Trong khi đó tại phòng Nguyệt nương cũng bắt đầu nhập tiệc, có cả Ngô Đại cữu mẫu Dương cô nương, và Quế Thư cùng đám tiểu thiếp và Đại Thư. Cạnh tiệc có Úc Đại Thư đàn hát. Hát xong một bản, Ngọc Lâu rót rượu mời Úc Đại Thư:
- Đàn hát cũng phải có rượu mới hay chứ.
Kim Liên cũng gắp một miếng thịt đưa vào mũi Úc Đại Thư mà đùa giỡn. Quế Thư gọi Ngọc Tiêu:
- Đem giùm chị cái đàn tỳ bà của Úc Đại Thư tới đây cho chị hát một bài, để Đại nương và các vị đây nghe.
Nguyệt nương bảo:
- Thôi Quế Thư à, trong lòng còn lo buồn thì đừng hát làm gì.
Quế Thư thưa:
- Dạ không sao, gia gia và nương nương đã lo cho con thì con không còn buồn sợ gì nữa.
Ngọc Lâu cười bảo:
- Quế Thư thật vô tư, hồi nãy tới đây khóc lóc, mặt không lau, đầu không chải, trà cũng không uống, vậy mà bây giờ lại như thường rồi.
Quế Thư mỉm cười đàn hát tự nhiên. Đang hát thì thấy Cầm Đồng dọn dẹp ly tách. Nguyệt nương hỏi:
- Đại cữu về rồi à?
Ngô Đại cữu mẫu bảo:
- Thế thì có thể dượng ấy sắp vào đây, mình lo dọn dẹp đi.
Cầm Đồng vội nói:
- Gia gia tới phòng Ngũ nương rồi.
Kim Liên nghe vậy thì nôn nao trong lòng, muốn về phòng nhưng sợ bất tiện nên cứ nhấp nhổm không yên. Nguyệt nương biết ý bảo:
- Muội muội nên về phòng săn sóc cho gia gia.
Kim Liên đứng ngay dậy cáo từ mọi người rồi tất tả bước ra.
Vào tới phòng, thấy Tây Môn Khánh tay cầm quạt phe phẩy, đang đùa với con mèo quý, Kim Liên bước lại giằng lấy cái quạt dùng giáo quạt đập cho con mèo mấy cái nên thân, con mèo cong đuôi chạy mất.
Tây Môn Khánh bảo:
- Đang tiệc tùng vui vẻ trong đó, về phòng làm gì vậy?
Kim Liên đáp:
- Vui thì kể cũng vui, Úc Đại Thư đàn hát rồi cả Quế Thư cũng đàn hát, Quế Thư lại chuốc rượu cho tôi. Nhưng lát sau thì thấy Cầm Đồng vào bảo là Ngô Đại cữu về rồi mà gia gia thì tới đây, Đại nương bảo tôi về phòng săn sóc gia gia.
Tây Môn Khánh bảo:
- Quế Thư đang có chuyện lo buồn, lòng dạ nào mà đàn hát ?
Kim Liên nói:
- Đã có gia gia lo cho rồi còn gì phải lo buồn nữa.
Đoạn gọi Xuân Mai:
- Đem trà lên đây.
Xuân Mai đem trà lên, Kim Liên rót uống rồi lại dặn:
- Ngươi đun nước pha thêm một bình trà nữa cho ta, không hiểu sao hôm nay ta khát nước thế này, chắc là tại uống nhiều rượu quá.
Tây Môn Khánh hỏi:
- Hôm nọ đằng nha môn có đem lại biếu ít trà quý, Cầm Đồng nó đã đem tới đây chưa?
Kim Liên đáp:
- Nó có đem tới rồi, nhưng không biết tôi để đâu quên mất.
Đoạn bảo Xuân Mai:
- Ngươi tìm trà đó, pha cho ta một bình.
Xuân Mai vào trong tìm trà rồi pha một bình đem ra. Kim Liên nói với Tây Môn Khánh:
- Tôi nghe người ta nói thứ trà này phải là sản xuất tại Huệ Tuyền thuộc Tô Châu và Vũ Di thuộc Phúc Châu thì mới là trà ngon, còn các nơi khác thì dở lắm.
Tây Môn Khánh nói:
- Thứ trà này tuy không phải là trà Vũ Di, Huệ Tuyền nhưng vị đậm hương thanh không kém, uống được lắm đấy chứ.
Kim Liên rót trà ra uống, uống vài chung thấy tinh thần sảng khoái đôi phần, bèn bảo:
- Trà này cũng ngon.
Lát sau lại nói:
- Không biết giờ này tiệc trong nhà đã tan chưa, nếu chưa tan, tôi vào đó nghe Úc Đại Thư hát vài khúc cho đỡ buồn.
Tây Môn Khánh bảo:
- Hồi trước tôi và mấy anh em làm lễ kết nghĩa, trong tiệc có mấy ca nữ hát rất hay, bây giờ tôi còn nhớ được vài bài ca, tôi hát cho nàng nghe, nàng chịu không?
Kim Liên cười:
- Sao lại chịu với không chịu? Tôi phải đa tạ chàng mới đúng.
Tây Môn Khánh cất tiếng hát:
Đêm vắng quạ kêu.
Trăng mờ soi dáng liễu tiêu điều.
Dấu hài xinh còn đậm nét đường rêu.
Đèn khuya dáng gầy in bóng.
Đợi chờ dài lâu.
Tuổi xuân qua chóng.
Mùa xuân qua rồi.
Bằn bặt trông tin, nhưng nhạn kia vắng bóng.
Lại hát luôn bài khác:
Trăng giãi song sa.
Tâm sự mười năm gửi tiếng tỳ bà.
Ôm một mối tương tư thầm kín.
Người ở chân trời.
Chờ hết mùa xuân không thấy đến.
Tình này gửi cánh uyên ương.
Lòng cô đơn buốt giá.
Chợt thấv tới chốn xưa.
Nắm tay nhau đi chơi khắp đền đài đình tạ.
Sực tỉnh dậy, bên song mới biết nằm mơ.
Tiếng hát ngừng, Kim Liên khen rối rít:
- Hát hay quá.
Tây Môn Khánh hỏi:
- Mấy khúc hát đó trước đây Ứng, Tạ hai người thích hát lắm, nàng thấy thế nào ?
Kim Liên đáp:
- Điệu hát và lời hay lắm, nhưng tôi không hiểu hết ý tứ.
Hai người tiếp tục trò chuyện. Đêm đó Tây Môn Khánh nghỉ tại phòng Kim Liên.
Sáng sớm hôm sau. mới gà gáy Tây Môn Khánh đã thức dậy, rửa mặt chải đầu rồi lên đại sảnh. Tại đây Đạo Quốc và Thôi Bản đã chờ sẵn. Tây Môn Khánh trao cho hai bức thư mà dặn:
- Bức thứ nhất này thì đưa cho Vương Bá Nhu, còn bức thư nhì thì tìm Miêu Thanh mà đưa, hỏi thăm xem thế nào rồi gửi thư về cho ta biết. Tiền bạc thì nếu không đủ, ta sẽ sai Lai Bảo đem thêm sau.
Thôi Bản nhắc:
- Gia gia không có thư cho Thái Ngự sử sao?
Tây Môn Khánh đáp:
- Thư cho Thái Ngự sử, ta chưa viết, để Lai Bảo sẽ đem đi sau.
Hai người lạy chào rồi lên đường. Tây Môn Khánh cũng sửa soạn mũ áo cân đai rồi ra viện làm việc.
Lát sau có một người cưỡi ngựa tới, mồ hôi ướt áo, dừng ngựa ở cổng, hỏi Bình An:
- Đây có phải tư thất của Tây Môn Đề hình không?
Bình An hỏi lại:
- Anh ở đâu tới?
Người này xuống ngựa đáp:
- An lão gia sai tôi đem lễ tới. Gia gia tôi hiện cùng Hoàng lão gia cai quản xưởng gạch đang uống rượu tại nhà Hồ lão gia trên phủ Đông Bình, nên sai tôi tới trước hỏi xem Thiên hộ có nhà không để tới bái kiến.
Bình An lại hỏi:
- Có thiếp gì không ?
Người này thò tay vào bụng lấy ra một tấm thiếp ghi các lễ vật và trao lễ vật cho Bình An. Bình An đem tất cả trình với Nguyệt nương. Nguyệt nương sai gói năm tiền đem ra thưởng cho người đem lễ vật.
Gần trưa Tây Môn Khánh về, Nguyệt nương nói lại. Tây Môn Khánh sai chuẩn bị ngay tiệc rượu.
Tới trưa thì An, Hoàng hai người ngồi kiệu, tiền hô hậu ủng, quân lính dẹp đường mà tới. Kiệu ngừng tại cổng, gia nhân đem danh thiếp rồi bước lên đại sảnh, phân ngôi chủ khách hàn huyên.
Chủ khách an vị, Hoàng Chủ sự nói:
- Lâu nay nghe danh quan nhân, bây giờ mới được tới bái kiến thật là quá trễ.
Tây Môn Khánh chắp tay nói:
- Đại quan dạy quá lời, đại quan quang lâm tới hàn xá là hân hạnh cho chúng tôi lắm, dám hỏi tôn hiệu là chi?
An Chủ sự đỡ lời:
- Hoàng niên huynh đây hiệu là Thái Vũ.
Hoàng Chủ sự nói:
- Cũng xin hỏi hiệu tôn quan nhân.
Tây Môn Khánh đáp:
- Tiện hiệu của tiểu nhân là Tứ Tuyền.
Hoàng Chủ sự nói:
- Hôm trước tôi phải gặp Thái niên huynh, nói là cùng với Tống niên huynh tới đây quấy quả quan nhân.
Tây Môn Khánh nói:
- Cũng nhờ Địch đại nhân ở kinh cho biết trước nên chúng tôi mới có dịp nghênh tiếp nhị vị ngự sử Thái Tống. Dám hỏi chừng nào nhị vị đại quan lên đường tới quý phủ?
An Chủ sự đáp:
- Năm ngoái, sau khi từ biệt quan nhân thì tôi về nhà thăm song thân tới tháng giêng năm nay mới tới kinh, được bổ làm chủ sự tại bộ Công, bây giờ thì chúng tôi được cử tới Kinh Châu, nhân đi ngang đây, phải ghé thăm quan nhân chừng mai mốt thì tiếp tục hành trình.
Tây Môn Khánh lại hết lời cảm tạ. Qua vài tuần trà, Tây Môn Khánh mời khách nhập tiệc. Hoàng Chủ sự làm bộ đứng dậy xin về. An Chủ sự cũng phụ họa:
- Nói thật với quan nhân, tôi và Hoàng niên huynh đây bây giờ phải về dự tiệc đằng nhà Hồ Tri phủ ở Đông Bình. Chúng tôi tới đây là để bái kiến quan nhân mà thôi, còn tiệc tùng thì xin để cho khi khác.
Tây Môn Khánh nói:
- Đường tới nhà Hồ lão gia cũng xa, chỉ xin nhị vị đại quan nán lại uống chén rượu nhạt, để tiểu nhân được được khoan đãi các vị tùy tòng mà thôi.
Nói xong mời hai người vào tiệc, đồng thời sai gia nhân dọn tiệc bên ngoài khoản đãi đám tùy tòng.
Trên đại sảnh, tiệc gồm đủ loại sơn hào hải vị. Tây Môn Khánh thân rót rượu quý ra chén vàng mà mời khách.
Tiệc tàn, khách đứng dậy cáo từ. An Chủ sự nói:
- Ngày mai hai chúng tôi có làm tiệc nhỏ tại trại của Lưu Thái giám, xin kính mời quan nhân hạ cố tới dùng chén rượu nhạt, chẳng hay quan nhân có vui lòng tới chăng?
Tây Môn Khánh nghiêng mình đáp:
- Nhị vị đại quan đã ban ơn, tiểu nhân đâu dám trái lệnh. Nói xong tiễn khách ra tận cổng, hai người lên kiệu mà đi.
Tây Môn Khánh vào nhà được một lát thì có gia nhân của Hạ Đề hình tới mời. Tây Môn Khánh vào trong thay áo rồi dặn lấy ngựa, đem theo Đại An và Cầm Đồng cùng vài tên quân hầu tới nhà Hạ Đề hình.
Tới nơi, chủ khách thi lễ, an vị tại đại sảnh. Tây Môn Khánh nói:
- Vừa rồi có hai vị Chủ sự An, Hoàng tại Công bộ ghé thăm nên phải tiếp đãi, nếu không, tôi đã tới sớm rồi, khỏi đợi quan anh cho gọi.
Hạ Đề hình mời Tây Môn Khánh uống trà, sau đó mời vào tiệc, trong tiệc có cả một vị tú tài. Tây Môn Khánh hỏi:
- Dám xin cho biết tôn hiệu.
Vị tú tài đáp:
- Tiểu nhân tên Nghê Bằng, tự là Thời Viễn, hiệu là Quế Nham, được Đề hình đây thương, gọi về lo việc hành cử nghiệp cho hiền lang đây, tiểu nhân lòng riêng vẫn lấy làm thẹn lắm.
Ba người tiếp tục ăn uống trò chuyện. Cạnh tiệc có hai ca công đàn hát.
Hôm đó, Kim Liên ngủ tới gần trưa mới dậy, vì dây trễ nên hổ thẹn không dám vào thượng phòng, lúc Nguyệt nương cho người ra mời ăn cơm. Kim Liên cũng không ăn, lấy cớ là trong người không khỏe.
Tới xế chiều mới ăn mặc chải chuốt vào chào Nguyệt nương.
Nhân lúc Tây Môn Khánh vắng nhà, Nguyệt nương muốn nghe Tiết đạo cô giảng Phật pháp và giảng kinh Kim Cương, bèn cho bày tiệc trà và hoa quả rồi gọi mọi người tới nghe. Tiết đạo cô và Vương đạo cô ngồi chính giữa, hai đồ đệ là Diệu Phượng và Diệu Thú đứng hầu đằng sau, xung quanh là đủ mặt đám đàn bà con gái, vợ con thê thiếp của Tây Môn Khánh, lại có cả Dương cô nương và Ngô Đại cữu mẫu.
Hai sư bà niệm Phật một hồi rồi Tiết sư bà giảng rằng:
- Ánh sáng huy hoàng thì dễ tắt, chỉ có đất đá thì không bị hao mòn. Việc đời thay đổi cũng như hoa đã rụng thì không trở lại cành được, mà nước đã chảy thì không trở về nguồn được. Lầu son gác tía mà mệnh tận thì cũng là không, quan tước cực cao mà lộc tuyệt thì cũng như giấc mộng. Hoàng kim bạch ngọc chỉ là mối hoạ, mà vải lụa gấm vóc chỉ là bận bịu con người. Hầu non gái đẹp đầy nhà, ngựa quý gia nhân cả đám cũng chỉ là thứ phù du. Nay mai bằn bặt trên gối, hồn về cõi hoàng tuyền thì công danh phú quý chỉ còn là cái danh giả để lại trên đời. Khi thân đã vùi sâu dưới ba tấc đất thì của cải ruộng nương bị con cái tranh giành. Cái khổ ở đời là vậy.
Mọi người im lặng ngồi nghe, có vẻ kính phục lắm. Sau đó hai sư bà lại thay nhau kể các chuyện về Thích Ca, về Quan Âm. Đang kể chuyện hào hứng thì thấy Bình An từ ngoài chạy vào thưa:
- Có gia nhân của Tuần án Ngự sử Tống lão gia đem lễ vật tới.
Nguyệt nương hoảng lên:
- Gia gia đang uống rượu tại nhà Hạ Đề hình rồi, bây giờ làm sao?
Bình An cũng đang lúng túng thì Đại An từ ngoài vào bảo:
- Tôi vừa về tời, biết chuyện rồi, không sao, để tôi đem thiếp của Tống Ngự sử tới trình gia gia, còn bây giờ thì bảo cậu Kính Tế mời người của Tống Ngự sử vào mời người ta chén rượu.
Nói xong cầm thiếp phi ngựa tới nhà Hạ Đề hình đưa cho chủ nhà mà nói:
- Tống Ngụ sử sai người đem lễ vật tới.
Tây Môn Khánh xem thiếp, thấy ghi tên Tống Kiều Niên và kê khai các lễ vật gồm sách vở giấy bút và rượu thịt, rồi dặn:
- Về bảo Thư Đồng viết thiếp cám ơn, rồi lấy vải lụa và tiền bạc cho những người đem lễ vật.
Đại An về nhà tìm Thư Đồng không thấy. Kính Tế cũng không có nhà, vội nhờ Phó Quản lý tiếp đãi các gia nhân của Tống Ngự sử, viết thiếp cám ơn, rồi chạy ra hỏi Bình An:
- Cậu Kính Tế và thằng Thư Đồng đâu?
Bình An đáp:
- Hồi nãy cậu Kính Tế ở nhà thì thấy thằng Thư Đồng cũng ở nhà, bây giờ cậu Kính Tế ra ngoại thành đòi tiền thì chẳng thấy nó đâu cả.
Đại An bảo:
- Thằng khốn kiếp giỏi thật, dám bỏ thư phòng mà đi chơi, để tội nó đó.
Đang nói thì thấy Kính Tế và Thư Đồng đủng đỉnh cưỡi lừa từ cổng vào, Đai An mắng Thư Đồng ngay:
- Thằng nô tài khốn kiếp dám bỏ thư phòng đi chơi, để ta mách gia gia cho mày xem.
Thư Đồng vênh váo:
- Tao đâu sợ mày, tao thách mày đấy, mày không dám mách thì mày làm con tao.
Đại An nổi giận:
- Thằng chó đẻ dám hỗn với cha mày sao ?
Nói xong lôi cổ Thư Đồng xuống, nhổ một bãi nước miếng vào giữa mặt Thư Đồng mà bảo:
- Để tao đi đón gia gia về rồi xử tội mày sau.
Nói xong lên ngựa phóng ra cổng.
Trong khi đó, tại phòng Nguyệt nương, hai sư bà vẫn lải nhải tụng kinh đọc kệ. Kim Liên chán ngấy, muốn bỏ đi lại sợ không tiện, bèn khều Ngọc Lâu, Ngọc Lâu im lặng. Kim Liên lại khều Bình Nhi, lần này thì Nguyệt nương trông thấy, biết ý bèn bảo:
- Ngũ muội muội gọi Lục muội muội kìa, hai người ra ngoài nói chuyện một chút cho khuây khỏa đi.
Hai người hơi ngượng ngùng kéo nhau ra ngoài. Kim Liên bảo:
- Đại nương thật chẳng hiểu nghĩ sao, nhà không có đám ma, không có người bệnh mà tự nhiên đi rước hai bà sư về tụng kinh đọc kệ rầm rĩ cả lên.
Nói xong kéo nhau lên đại sảnh thấy thư phòng cạnh đại sảnh có thắp đèn, bên trong vợ chồng Kính Tế đang to tiếng. Kim Liên đứng ngoài gõ vào của sổ mà bảo:
- Không vào trong nghe tụng kinh đọc kệ mà ở ngoài này đấu khẩu với nhau hay sao?
Kính Tế quay ra thấy hai người thì nói:
- Tưởng ai, té ra nhị vị nương nương xin mời nhị vị vào trong này.
Hai người chậm rãi bước vào. Kim Liên hỏi:
- Hai người đang nói chuyện gì mà ồn ào lên vậy?
Kính Tế đáp:
- Nhị vị tính coi, hôm nay gia gia sai tôi ra ngoại thành đòi tiền, vợ tôi đưa cho tôi ba tiền, dặn mua khăn tay. Lúc sờ tới tiền thì không thấy, do đó tôi không mua được. Không hiểu tiền rơi đâu mất, vậy mà bây giờ nó cứ bảo là tôi đem tiền cho gái, rồi mắng chửi tôi đủ điều. Tôi đã thề độc mà nó cũng chẳng chịu tin. Ngờ đâu a hoàn quét nhà, thấy tiền rớt mới lượm đưa cho nó, nó không chịu dưa tiền cho tôi mà lại bắt ngày mai tôi phải mua khăn tay cho nó nữa. Nhị vị nương nương xem thế có chịu được không cơ chứ.
Đại Thư xỉa xói:
- Thôi đi tên khốn, không tằng tịu với con nào sao lại đem cả thằng Thư Đồng đi theo làm gì? Hai cậu cháu chắc là âm mưu chuyện gì đó chứ không đâu.
Kim Liên hỏi:
- Mà tìm thấy tiền rồi chứ gì?
Đại Thư đáp:
- Hồi nãy a hoàn quét nhà lượm được, đưa cho tôi rồi. Kim Liên bảo:
- Thế thì việc gì phải cãi nhau nữa.
Đoạn quay sang Kính Tế:
- Để tôi cũng gửi ít tiền nhờ cậu mua cho ít khăn tay. Bình Nhi cũng bảo; - Ở ngoại thành nếu có nhiều khăn đẹp, cũng mua giùm tôi mấy cái.
Kính Tế nói:
- Ở ngoại thành có chỗ chuyên bán đủ các loại khăn tay quý, đủ màu và thêu đủ kiểu hoa rất đẹp Nhị vị thích màu gì, thêu hoa gì xin nói trước để ngày mai tôi mua về cho đúng ý.
Bình Nhi bảo:
- Tôi thích loại khăn màu vàng có thêu hình chim phượng màu thúy.
Kính Tế nói:
- Màu vàng với màu thúy sợ không nổi.
Bình Nhi bảo:
- Không nổi nhưng tôi thích, với lại xem có thử màu nước biển thêu kim tuyến thì cũng mua cho tôi mấy cái.
Kính Tế gật đầu cười rồi hỏi Kim Liên:
- Còn Ngũ nương thì thích màu gì, hoa gì ?
Kim Liên đáp:
- Tôi không có tiền nên chỉ nhờ mua mấy cái bằng lụa màu bạch ngọc có thêu kim tuyến mà thôi.
Kính Tế nói:
- Ngũ nương chưa già gì sao lại dùng khăn màu trắng. Kim Liên bảo:
- Tôi thích thì kệ tôi, với lại xem có thứ khăn màu tía bồ đào bằng lụa Tứ Xuyên có thêu chữ song hỷ thì mua thêm cho tôi.
Bình Nhi lấy ra ít bạc, đưa cho Kính Tế mà bảo:
- Tôi gửi tiền luôn cho Ngũ nương đó.
Kim Liên lắc đầu:
- Thôi, của tôi để tôi trả.
Bình Nhi bảo:
- Có đáng là bao, tiện đây đưa cho cậu ấy luôn, thư thư khỏi phải mất công về phòng lấy tiền.
Kính Tế nhận bạc nói:
- Chỗ này mua cả cho Ngũ nương cũng vẫn còn thừa.
Đoạn nhấc tay mà nói:
- Chỗ này cũng phải tới một lạng chín tiền chứ không ít đâu Bình Nhi bảo:
- Nếu còn thừa thì mua dùm đại cô nương đây luôn.
Đại Thư vội đứng dậy cám ơn. Kim Liên bảo:
- Lục nương đã bỏ tiền ra mua khăn cho đại cô nương thì số bạc ba tiền hồi nãy nên bỏ ra mua vịt quay và rượu, ngày mai gia gia vắng nhà, đãi Lục nương và tôi, được không?
Kính Tế bảo vợ:
- Ngũ nương đã nói vậy thì nàng phải bỏ tiền ra làm tiệc nghe không. Đại Thư lấy ra ba tiền trao cho Kim Liên:
- Nhờ Ngũ nương đứng ra lo cho.
Kim Liên lại đưa cho Bình Nhi:
- Để Lục nương lo được rồi.
Bốn người đang nói chuyện thì có gia nhân vào báo là Tây Môn Khánh về. Bình Nhi, Kim Liên và Đại Thư vội ai về phòng nấy. Kính Tế vội bước ra nghênh đón cha vợ rồi thưa:
- Từ Tứ nói ngày kia sẽ xin trả trước hai trăm năm chục lạng, còn bao nhiêu thì xin cho tới sang tháng sẽ trả nốt. Tây Môn Khánh cằn nhằn mấy câu rồi vào thượng phòng thay quần áo, sau đó tới phòng Kim Liên...