hai chị em nhờ trí thông minh nên tuy tuổi còn nhỏ mà nghề văn nghiệp võ thảy đều lão luyện. Ngày kia hai chị em trò chuyện với nhau, Trưởng Hoa nói:
- Chị đây là gái, dù có giỏi văn thơ gẫm chẳng ích chi, nên chị muốn lo việc nữ công và theo thân phụ học thêm võ nghệ để giữ mình. Còn phần hiền đệ thì nên chăm lo đèn sách để sau này lập thân.
Thiếu Hoa nói:
- Chị nói vậy sao phải. Vả chăng chúng ta là con nhà võ tướng, trước khi thân phụ mới mười tám tuổi đã thi đỗ Trạng nguyên, thế thì em phải luyện võ nghệ để nối gót theo người chớ.
Trưởng Hoa suy gẫm rồi gật đầu khen phải. Sua đó hai chị em bày tỏ chí hướng mình cho Hòang Phủ Kính nghe. Hòang Phủ Kính thấy con mình có chí hiếu học nên mừng rỗ vô cùng bè nói với Trưởng Hoa:
- Tuy con là hạng quần thoa nhi nữ, song con có sức mạnh, lại có khiếu về võ thuật, nếu con dốc lòng luyện tập võ nghệ chắc mai sau sẽ trở nên một nữ tướng hữ dụng cho quốc gia đấy.
Rồi từ đấy hai chị em bắt đầu tập cỡi ngựa bắn cung và thao luyện võ nghệ, không một giờ phút nào xao lãng. Đến khi hai chị em lên mười lăm tuổi cả hai võ nghệ đều tinh thông. Bắn cung bá phát bá trúng, thương pháp xuất quỷ nhập thần.
Hòang Phủ Kính thường khoe với phu nhơn:
- Phải chi triều đình cho con gái vào thi thì chắc Trưởng Hoa Tiểu thơ của chúng ta đây đỗ Trạng nguyên đấy chớ chẳng phải chơi.
Dõan Phu nhơn nói:
- Nếu như lời giới thiệu của phu quân thì nhà ta hữu phước biết bao, nhưng hiện nay chúng nó đã trưởng thành mà việc nhơn duyên chưa định đôi nơi nào, thật tôi lấy làm lo lắng.
Hòang Phủ Kính nói:
- Việc ấy phu nhơn hãy an tâm, vì khi sanh Trưởng Hoa đã có điềm hào quang chói rạng, hương thơm ngào ngạt, tất nhiên tướng mạng nó sau này sẽ được đại phú, đại quí. Phàm trời đã sanh ra kỳ nữ bao giờ cũng đã định sẵn nhơn duyên rồi, ta chớ nên vội vã.
Phu nhơn nói:
- Việc con gái thì mười hai bến nước trong nhờ đục chịu, phó mặc cho trời đã đành, còn việc con trai thì phải liệu sao đây?
Hòang Phủ Kính nói:
- Tuy phước mạng công tử không sánh nổi với tiểu thơ song cũng không phải là hạng tầm thường, tôi đã để ý một nơi xứng đáng rồi.
Phu nhơn hỏi vội:
- Chẳng hay phu quân định chọn nơi nào cho con vậy?
Hòang Phủ Kính đáp:
- Quan Binh bộ Thượng thơ Mạnh Sĩ Nguyên có một người con gái tên Mạnh Lệ Quân, năm nay mới mười lăm tuổi, tài mạo kiêm tòan thật xứng đáng là dâu nhà ta.
Phu nhơn nghe nói lấy làm đẹp dạ, liền hối thúc:
- Nếu Mạnh Thượng thơ có con gái tài mạo như thế thì ta nên cậy người đến cầu thân kẻo lỡ cơ hội thì uổng lắm.
Hòang Phủ Kính khen phải, liền viết thư cậy quan Bố chánh là Tần Thừa Ân đến xin cầu hôn.
Xin nói qua Mạnh Sĩ Nguyên vốn người huyện Côn Minh tỉnh Vân Nam, lúc mười bảy tuổi đã thi đỗ Võ khoa Tấn sĩ, về sau được thăng đến chức Binh bộ Thượng thơ, vợ là Hàn thị đến năm bốn mươi tuổi mới sanh được hai người con. Người con trai lớn tên Mạnh Gia Linh và một người con gái nhỏ tên Mạnh Lệ Quân. Mạnh Gia Linh khi mới lên mười một tuổi cũng thi đổ Võ khoa Tấn sĩ, được bổ làm quan ở Hàn lâm viện, vợ y là Phương thị cũng con nhà võ tướng.
Vừa rồi bà thân mẫu của quan Binh bộ Mạnh Sĩ Nguyên qua đời, nên cả hai cha con đều cáo quan về thọ tang, có lẽ nay hạn tang đã mãn, nhưng hai cha con còn ở nhà chưa đến kinh.
Bây giờ xin nhắc lại lúc Hàn Phu nhơn mang thai Mạnh Lệ Quân đã đi tìm mướn được một người vú rất chân thật để khi sanh ra người ấy nuôi dưỡng.
Thuở ấy, tại huyện Côn Minh có nàng Đỗ thị, lúc nhỏ theo đòi nghiên bút và học tập nữ công, năm Đỗ thị lên mười lăm tuổi kết duyên với một kẻ hàn nho tên Tô Tín Nhơn, tự là Tiểu Tòan. Tô Tính Nhơn vốn chăm chỉ học hành, tháng ngày miệt mài kinh sử, nhưng số phận đen bạc nên không lập được công danh, chỉ trông cậy vào một tay Đỗ Thị hẩm hút cháo rau cho qua ngày tháng.
Năm Đỗ thị được hai mươi lăm tuổi thì có thai. Một đêm nằm mộng thấy người đàn bà mặc áo đỏ dắt theo một nàng tiên nữ đến bảo Đỗ thị:
- Tuy chồng ngươi cố công đèn sách song không có phần khoa danh, lại không được hưởng dương trường thọ. Nay ta đưa Bỉnh Khuê Nữ này đến đầu thai làm con gái nhà ngươi, để sau này ngươi được cậy nhờ sung sướng.
Đỗ thị tỉnh giấc chiêm bao sanh đặng một người con gái vô cùng xinh đẹp, đặt tên là Tô Yến Tuyết. Đỗ thị biết chắc sau này con mình thế nào cũng được vinh hoa phú quí nên cố sức nuôi dưỡng.
Qua năm sau Tô Tín Nhơn thọ bịnh qua đời; Đỗ thị quyết một lòng thủ tiết thờ chồng nên tìm nơi xin làm nhũ mẫu để có điều kiện dưỡng nuôi con trẻ.
Lời Bình:
Ngột Tòng Đào đã biết Hoàng Phủ Kính một tay lợi hại nên rút quân đóng dinh cố thủ, thế mà khi Hoàng Phủ Kính đem binh đến nơi lại không điều tra thám thính, để cho Hoàng Phủ Kính phục kích không hay, còn nghe lời Xích Phong Bất Hoa khinh thường Hoàng Phủ Kính thì đại bại là đáng lắm. Phàm việc binh gia, đã không tìm hiểu để biết tình hình giữa ta và địch, lại còn khinh địch thì không đời nào thắng nổi.
Các bà phu nhơn thời bấy giờ, khi đặt thai vào dạ đã phải lo đi tìm người vú nuôi, vì đó là một việc làm rất quan trọng. Chẳng những phải tìm một người có sức khỏe để có sữa tốt để cho con mình mau lớn mà thôi, còn phải lựa người tánh tình nhơn hậu, lễ phép đoan trang, vì đứa bé lớn khôn gần gũi bà vú nhiều nhất, nếu bà vú hư thân mất nết, tất nhiên con mình cũng thế, vì vậy tuyển chọn một người vú nuôi cũng khó khăn như tuyển một người vợ hiền vậy.
Nàng Đỗ thị quả là hạng đàn bà tảo tần, đủ sức cáng đáng việc tề gia nội trợ, có vậy bà mới có thể một tay làm nuôi ông chồng ăn học miệt mài kinh sử, nhưng không may chồng qua đời, tuổi nàng còn đang độ xuân xanh, mặc dầu nàng thủ tiết thờ chồng, nhưng đã dễ gì ở vậy được? Người ta thường bảo “gái không trai dỗ lâu buồn cũng xiêu”. Nàng Đỗ thị có đủ tài làm nuôi chồng ăn học tất nhiên nàng cũng đủ sức nuôi con chứ? Song nàng biết mình không thể sống trong hòan cảnh côn đơn này trong lúc con ong cái bướm bay dập dìu trước cửa như thế được.
Vì vậy việc nàng đi ở vú cho vị Binh bộ Thượng thơ họ Mạnh không phải nàng đi tìm miếng cơm manh áo mà chính nàng đi tìm chỗ dung thân để có điều kiện thủ tiết thờ chồng nuôi con. Thế thì Mạnh Sĩ Nguyên kính trọng nàng, lại truyền cho gia quyến không ai được khinh nàng là phải lắm.
Mạnh Sĩ Nguyên tìm được người vú nuôi là nàng Đỗ thị lòng mừng khắp khởi, vì ông ta thấy nàng là người tiết phụ lại thêm cử chỉ đoan trang nên truyền cho gia quyến ông không ai được tỏ vẻ khinh thường nàng, buộc mọi người trong nhà phải kêu nàng là Tô Đại nương.
Đêm hôm ấy Hàn Phu nhơn sắp lâm bồn, bỗng chiêm bao thấy một người đem đến cho nàng một nàng tiên vào bảo:
- Ta vâng lện Ngọc Đế đem Chấp Phất Nữ đến đầu thai làm con gái nhà ngươi, ngày sau sẽ hưởng phú quý vinh hoa.
Khi Hàn Phu nhơn tỉnh dậy, mùi hương bay ngào ngạt khắp gian phòng, sau đó sanh hạ được một nàng con gái mặt mày xinh đẹp như hoa nở. Mạnh Sĩ Nguyên nghe Hàn Phu nhơn thuật lại câu chuyện trong giấc mộng nên đặt tên con là Lệ Quân rồi giao cho Tô Đại nương nuôi dưỡng.
Ngày tháng trôi qua, nàng Mạnh Lệ Quân và Tô Yến Tuyết lên bốn tuổi, cả hai đều xinh đẹp khác thường, hai trẻ chơi với nhau như chị em ruột.
Hai nàng vừa lên năm tuổi đã được theo Mạnh Gia Linh cùng học tập, nhưng trong ba người chỉ có Mạnh Lệ Quân là thông minh hơn cả, nàng học đâu nhớ đó, lại còn có óc nghiên cứu nên nàng có thể biết cả những việc nàng chưa học đến. Mạnh Gia Linh tuy cố tâm học tập song không thông minh bằng Mạnh Lệ Quân, còn Tô Yến Tuyết thì đứng vào hàng thứ ba.
Khi Mạnh Lệ Quân lên bảy tuổi thì ngũ kinh tứ thư thảy đều làu thông, lại có tài thi phú hay xuất chúng. Tuy vậy nàng phải cái tật sợ đau, lại được phu nhơn quá cưng nên không xỏ lỗ tai.
Mạnh Sĩ Nguyên thấy vậy phàn nàn:
- Con gái mà không xỏ lỗ tai thì làm sao gả lấy chồng?
Hàn Phu nhơn đáp:
- Thôi, để khi sắp lấy chồng sẽ xỏ lỗ tai vậy.
Mãi đến năm mười ba tuổi mà ngày nào Mạnh Gia Linh làm văn cũng thua sút em gái mình, thậm chí văn bài của Mạnh Lệ Quân, Mạnh Sĩ Nguyên chấm duyệt không thể sử chữa được một chữ nào.
Mạnh Sĩ Nguyên tấm tắc khen:
- Phải chi triều đình cho con gái vào thi, chắc chắn Mạnh Lệ Quân nó sẽ chiếm bảng Trạng nguyên.
Ngòai việc học hành thi văn kinh sử, Mạnh Lệ Quân còn nghiên cứu qua y bốc, tướng số và rất chuyên cần việc nữ công nên việc bánh trái thêu thùa nàng thông thạo hơn ai hết.
Hàng ngày nàng lúc thúc trong huê viên cùng với mẹ con Tô Yến Tuyết, nàng ít hay trang điểm, nhưng nhan sắc xinh đẹp lạ thường. Còn Tô Yến Tuyết tuy tài mạo chẳng bằng Mạnh Lệ Quân song nghề văn thơ cũng giỏi, nhan sắc cũng tuyệt vời, so với người thường thì ít ai sánh kịp.
Hàn Phu nhơn lại nuôi một đứa tớ gái tên Vinh Lang đã siêng năng, khôn ngoan dễ dạy, tính tình lại lanh lợi ít kẻ bì, nên rất ý hiệp tâm đầu với Mạnh Tiểu Thơ. Vì vậy không bao giờ nàng rời xa nó một bước.
Mạnh Sĩ Nguyên thấy con gái mình đã học rộng tài cao lại thêm trí tuệ sâu sắc, am hiểu việc đời nên có việc chi khó đều hỏi ý kiến nàng, nàng góp ý kiến là giải quyết được ngay.
Lúc bấy giờ rất nhiều hạng vương tôn công tử đến cậy mai mối để đẹp duyên cùng Mạnh Lệ Quân, nhưng quan Binh bộ xét thấy con mình tài mạo tuyệt vời thật khó mà chọn cho được người xứng đôi vừa lứa, vì vậy lần hồi ông ta kiếm lời từ chối hết.
Lúc bấy giờ tại quận Côn Minh có một vì quan Hồ Lô tên Cố Hoằng Nghiệp là một Tấn sĩ xuất thân, năm nay tuổi độ năm mươi, ông cáo quan về hưu để nuôi đưỡng mẹ già. Ngày kia Cố Hoằng Nghiệp tìm đến Mạnh gia trang vào ra mắt Mạnh Sĩ Nguyên. Hai đàng chào hỏi xong vừa phân ngôi chủ khác mời ngồi thì bỗng gia đinh chạy vào báo:
- Có quan Tần Bố chánh đến nữa.
Mạnh Sĩ Nguyên đứng dậy xin lỗi Cố Hoằng Nghiệp rồi ra rước Tần Thừa Ân vào.
Sau khi chủ khách ba người an tọa, trà nước xong xuôi, Mạnh Sĩ Nguyên lên tiếng hỏi:
- Chẳng hay nhị vị đại nhơn đến viếng tôi có điều chi dạy bảo?
Tần Bố Chánh và Cố Hoằng Nghiệp đều đồng thanh nói:
- Chúng tôi đến đây chỉ vì việc hôn nhân của lịnh ái.
Mạnh Sĩ Nguyên hỏi:
- Chẳng hay nhị vị đại nhơn muốn xây dựng cuộc nhơn duyên của con gái tôi cho ai vậy?
Tần Thừa Ân lên tiếng trước:
- Tôi định làm mối lịnh ái cho con Hoàng Phủ Nguyên soái tên Hoàng Phủ Thiếu Hoa.
Cố Hoằng Nghiệp cũng nói:
- Còn tôi đây lại muốn cầu hơn cho cháu tôi là Lưu Khuê Bích, thứ tử của Nguyên Thành Hầu Lưu Tiệp.
Rồi ông ta tự giới thiệu:
- Chẳng phải tôi muốn khoe tài của cháu tôi chứ thật ra Lưu Khuê Bích năm nay mới mười sáu tuổi mà văn võ kiêm tòan, thường ngày đến cùng với Hoàng Phủ công tử, luận võ đàm văn, thi văn, dượt võ không khi nào chịu thua sút. Vả lại, cháu gái tôi nay làm Chánh cung Hoàng hậu đã nhiều lần định tâu cùng Thiên tử yêu cầu trọng dụng Lưu Khuê Bích nhưng chỉ vì anh nó là Lưu Khuê Quang đang trấn thủ tại Bắc thành Nhạn Môn Quan nên phu nhân chẳng nỡ xa, nên mới để ở nhà phục thị. Nếu lệnh ái đây mà gả cho họ Lưu, đã đựơc phú quí vinh hoa lại được gần gũi tiện bề đi lại, chớ như gả cho nhà Hoàng Phủ, mai sau phải về tận Hồ Quảng đường xa diệu vợi thật khó mà viếng thăm.
Tần Thừa Ân cười gằn và nói:
- Việc gả con lấy chồng cốt tìm nơi xứng đáng chứ có ai lại nghĩ đến việc xa gần?
Tuy lúc ấy Tần Thừa Ân không khoe tài Hoàng Phủ Thiếu Hoa, song Mạnh Sĩ Nguyên cũng nhận thấy cả hai người đều đáng mặt giai tế cả, thật khó mà từ chối bên nào, nên kiếm lời nói:
- Lão phu vốn thương yêu con gái lắm nên không nỡ ép con, vậy việc này cần hỏi ý kiến nó mới được, nếu nó ưng nơi nào thì tôi sẽ gả nơi ấy vậy.
Tần Thừa Ân và Cố Hoằng Nghiệp đều gật đầu khen phải và đồng nói:
- Đại nhơn nói như vậy phải lắm, vậy hãy vào hỏi ý kiến tiểu thơ xem sao.
Mạnh Sĩ Nguyên vội bước vào thuật lại sự việc cho phu nhơn và công tử nghe.
Hàn Phu nhơn hỏi:
- Theo phu quân thấy thì hai nhà ấy, nhà nào xứng hơn?
Mạnh Sĩ Nguyên đáp:
- Xét về môn đăng hộ đối thì hai nhà cũng ngang nhau, còn xét về tài mạo của hai vị công tử ấy cũng tùng tiệm với nhau, thật khó phân ai hơn ai kém.
Mạnh Gia Linh nói:
- Theo con thấy thì Lưu Tiệp vốn phường vô lọai xuất thân, ỷ thế lực công thần thường hay hiếp đáp kẻ dưới, còn nhà ta đây là dòng dõi trung lương không nên kết thân với những hạng người ấy. Nếu ta kết thân, không khéo người ta sẽ chê mình là kẻ xu phụ quyền thế. Chi bằng kết thân với Hoàng Phủ Kính là Trạng nguyên xuất thân, một nhà nhân đức biết kính trên nhường dưới, không hai hơn sao?
Mạnh Sĩ Nguyên nói:
- Chính ta cũng nghĩ như vậy, nhưng hai bên đến cầu hôn một lượt, nếu gả cho nhà Hoàng Phủ thì e mích dạ họ Lưu, thật chẳng biết nên liệu sao cho phải.
Mạnh Gia Linh suy nghĩ hồi lâu rồi đáp:
- Việc này quả nhiên khó liệu thật.
Hai cha con đang bối rối thì vợ của Mạnh Gia Linh là Phương thị đứng phía sau mỉm cười. Hàn Phu nhơn thấy thế hỏi:
- Việc chi con lại cười mà không nói?
Phương thị thưa:
- Con thấy xưa nay thiếu chi việc khó khăn hơn nữa mà còn giải quyết được thay, huống chi nay việc này cũng nhỏ mọn có gì là khó?
Hàn Phu nhơn lại hỏi:
- Thế thì theo ý con nên giải quyết bằng cách nào cho tiện?
Phương thị thưa:
- Cả hai bên đều là con nhà võ tướng cả, vậy ta hãy lập một cuộc thi tiễn, mời hai vị công tử đến huê viên tranh tài cao thấp. Ta chỉ cần đem một đồng tiền treo trên nhành liễu và cột nối một chiếc áo cẩm bào, đọan phát cho mỗi người ba mũi tên, phát thứ nhất buộc phải trúng nhành liễu, phát thứ hai thì phải trúng vào lỗ đồng tiền, và phát thứ ba phải trúng đích sợi dây treo áo cẩm bào. Nếu ai bắn được ba phát thì gả cho người ấy, tất nhiên không ai trách được.
Hàn Phu nhơn gật đầu đáp:
- Lời con nó đề nghị phải lắm, vậy phu quân hãy y theo đó mà làm.
Mạnh Sĩ Nguyên cười ha hả nói:
- Nếu ta kén rể bằng cách khó khăn như vậy thì biết bao giờ mới xong?
Phương thị thưa:
- Theo con nghĩ, người đã thạo nghề cung tiễn thì đối với việc ấy cũng không khó chi, hơn nữa tiểu thơ nhà ta bậc tài hoa cũng cần phải kén chọn anh hùng dường ấy mới xứng đáng chứ.
Hàn Phu nhơn cũng nói vào:
- Ý tôi cũng vậy, phu quân nên chấp thuận phương pháp ấy là phải – Mạnh Sĩ Nguyên nghe theo, trở ra tỏ ý cho Tần Thừa Ân và Cố Hoằng Nghiệp nghe. Cố Hoằng Nghiệp nghe qua mừng rỡ vô cùng vì lão ta thấy cháu mình rất thiện nghệ về nghề cung tên thế nào cũng sẽ đọat giải.
Cố Hoằng Nghiệp vui vẻ đáp:
- Đại nhơn nghĩ ra việc ấy quả là một sáng kiến hay. Vậy mai này hãy cho mời hai vị công tử đến xem sao.
Tần Thừa Ân nói:
- Tôi thiết tưởng việc lương duyên do trời kia đã sắp đặt sẵn rồi, nếu quả duyên vợ về ai thì người ấy sẽ bắn trúng, chớ không phải do việc giỏi dở mà được.
Mạnh Sĩ Nguyên nói:
- Nếu vậy để ngày mai tôi bày tiệc đặng mời nhị vị công tử đến.
Cố Hoằng Nghiệp lại nghĩ thầm:
“Nếu mai này cháu mình đọat giải thì chẳng nói làm chi, bằng thất bại thì còn gì là thể diện của ta?”.
Nghĩ đọan, ông ta lên tiếng nói:
- Nếu mai này rủi lão phu có bận việc gì, xin phép vắng mặt để một mình cháu nó hầu đại nhơn cũng được nhé!
Tần Thừa Ân cũng sợ Hoàng Phủ Thiếu Hoa bị thua sút thì thẹn lắm nên cũng nói:
- Ngày mai tôi cũng mắc chút việc quan không đến được, vậy xin phép đại nhơn để cho hai vị công tử đến đây cũng tiện.
Mạnh Sĩ Nguyên vâng lời, rồi cả hai cáo từ ra về.
Tần Thừa Ân ra khỏi phủ, không về nhà lại thẳng đến dinh Hoàng Phủ thuật rõ đầu đuôi câu chuyện cầu hôn nhà họ Mạnh cho Hoàng Phủ Kính nghe. Hoàng Phủ Kính nói:
- Nếu vậy để mai tôi đem tiện nhi nó sang nhà đại nhơn, đặng nhờ đại nhơn dẫn nó sang Mạnh phủ. Sau này cuộc lương duyên con trẻ đặng thành, tôi không bao giờ dám quên ơn của đại nhơn.
Tần Thừa Ân nói:
- Chẳng mấy khi Nguyên soái có việc cậy đến tôi, tôi đâu dám từ thác, song lúc nãy Cố Hoằng Nghiệp đã từ chối không đến, chỉ để một mình Lưu Khuê Bích đến thôi, hơn nữa mai mày tôi cũng có chút việc quan nên cũng xin cáo thối, để một mình công tử đi cũng tiện.
Hoàng Phủ Kính vâng lời, Tần Thừa Ân cáo từ ra về.
Hoàng Phủ Kính vào nhà trong thuật lại cho Doãn Thị Phu nhơn nghe và kêu Thiếu Hoa bảo:
- Ngày mai con qua bên ấy phải cố sức tranh tài cho kỳ được nhé.
Thiếu Hoa lấy làm bất bình nhưng vì thấy cha mình đã quyết không dám cãi, chỉ ngồi làm thinh.
Hoàng Phủ Kính thấy vậy nói khích:
- Tại sao con có vẻ không vui, chắc con cảm thấy tài mình không sánh nổi Lưu Khuê Bích phải không?
Thiếu Hoa thưa:
- Ngày nào con và Khuê Bích cũng thao dượt ngoài võ trường, tài lực ngang nhau có can chi mà con sợ, song nếu tỉ thí như vầy tất nhiên phải có người thua. Nếu con thua thì chẳng nói làm chi, bằng Khuê Bích thua con, tất nhiên tổn thương tình bằng hữu, chi bằng con nhượng cho Khuê Bích thì hay hơn.
Hoàng Phủ Kính cau mày nói:
- Nay việc đã hứa rồi, nếu con không đi thì nhục cho cha biết dường nào! Vả chăng ta đây đường đường một vị Nguyên soái mà đứa con không đủ tài bắn ba phát tên thì ôi thôi còn mặt mũi nào điều khiển ba quân nữa!
Trưởng Hoa Tiểu thơ vội xen vào góp ý:
- Nếu hiền đệ có vì tình bằng hữu thì ngày mai hiền đệ hãy nhường cho Khuê Bích bắn trước, nếu hắn bắn đích ba phát thì hãy nhường luôn đừng bắn nữa, bằng ngược lại hắn bắn trật thì tất nhiên hiền đệ phải bắn, đó là lối xử vẹn toạn vậy.
Thiếu Hoa thấy cha mình giận dữ, chị mình lại phân tỏ lý nên cực chẳng đã phải thuận tình.
Lời Bình:
- Thời xưa hễ sanh con trai thì mừng, trái lại dù sanh năm bảy đứa con gái vẫn xem như chưa có con, đến khi lớn lên con trai học giỏi là hữu phước, bằng con gái dù có học giỏi cũng xem như vô ích. Sở dĩ có quan niệm ấy là vì họ xem đàn bà chỉ là món đồ chơi của đàn ông, chỉ là bộ máy sinh sản để cho giống nòi được tồn tại mà thôi. Ôi! Nếu xem đàn bà như vậy thì biến họ thành những con thú vật. Ngay nay phái nữ cũng đứng ra lãnh trọng trách như đàn ông, có nhiều bà tài năng xuất chúng còn hơn cả đàn ông nữa là khác.
- Mạnh Sĩ Nguyên muốn kén rể nhưng đứng trước hai chàng công tử họ Hoàng Phủ và họ Lưu tài mạo tương đương, gia thế cũng tùng tiệm; khó mà giải quyết nổi nên định hỏi Mạnh Tiểu thơ, hễ nàng ưng ai thì gả cho người ấy, đó là thượng sách rồi, sau khi vào hỏi lại không hỏi ngay con mình mà lại hỏi vợ, nghe lời dâu bày ra việc thi kén chọn để cho mích lòng một trong hai người ấy.
Còn xét về Hoàng Phủ Thiếu Hoa, chàng đã thấy trước vấn đề là ra tỉ thí tất nhiên phải có kẻ thắng người bại, nếu chàng bị thất bại giữa tình trường thì con2 gì cay đắng hơn? Ngược lại Lưu Khuê Bích bị thua thì còn gì là tình bằng hữu? Nhưng khổ thay Hoàng Phủ Kính đường đường là một vị Nguyên soái chẳng lẽ để cho con mình rút lui có trật tự trước ba mũi tên sao? Bề nào Thiếu Hoa cũng phải đi tỉ thí, mà đã tỉ thí thì tất nhiên tình bằng hữu phải bị tổn thương. Thế thì có trách là trách sao cho người bày ra cuộc thi ấy. Làm như vậy chẳng khác nào gài cái bẫy để cho hai họ Hoàng, Lưu thù nghịch nhau vậy. Cho hay phàm làm con gái nếu không ưng người ta thì thôi chứ đừng nên làm mích lòng người, nguy hiểm!