watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
16:07:3729/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Dài > Hồ Biểu Chánh > Người Thất Chí - Trang 10
Chỉ mục bài viết
Người Thất Chí
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tất cả các trang
Trang 10 trong tổng số 10

Chương 10
Mười hai năm sau.

Tiết tháng giêng, ở Sài-gòn thì trời đã bắt đầu nóng nực. Những người có tiền dư, hoặc muốn trốn nắng, hoặc muốn dưỡng sức đặng tranh đấu nới trường lợi danh cho đắc thắng trong năm mới, nên người đi ra mấy chỗ có bãi biển tốt ở nghỉ ngơi, kẻ thì đi đến mấy nơi có non cao rừng rậm ngao du mà hấp thanh khí.
Trong Nam-kỳ, nơi vùng Châu-đốc giáp ranh với Hà-tiên, có mấy dãy núi nằm ngang nằm dọc, người ta đặt tên chung là Thất-sơn, núi không cao lớn bằng ngoài Trung-kỳ, Bắc-ky, song sừng sựng đứng giữa một miền thấp thỏi, bằng thẳng rộng lớn minh-mông ngó mút mắt, mấy dãy núi ấy xem ra cũng có vẻ chớn chở.
Đã vậy mà trong những cụm núi ấy cũng có nhiều khe nước u ẩn đáng gợi tình thi-sĩ, có nhiều hòn đá làm khỏe mắt hiếu kỳ, tiếc vì khách du sơn ít để bước đến nầy, duy có người mộ Phật cầu tiên mới lui tới đặng cúng chùa nuôi sãi.
Một buổi sớm mơi, trên hòn núi Cô-Tô(1), nằm phía sau chợ Xà-Tón(2), sương còn bao phủ mù mịt, dường như trùm cái mền xanh sậm đặng giấi giếm những cảnh thanh tịnh, bí mật của tạo-hóa lập ra riêng để cho bọn thất chí hoặc chán đời nương náu, chớ không muốn cho phường trục lợi tranh danh ghé mắt.
Thế mà có ba người đương lụi cụi do đường mòn mà leo lên núi.
Người đi trước là đàn-ông, mặc áo sơ mi xám, quần cụt cũng màu xám, tay chống một cây gậy, vai mang một cái máy chụp hình nhỏ treo lòng thòng sau lưng. Hai người đi theo sau lưng là đàn-bà. Đồng mặc áo thun màu xanh, quần vắn màu đen, chơn mang giày mềm, tay cũng chống gậy, mà vai chỉ mang một cái ống dòm mà thôi.
Đường nầy là đường lên mấy chùa, mấy am trên núi, bởi vậy mỗi ngày đều có người ta lên xuống thường. Tuy vậy mà có khúc dốc đứng phải bò mà lên, có chỗ bị hòn đá cản ngang, phải trèo mà qua mới được. Gặp mấy chỗ khó ấy thì người đàn-ông phải tiếp mà dắt hai người đàn-bà ; dầu đi gay-go mệt nhọc, nhưng ba người đều vui cười hớn-hở. Tới mũi Hải, thấy có một thạch bàn bằng thẳng nằm dưới một lùm cây mát-mẻ, ba người mới ghé lại đó ngồi nghỉ chưn.
Nói phứt ra cho rồi, 3 người khách du sơn nầy chẳng phải ai đâu lạ, ấy là Trinh với cô Loan và cô Tâm.

Trinh ngó cô Tâm rồi cười hỏi :
- Mình viếng núi Ông-Tô nầy nữa thì giáp vòng hết Thất-sơn. Cô Tâm tính qua sang năm đi miệt nào nữa?
- Có lẽ qua sang năm đi viếng núi Hà-tiên, như còn dư ngày thì mình đi thẳng lên Tà-Lơn.
- Phải. Mình đã đi giáp hết những núi ở Tây-ninh, Baria, Vũng-Tàu, Phan-thiết, Nha-trang, Dalat, Thất-sơn thì chỉ còn có núi Hà-tiên với Tà-lơn nữa mà thôi. Tìm kiếm đã mười mấy năm rồi, song không công hiệu chi hết, thế mà cô chưa mòn chí hay sao?
- Không, em vẫn hăng-hái luôn-luôn, bởi vì cái linh tánh nó mách rằng em sẽ mãn-nguyện, nên trí em tin chắc có ngày sẽ gặp.
Cô Loan nghe như vậy bèn vịn vai cô Tâm mà nói : « Tôi khấn vái cái linh tánh của cô đó đừng dối gạt lòng cô ».
Nghỉ khỏe rồi, ba người đứng dậy mà đi nữa. Bây giờ mặt trời đã lên cao rồi, phá cái màn sương đã tan hết, dọi mấy khe nước trong kẹt đá chảy ra trắng nõn như bạc đổ.
Xa xa nghe tiếng chuông chùa Phật dộng bon bon ; lấp ló thấy chim đứng trên nhành kêu chéo chét.
Đến trưa, ba người lên tới một chỗ trống trải kêu là Dâu Hội, gần trên đảnh, Trinh đói bụng, lại thấy có một tấm đá lớn nằm dưới một cây cổ thụ sum sê, dựa bên thêm có ngọn suối nước chảy ro re trong vắt. Trinh mời hai cô ghé đó mà ngồi, rồi mở túi ra lấy bánh mì, cá họp, thịt đùi mà ăn với nhau.

Trước mặt trông thấy cánh đồng Xà-Tón minh-mông tuyệt với, bên phía tay trái thì những ngọn núi Cấm (3), núi Bà Đội(4) nghênh-ngang che khuất cánh đồng Tà-keo, Cần-vọt. Tuy không có tâm hồn thi-sĩ, nhưng mà thấy cái quang cảnh từ núi cao xuống đồng thấp mỗi chỗ có vẻ khác nhau thì ba người đều cảm xúc trong lòng, nên ngồi ăn mà không nói chuyện chi hết.
Ăn no bụng, ba người lại suối mà uống nước và rửa mặt, rồi cô Loan với cô Tâm nằm ngửa trên tấm đá mà nghỉ lưng, mắt lim dim nghe gió trông mây, trí vơ vẩn ngó rừng tưởng núi. Trinh mở máy ra mà chụp hình hai cô, chụp nằm trên hòn đá rồi chụp ngồi gốc cây. Cô Loan sung sướng trong lòng, nên cặp tay Trinh mà dắt đi thơ thẩn, khi thì vịn vai nhau mà nói, khi thì nhìn mặt nhau mà cười, hạnh phúc tràn trề, ân tình chan chứa, cô Tâm đứng ngó cặp ấy rồi tâm-hồn cô lơ-lửng, nước mắt nhểu phải lấy khăn mà lau.
Một thầy chùa mặc áo dài, vai mang gói, ở trên lững thững đi xuống. Trinh đón hỏi :
- Xin thầy làm ơn nói giùm cho tôi biết coi đường đi trên đó là đường đi đâu?
- Đó là đường đi lên đảnh.
- Khó đi hay dễ?
- Khó đi một chút, nhưng mà đi được.
- Trên đảnh có người ta ở hay không?
- Có một cảnh chùa Yết-ma Bạch-Phụng lập ra để ở tu trì với ông đạo nhỏ.
Cô Tâm vừa nghe hai tiếng Bạch-Phụng thì biến sắc mà nói: “Chắc gặp rồi. Thôi, đi riết lên chùa coi”.
Ông thầy chùa không hiểu cô nói gặp là gặp ai, song ông đã không cần hỏi, liền xây lưng đi xuống núi.
Trinh với hai cô mang đồ mà đi lên đảnh. Tới một cảnh chùa thấy có một người đạo nhỏ đương lum-khum hái rau, Trinh hỏi thăm thì thiệt quả chùa nầy là chùa Bạch-Phụng, có ông Yết-ma đương xem kinh trong chùa.
Cô Tâm nóng nảy nên bươn-bả đi riết vô chùa, không đợi hai người kia. Vừa bước vô, cô thấy một ông già bảy tám mươi tuổi, đầu trọc lóc, miệng móm xọm, mang mắt kiếng đương cầm cuốn kinh ngồi mà coi, thì cô thất vọng nên đứng trân-trân.

Trinh bước tới cúi đầu chào ông già và nói :
- Chúng tôi đi du-lịch, muốn ra mắt ông Yết-ma.
- Kính chào quí khách. Yết-ma là tôi đây. Quí khách lên cúng Phật hay là lên kiếm tôi có việc chi?
- Chúng tôi có một người bà con tên là Phụng, học Tây giỏi, niên-kỷ bằng tôi, vì uất tình đời nên cách 12 năm nay trốn mà đi tu. Chúng tôi tìm hết sức mà không gặp. Ông có biết trên núi nầy có ông đạo nào giống với người bà con của chúng tôi hay không?
- Trên núi Ông-Tô nầy có hai mươi mấy cảnh chùa, những ông đạo ở tu tôi biết hết thảy. Tôi không thấy người nào đáng nghi là người của quí khách đi tìm đó.
Trinh với hai cô đứng ngơ ngáo.
Cô Tâm hỏi ông Yết-ma:
- Tại đỉnh núi đây có đường đi xuống triền núi phía bên kia hay không?
- Có chớ. Ðưòng sau chùa đây là đường đi xuống triền núi phía bên kia.
- Dài theo đường ấy có chùa có am gì hay không?
- Không có chùa, duy có một cái chòi của một tên nông phu ở trồng khoai tỉa đậu thuở nay đó mà thôi.
- Xin ông cho biết con đường dễ đi hay không?
- Ðường đó tuy ít người đi song ít dốc, ít đá nên dễ đi hơn đường phía bên kia.
Trinh cúng chùa một đồng bạc rồi từ ông Yết-ma dắt hai cô trở ra sân.
Cô Tâm để tay lên trán đứng suy nghĩ một hồi rồi nói: „Phải đi đường xuống triền núi bên kia. Bụng tôi nó giục tôi đi ruồng ngã đó“.
Ba người noi theo đường sau chùa mà đi nữa.
Ði xuống một chút, ngó mấy khoảng trống thì thấy biển Rạch-Giá và Hà-tiên, ở xa xa có Hòn đất. Hòn chông phân ranh đất với nước. Ðường đi thiệt dễ nên ba người vừa đi vừa ngắm cảnh và đàm luận. Thình lình có một đám đậu xanh trồng dựa bên đàng, lại thấy có một người tóc rối rấm, râu xồm xàm ở trần phơi lưng đen trạy, đang lum khum hái đậu.
Trinh với cô Loan đứng mà ngó.

Người hái đậu vừa ngước mặt lên ngó thấy ba người kia thì biến sắc đứng trơ trơ, không nói mà cũng không cục cựa.
Cô Tâm la lớn: „Anh Phụng kìa kìa!“ rồi cô chạy tuôn qua đám đậu, riết lại ôm ngang lưng người nông phu nầy, vừa cười vừa chảy nước mắt mà nói: „Dữ quá! Em kiếm trọn 12 năm năm mới được gặp anh đây! Em đi kiếm cùng hết. Cái linh tính của em nó cho em biết rằng sớm muộn gì rồi em cũng tìm được anh. Thiệt quả vậy, cô Loan, tin cái linh tính của tôi hay chưa hử? Hồi sớm mai nầy, vừa bước chơn đi lên núi thì lòng em khoan khoái, em chắc sẽ gặp anh. Hồi nãy ông Yết-ma nói không có người nào giống anh mà ở trên nầy. Em không tin. Nếu em thối chí mà trở xuống, thì làm sao mà gặp được.“
Người nầy thiệt quả là Phụng, tuy hình dạng có hơi khác hẳn với Phụng hồi xưa, nhưng cô Tâm nhìn không lầm.
Cô Loan cũng vô tới. Ðứng ngó anh, nước mắt tuôn dầm dề, mừng tủi quá, không nói được một tiếng chi hết.
Trinh hân hoan trách Phụng: „Toa tệ quá! Toa muốn được phần toa, không kể đến người khác. Toa để bà già thương nhớ toa đêm ngày. Mỏa khuyên giải hết sức thì bà già bớt buồn chút đỉnh, chớ làm sao mà vui được.“
Phụng ngó Trinh, ngó Tâm rồi ngó Loan mà hỏi: „Năm nay chắc má già lắm phải hôn em?“
Cô Loan gật đầu đáp: „Má già song má mạnh . Duy có má nhớ anh lung lắm, nên năm nào cũng vậy, hễ qua tháng giêng thì vợ chồng em phải dắt nhau đi bậy đi bạ mà tìm anh. Phải đi kiếm thì má mới bớt buồn“
Phụng nghe nói mấy lời thì ngó Trinh và Loan.
Trinh hiểu ý kêu người mà nói:“ Toa gởi gấm bà già với cô ba cho mỏa, toa cậy mỏa bảo bọc. Mỗi người ở một nơi làm sao mà bảo bọc cho được. Toa đi rồi thì mỏa phải tuốt xuống Cần thơ thưa với bà già mà xin cưới cô ba, rồi mỏa đem hết về Sài Gòn mà ở với mỏa. Phải làm như vậy mới bảo bọc được chớ.“

Phụng trợn mắt, bước lại nắm tay Trinh mà nói: „Toa làm như vậy à? Toa cưới em mỏa đặng nuôi mẹ với em mỏa? Cám ơn! Cám ơn lắm!“
Trinh nói: „Toa khỏi cám ơn. Mỏa muốn toa theo bọn mỏa mà về cho mau, đặng bà già mừng, làm như vậy thì hay hơn hết“.
Phụng khoát tay không cho Trinh nói nữa, rồi chỉ cô Tâm mà hỏi: „Còn cô Tâm sao lại nhập bọn chung với vợ chồng toa đây?“
Cô Tâm không cho Trinh trả lời, cô hớt mà đáp: „Ðêm nọ anh giấu tên họ, anh không chịu cho em biết. Cách ít ngày em kiếm anh Trinh em hỏi thăm, tự nhiên em biết có khó gì. Anh không muốn cho em gần anh thì em gần cô Loan, là em của anh, cũng vậy, phải hôn?“ cô nói tới đó rồi cô cười ngất.
Cô Loan bây giờ không khóc nữa, cô tiếp mà nói: „Cô Tâm chờ anh mười mấy năm nay đó. Năm nào cô cũng đi theo vợ chồng em mà kiếm anh. Cô nói nhờ anh mà ông già cô hết bịnh, cô làm giàu làm có, nên cô nhứt định đi kiếm cho được anh mà thôi, chớ cô không ưng chồng nào hết“.
Phụng châu mày hỏi cô Tâm:
- Ông già cô hết bịnh rồi hay sao?
- Uống thuốc chừng một năm thì ông già em đi đứng được. Bây giờ em có tiệm lớn lắm, anh về rồi anh sẽ biết. Ông già em cầu trời khẩn Phật luôn luôn, vái cho em tìm được anh mà đền ơn đáp nghĩa anh.
Phụng cúi mặt xuống đất coi bộ bối rối trong trí lắm.
Trinh hỏi: „Toa ở đây với ai? Làm nghề gì mà ăn? Nhà cửa của toa ở chỗ nào đâu?“
Phụng đưa tay chỉ phía dưới triền núi mà đáp:
- Nhà mỏa ở dưới đây một chút. Mỏa ở có một mình trồng khoai trồng đậu để đổi gạo mà ăn chớ có làm nghề gì đâu?
- Toa có cất nhà đi tu hay không?
- Không. Tu làm gì?
- Thôi , toa dắt tụi moa xuống nhà toa coi, xuống sửa soạn rồi có về cho sớm.
Phụng đứng trơ trơ không muốn đi, làm cho cô Tâm phải nắm tay mà kéo, chàng mới chịu bưng thúng đậu đi ra đàng mà đi xuống núi. Phụng đi trước, ba người đi theo sau. Ði được chừng 50 thước, tới một chỗ có hai tấm đá đứng trên có gát cây trải lá, Phụng chỉ chỗ đó mà nói: „Nhà của tôi đó“
Cô Loan với cô Tâm trông thấy mà ứa nước mắt. Cô Tâm không muốn cho Phụng thấy cô cảm động nên nắm tay cô Loan kéo đi và nói: „Tới nhà anh Phụng mà không vô thì ảnh nói mình khinh ảnh. Vậy thì chị em mình đi vô coi trong nhà, cách ăn ở thế nào?“
Phụng thấy hai cô đi vô trong kẹt đá chỗ mình trú ngụ thì hỏi nhỏ Trinh:
- Mỏa cậy toa mấy khoản, toa có làm y không?
- Mỏa làm y như toa muốn; mỏa thế cho toa mà nuôi dưởng bà già; mỏa giấu biệt tâm sự của toa, mỏa không cho ai biết hết.
- Ðến bây giờ mà bà già với em mỏa cũng chưa biết cái tội ác của mỏa hay sao?
- Mỏa không nói thì làm sao mà biết được
- Còn cô Tâm?
- Mỏa không hiểu; song mỏa biết cô thương toa lắm mà thôi, chớ không nghe cô nói tới chuyện gì khác.
- Mỏa còn cậy toa một việc nữa, toa có làm theo lời moa dặn hay không?
- Mỏa cũng làm, song không làm giống như ý toa muốn được. Mỏa cưới cô ba rồi mỏa mới giao gói bạc 9 ngàn đó lại cho cô, mà mỏa không nói của toa gởi và cũng không chịu cho cô để dành mà nuôi bà già. Mỏa nói dối, mỏa có một người cô giàu có mà không có con. Khi cô mỏa tỵ trần có giao số bạc nầy cho mỏa và dặn ngày nào mỏa cưới vợ rồi thì phải đưa hết bạc ấy lại cho vợ của mỏa đặng nó thay mặt cho mỏa mà bố thí cho kẻ nghèo. Bố thí thì chẳng đặng cất chùa cất miễu, chẳng đặng cống hiến cho mấy hội gọi là hội phước thiện. Phải đi chơi trong mấy xóm nhà nghèo ở, thấy ai cùng khổ, hoặc bịnh hoạn thì lấy bạc mà cứu giúp, ai khổ nhiếu thì giúp nhiều, ai khổ ít thì giúp ít cho đến chừng nào hết số bạc ấy thì thôi.

Cô ba làm theo cái hảo ý ấy, bố thí mới hết số bạc ấy hồi năm ngoái đây.
- Toa cao thượng quá, mỏa không bì kịp!
- Mỏa nuôi bà già thì đủ rồi. Cần gì phải dùng tiền ấy. Mà tiền như vậy mình dùng sao được.
- Quân tử quá! …Còn cái rương sắt toa làm sao?
- Ồ, chuyện đó thì dễ ợt. Mỏa mua một cái thùng cây, mỏa bỏ vô. Một chuyến nọ đi Nha Trang mỏa chở theo xe lửa, khi xe qua khỏi sông Dinh mỏa quăng vô rừng rồi biệt tích, có khó gì đâu?
- Cám ơn to quá…
- Thôi, đừng cám ơn mà mất thì giờ. Kêu hai cô ra đặng về cho mau. Có xe hơi của mỏa đậu chờ bên kia.
Phụng suy nghĩ rồi lắc đầu mà nói:
- Thôi, mỏa cậy toa luôn nói giùm bà già cho mỏa. Mỏa không thể về được.
- Tại sao vậy? Việc toa làm hồi trước duy có một mình mỏa biết mà thôi, chớ có ai biết đâu mà sợ. Mà dầu tới bây giờ có đổ bể ra đi nữa cũng không hại gì. Tội đại hình hễ quá 10 năm rồi thì tòa không có luật buộc tội toa nữa được.
Phụng ngước mặt lên rồi châu mày hỏi nho nhỏ:
- Dù không ai biết, còn lương tâm kia chi! … Dầu tránh khỏi luật người, còn luật Trời làm sao tránh được!
- Ồ! Lương tâm! Ồ Trời Phật! Nếu bà Lợi chưa chết, thì bà làm hại thêm cho con nhà nghèo, chớ có ích gì. Bà chết đó là may mắn cho nhiều người lắm. Huống chi toa lấy bạc của bà chẳng phải toa lấy mà ăn xài, lấy đặng tấm gội cho những kẻ nhơ nhuốc, lấy đặng làm mạnh cho những kẻ đau ốm, lấy đặng giúp sống cho những kẻ nghèo đói, thế thì tội trộm cướp sát nhơn của toa có chỗ dung chế được. Ðã vậy, trọn 12 năm nay, toa đã phạt thân toa cực khổ mà chuộc tội rồi. Các cớ ấy há không đủ làm cho lương tâm an tịnh, đặng toa gần gũi má cho má vui, đặng toa kết tóc với cô Tâm cho cô phỉ tình ước nguyện hay sao? Còn toa sợ luật Trời, cái đó toa bậy lắm. Ðời nầy mà toa còn tin tưởng Trời Phật thì trái mùa quá. Nếu Trời Phật có luật và thi hành luật ấy hẳn hòi, thì làm sao những người biết nhơn nghĩa lại chịu nghèo khổ, còn những kẻ tham lam lại được giàu sang? Toa phải về, đừng cải nữa.
- Phụng lắc đầu ủ mặt.
- Trinh nắm cánh tay Phụng mà lúc lắc và nói: „Thiệt toa không muốn về hả? Ðể moa nói cho hai cô khiêng cho toa về. Em Loan cô Tâm ra đây coi.

Anh Phụng, anh không chịu theo mình về đây nè“
Hai cô nghe kêu thì ở trong cột đá đi ra. Cô Tâm cầm một cái áo rách trên tay, vừa đi vừa nói: „Sao không chịu về?“ Quần áo anh đâu anh Phụng? Kiếm cùng hết mà thấy có một giỏ khoai và một mủng đậu với cái áo rách đấy mà thôi“
Cô Tâm vui vẻ nhưng mà Phụng vẫn nghiêm nghị đáp rằng:
- Gia tài của tôi chỉ có bao nhiêu đó.
- Vậy hả? Thây kệ, thôi bận đỡ áo rách về trên Sài Gòn rồi em sẽ sắm đồ cho anh mặc. Sao anh nói với anh Trinh rằng anh không muốn về?
- Tôi không thể trở về được
- Trời ơi, anh nói chơi sao chớ.
- Tôi nói thiệt. Không, đã đến chốn nầy mà trốn thì làm sao mà tính việc có vợ cho được.
- Vậy chớ tại sao mà anh giục giặc không muốn về?
- Vì tôi đã phạm tội với xã hội, tôi không được phép ở chung với xã hội nữa.
- Ạ… Em hiểu rồi!... Ôi mà em chẳng hiểu làm chi. Em chỉ biết anh là người có lòng thương xót con nhà nghèo, anh cứu vớt em trong lúc em vì nhà nghèo, cha bịnh mà phải sa ngã dưới bùn dưới vũng… Anh nói anh có tội… Hứ! Tội! Người như anh mà có tội gì. Anh phải có phước, chớ không phép có tội. Em nói anh có phước, anh phải tin em. Anh co phước thì anh phải hưởng phước, nghĩa là anh phải về đặng cho em thờ phượng anh, đặng cho em nựng nịu anh, đặng cho em phỉ tình hoài vọng mười mấy năm nay.
Câu sau cô Tâm nói nho nhỏ và nói và liếc mắt ngó Phụng rất hữu tình.
Phung ngơ ngẩn, đứng trơ trơ miệng nói lầm bầm: „Thế nầy thì trái với luân lý, lỗi với xã hội quá!“
Cô Tâm la lớn: „Ồ! Luân lý !.. Xã hội! Anh xưa quá! Ðời nầy mà còn nói luân lý chớ! Còn xã hội mà kể làm chi. Bà già ở nhà với anh em chúng ta, đây là xã hội của chúng ta. Bao nhiêu đó cũng đủ rồi. Chúng ta thương nhau, yêu nhau, biết nhau mà thôi, chớ có ai thương, có ai biết chúng ta đâu mà phải kể họ. Thôi anh bận đỡ cái áo rách nầy đi, xuống tới xe hơi rồi em sẽ đưa cáo áo mưa của em cho anh bận ở ngoài »
Phụng đứng xuôi xị.
Cô Tâm giũ cái áo mà bận cho Phụng
Cô Loan bước lại tiếp gài nút. Trinh lén mở máy mà chụp hình hết ba người.

Vĩnh-Hội, decembre, 1938
(Theo nxb Sông Kiên, 1961)
Chú thích:
1 Thiết Hải
2 (địa danh : Tri Tôn) giọng Triều Châu đọc là Xà Tón
3 Thiên Cẩm Sơn
4 còn gọi là núi Đội Om hay núi Tượng

Hết


Chương 1


Trời gần tối Trinh mặc một bộ ka-ki vàng, quần may cụt ống, áo sơ-mi xanh, đầu đội kết(2) nỉ đen, chưn vấn ghết(3) vải xám, ở trong nhà bước ra tới cửa, rồi day lại nói với Phụng đi theo sau: „Ở đời chẳng nên thối chí. Làm trai mình phải có can-đảm, phải có nghị-lực cho đầy-đủ mà xông-lướt phong-trào nguy-khổn, chớ sao lại cứ thở-than rầu-rĩ hoài như đàn-bà vậy, Mỏa biểu toa đừng thèm buồn việc gì nữa hết. Toa cứ đi chơi cho thong-thả trí, đặng phấn-chấn mà tranh-cạnh với thiên-hạ. Thôi toa ở nhà, để mỏa về rồi chúng ta sẽ nói chuyện tiếp“.
Trinh bắt tay từ-giã Phụng rồi bước ra đại-lộ Galliéni(4), thủng-thẳng đi ra hướng chợ Bến-thành.
Ngoài đường đèn khí bựt cháy lên, nam-thanh nữ-tú qua lại dập-dều, xe kéo xe hơi nối nhau tốp chạy ra, tốp chạy vô coi không dứt.
Phụng ngó mông một hồi rồi xây lưng trở vô nhà. Chàng vặn đèn phía trước sáng lòa rồi lại bàn viết mà ngồi, chống tay trái mà đỡ cái trán, đầu nghiêng một bên, mắt ngó sững vô vách tường coi bộ bàng-hoàng tư-lự lung lắm.
Trong căn nhà của Phụng ở, bàn ghế dọn sơ-sàì, chớ không hực-hỡ như các căn khác trong dãy phố đó. Phía trước có một bộ ván gỗ nhỏ, với một cái ghế bố để nằm chơi, Chính giữa có một cái bàn vuông với một cái ghế để tiếp khách, một bên có một cái bàn viết chứa sách đầy chồng, sách Tây sách quốc-âm xốc lộn-xộn, không có thứ-tự. Còn phía trong thì chỉ có một cái giường để ngủ, với hai cái rương lớn để áo quần mà thôi; bàn rửa mặt thì để dưới nhà bếp, mà chẳng có nồi ơ, chén bát chi hết.
Trong nhà vắng hoe, khác với cảnh rần-rộ ngoài đường. Phụng cứ ngồi im-lìm cho đến chừng cái đồng-hồ nhỏ ở trên bàn viết chỉ 7 giờ, chàng mới đứng dậy, tắt đèn bước ra ngoài khóa cửa lại, rồi cầm chìa khóa đi lại nhà ông Phán Thành, ở cách đó năm căn mà ăn cơm tối.
Ông Phán Thành hồi trước giúp việc tại sở Thương chánh kể đến 33 năm, ông mới được hưởng hưu-trí hồi năm ngoái. Vợ chồng ông không có con nhưng mà ông có một người con nuôi tên Tồn, đương làm việc trong một hãng buôn tại Sai-gòn. Vì vợ chồng không có vườn ruộng ở xứ nào hết, nên được hưu trí rồi ông cũng ở luôn tại Sài-gòn với con nuôi đặng hủ-hỉ cho vui. Bà Phán tuy đã trên 50 tuổi rồi, song bà còn mạnh khỏe bởi vậy mấy thầy chưa vợ ai muốn ăn cơm tháng thì bà sẵn lòng nấu giùm.
Phụng ở đậu tại nhà Trinh đặng kiếm việc mà làm; vì Trinh làm kiểm soát cho sở hỏa-xa, phải đi theo xe lửa đường Sài-gòn Nha trang, không thể ăn cơm nhà được, bởi vậy đã gần ba tháng nay Phụng phải ăn cơm tháng tại nhà ông Phán Thành.
Phụng bước vô đã thấy Tồn là con nuôi của ông Phán với thầy Giao, là người ăn cơm tháng, ngồi sẵn mà chờ đó rồi, bởi vậy vợ chồng ông Phán liền mời luôn lại bàn ăn.
Ông Phán hỏi Phụng:
- Bữa nay tôi thấy có ông Trinh ở nhà phải hôn?
- Thưa, phải. Hôm qua tới bữa nhằm phiên ảnh nghỉ, ảnh mới đi làm hồi tối đây.
- Ông làm kiểm-soát sở hỏa-xa, ăn lương thì lớn mà coi thế cực khổ tốn hao lung lắm. Đi xe hoài, ngủ không được, Có lẽ lâu ngày mệt chớ. Đã vậy mà ăn uống không chừng, khi ăn Sài-gòn, khi ăn Nha-trang, tự nhiên phải tốn tiền nhiều.
- Còn trẻ tuổi, dầu làm việc cực khổ chút đỉnh có hại gì. Cực mà được lương lớn thì cũng cầu mà chịu cực. Phận cháu đây, cháu muốn cực hết sức mà cực không được, cháu mới đáng buồn chớ.
- Cậu bền chí mà kiếm việc làm, tự nhiên cũng sẽ có chớ.
- Cháu kiếm hết sức mà chưa được chỗ nào hết.
- Đời nầy thiệt khổ. Câu có đi học bên Tây mà kiếm việc làm không được, thế thì mấy cậu nhỏ học bên này làm sao có chỗ mà làm.
- Cháu không kén chọn chi hết, dầu làm ăn lương bốn năm chục một tháng cháu cũng làm nữa, miễn có cơm ăn thì thôi; ngặt gần hai tháng nay, cháu kiếm không được một chỗ nào hết, nên không biết làm sao. Cháu muốn trở về Cần-thơ đặng mướn ruộng mà làm, mà anh Trinh cứ theo cản hoài, biểu ở trên nầy rồi thủng thẳng sẽ có công việc làm, thủng thẳng đến chừng nào không biết!
- Từ nhỏ chí lớn cháu đi học thì phải ở tại tỉnh thành mà làm việc, chớ không thạo cách làm ruộng, nếu trở về vườn cậu làm ruộng sao được.
- Nghề nào cũng vậy, thủng thẳng mình tập, lần lần rồi sẽ quen, có khó gì.
Thầy Giao có tánh ít nói chuyện, nên nãy giờ thầy cứ ngồi ăn, không nói một tiếng nào hết. Bây giờ thầy mới xen vô mà nói: „Người ta hay nói: Hoàng thiên hữu nhãn. Theo tôi thì ông Trời không có con mắt. Nếu ổng có con mắt, sao M. Phụng đây muốn làm ăn hết sức, dầu cực khổ không nệ, mà ổng lại không cho có sở làm ăn. Còn có nhiều nhười khác họ biếng nhác, làm việc chi họ cũng làm cho có chừng, không biết lo-lắng, mà sao họ lại có công việc làm luôn luôn. Nghĩ thử coi có phải ông trời không có con mắt hay không?“.
Bà Phán cười và nói: „Mỗi người đều có mạng số riêng. Cực hay sướng đều tại mạng của mình, chớ nào có phải tại ông trời mà thầy trách ông. Ông trời công-bình lắm.“
Ông Phán chận mà hỏi bà:
- Bà có nói chuyện với ông trời hồi nào hay sao mà bà biết ổng công-bình?
- Ông hỏi kỳ cục quá! Ông dám nghi ông trời không công-bình hay sao?
- Tôi nghi lắm.
- Già rồi, đừng có nói như vậy không nên. Nếu trời không công-bình, mà sao người làm lành lại được phước, còn kẻ làm dữ, lại bị tội.
- Ai nói với bà làm lành thì được phước, còn làm dữ thì bị tội? Thuở nay tôi thấy nhiều người làm lành mà có được phước gì đâu, còn có nhiều kẻ ở ác hết sức mà họ không có bị tội hồi nào hết. Đừng có chỉ ở đâu xa làm chi, kìa bà Lợi ở căn phố bìa kìa, bà cho vay bà cắt cổ thiên-hạ ngất ngư hết, cho l đồng bạc mỗi ngày ăn 1 cắc lời, cho 10 đồng 1 tháng ăn 4 đồng lời. Vì nghèo túng rồi nên phải tới bà. Bà thừa dịp người ta cần dùng tiền, bà cắt họng người ta như vậy đó, bà ở ác quá, mà bà làm giàu, chớ có bị tội gì đâu.
- Thuở nay bà Lợi cho vay như vậy, tại mình đến năn-nỉ mà vay thì mình chịu. Bà có ép buộc ai phảỉ vay của bà đâu mà nói bà cắt hầu cắt họng.
- Phải. Bà không ép buộc ai. Nhưng mà bà là người cho vay, hễ mình túng tiền xài thì tới bà, chớ biết đi đâu mà hỏi. Bà thừa cơ hội khốn đốn của mình mà buộc mình phải chịu tiền lời nặng, ác là tại chỗ đó.
- Cho vay ăn lời nặng, tôi tưởng chưa ác lắm. Lúc mình hụt tiền mua gạo, hoặc uống thuốc bà giúp cho mình, ấy là bà làm ơn. Cái ơn giúp đỡ lúc túng ngặt đó có lẽ cũng trừ với cái ác ăn lời nặng kia được. Có người không giúp đỡ cho ai hết mà lại còn bươi móc kiếm chuyện đặng lấy tiền lấy bạc của người ta, mấy người đó mới thiệt là ác.
- Thừa dịp người ta nguy khốn hay là kiếm cớ làm khó cho người ta đặng lấy tiền, đều có tội ác hết thảy. Theo ý tôi, như ông Trời của bà nóỉ hồi nãy đó mà thiệt công-bình, thì ông quét cho sạch những hạng người ấy, rồi dân nghèo mới hết hoạn-nạn.
- Nói như ông vậy, thì trên mặt đất nầy còn người ta nữa ở đâu!
- Sao lại không còn? Còn người tử-tế biết nhơn nghĩa, họ ở.
- Được bao nhiêu người như vậy!
- Bao nhiêu cũng được, đông làm gì. Đông mà lộn những hạng người không biết thương yêu ai hết, cứ lo cắt họng lật lưng người ta, thì càng khốn-nạn, chớ ích lợi gì, Thà là có ít, mà toàn là người tử-tế, thì mặt đất nầy trở ra thiên đàng, không khoái lạc hay sao?
- Những kẻ hung dữ, trộm cướp chém giết người ta, nếu ông muốn trời hại họ chết hết đi, thì cũng cho là phải được; chớ mấy người cho vay ăn lời nặng với mấy người kiếm chuyện đặng lấy tiền của người ta, mà ông cũng muốn cho họ chết nữa, thì ông gắt quá!
- Kẻ hung bạo, trộm cướp hoặc chém giết người ta, thì toà chiếu luật mà bỏ tù hoặc đày họ. Họ khuấy rối xã-hội, thì sẵn có luật buộc họ phải đền tội. Ấy vậy hạng người đó ít hiểm cho bằng hạng người làm mặt quân-tử rồi cắt họng lật lưng người ta, mà không có luật, hoặc có luật mà không có đủ bằng cớ cho tòa trừng-trị họ. Tôi cho hai hạng người đó tội ác như nhau, thì tôi có nhơn nhiều lắm rồi; nếu lấy tâm-lý mà xét thì hạng người sau phải chịu hình phạt nặng hơn hạng người trước kia mới đáng.
Bà Phán hết lời mà cãi nữa.
Thầy Giao hỏi ông Phán:
- Người ta nói bà Lợi nhiều tiền lắm, phải như vậy hay không ông Phán?
- Phải chớ. Tôi ở dãy phố nầy đã gần 20 năm nay, bả cũng ở đó, tôi thấy bả cho vay luôn luôn. Bả ăn lời cắt cổ, 20 năm nay làm sao mà không nhiều tiền được.
- Theo ý ông thì bây giờ trong nhà bả có chừng bao nhiêu tiền?
- Tôỉ tưởng bả có hai ba ngàn đồng là số ít.
- Nhiều tiền quá! Bả không có con cháu chi hết, mà bả cắt họng người ta rồi để tiền cho ai ăn không biết.
- Người tham tiền thì họ cứ lo tính làm cho ra tiền nhiều mà thôi, họ có nghĩ tới sự dùng tiền ấy bao giờ đâu. Làm ra rồi để đó, không dùng về chỗ nào hết, chừng chết tiền ấy không đem theo được, thì cào cấu giành-giựt đặng có tiền cho nhiều làm chi không biết.
- Đời nầy có chi quí bằng đồng tiền. Nếu mình có nhiều thì mình được cao sang, được thiên-hạ kính-trọng, mà mình lại có thể làm ơn làm nghĩa được nữa. Còn nếu mình không có, thì thân mình phải cực-khổ hèn-hạ, đã không làm việc gì được, mà có khi còn phải chịu đói rách. Ấy vậy có tiền nhiều thì sướng lắm, có quấy chi đâu, nhưng mà phải dụng tâm dụng lực cho hiệp nghĩa hiệp nhơn mà làm ra tiền mới tốt, chớ cướp giựt cào cấu cho có tiền thì quấy lắm.
Phụng lắc đầu cười và nói: „Làm nhơn-nghĩa thì làm sao có tiền nhiều cho được!“
Ăn cơm rồi, thầy Giao đi về liền, còn thầy Tồn thì xin phép ông Phán mà đi coi hát bóng.
Phụng cũng từ-giã vợ chồng ông Phán mà về. Bà Phán nói: „Xin cậu ở lại cho tôi nói chuyện riêng một chút“.
Phụng kéo ghế mà ngồi. Ông Phán đi vô trong. Bà Phán bước lại gần mà nói nhỏ với Phụng: „Hôm tháng trước trong nhà hụt tiền xài, tôi có hỏi bà Lợi hết 10 đồng bạc tháng. Bữa nay tới tháng, bà đòi dữ quá. Nếu cậu có tiền xin cậu làm ơn cho giùm tiền cơm đặng tôi trả cho bà Lợi“.
Phụng biến sắc, ngồi trân-trân một hồi rồi thở ra mà đáp:
- Cháu ăn cơm đã gần hai tháng mà cháu chưa trả được cho bà đồng nào hết, thiệt cháu ái-ngại lung quá. Hôm qua cháu đã có viết thơ về xin tiền đặng trả cho bà. Vậy xin bà đợi vài bữa cháu được tiền cháu sẽ trả.
- Cậu chưa có việc làm mà tôi đòi tiền cơm, thiệt tôi cũng ái-ngại hết sức. Ngặt tôi vướng hết mười đồng bạc tháng của bà Lợi, nên cực chẳng đã tôi phải hỏi. Nếu không có như vậy, thì chừng nào cậu có sở làm rồi cậu trả cũng được. Tôi biết cậu là người tử-tế, mất mát gì đó mà sợ.
- Thiệt bây giờ cháu không có đồng nào hết. Xin bà chịu phiền đợi ít bữa, hễ bà già cháu gởi bạc lên thì cháu sẽ đưa cho bà liền.
- Thôi, tưởng cậu có sẵn nên tôi mới hỏi. Nếu cậu không có thì thôi, để ít bữa nữa cũng được. Để tôi năn nỉ với bà Lợi ráng để cho tôi một tháng nữa. Cha chả, mà phải chịu cho bà tới 3 đồng bạc lời.
- Dữ hôn!
- Vậy chớ sao. Tôi quen với bà nhiều lắm, nên bà cho ba đồng lời đó đa, chớ bà cho người khác bả ăn tới 4 đồng.
- Mắc quá! Thôi, tiền lời ấy để cháu chịu cho bà.
- Để cho cậu chịu sao phải? Nếu cậu không có tiền, vậy chớ mấy tháng nay cậu làm sao mà ăn xài.
- Cháu không có xài việc chi hết. Mấy tháng nay anh Trinh thường đưa tiền cho cháu, khi 10 đồng, khi 20, biểu cháu lấy mà xài. Lần nào cháu cũng từ chối, cháu nói cháu có tiền, cháu không chịu lấy.
- Ông Trinh ăn lương lớn, mà ông không có vợ con, ông xài tiền không hết, ông chia bớt cho cậu xài, có hại gì mà cậu ngại.
- Tuy cháu với anh Trinh làm anh em từ hồi còn nhỏ, qua bên Tây cũng gần-gũi nhau nữa, song cháu được ở đậu nơi nhà ảnh nghĩ cũng đã quá rồi, nếu cháu còn lấy tiền của ảnh mà xài thì cháu không an bụng. Vậy xin bà đừng nói cho ảnh biết sự cháu không có tiền. Nếu ảnh hay cháu không có tiền mà trả tiền cơm thì chắc ảnh trả liền. Mà hễ để cho ảnh làm như vậy thì cháu hổ quá, chắc cháu phải đi về xứ, không dám ở trên nầy nữa. Xin bà giấu dùm cho cháu.
- Ai nói làm chi. Cậu nghèo mà cậu giữ liêm sỉ lung quá!
- Phải biết liêm sỉ mới đáng làm người chớ.
- Tội nghiệp quá! Người như cậu vậy mà ông Trời lại không cho giàu có chớ: hèn chi ông Phán tôi ổng nghi ông Trời không công bình.
- Cháu khổ riết rồi cháu cũng nghi như ông Phán vậy đó bà.
- Đừng có nói như vậy không nên. Cậu còn nhỏ, cậu phải tin tưởng Trời, Phật, cậu mới đi ngay đường được.
Ông Phán ở trong bước ra và cười và nói: “Bà cứ giảng dạy luân-lý hoài! Nghe buồn quá!”
Phụng đứng dậy từ vợ chồng ông Phán mà về. Bà Phán ngó theo và nói với chồng: “Người trẻ tuổi mà biết đều quá. Thế mà phải chịu mghèo, thiệt tội nghiệp hết sức.”
Chú thích:
1 phóng tác từ Prestouplénié i nakazanié (1866) của văn hào Nga Fédor Mikhaïlovitch Dostoievski
2 (tiếng Pháp: Caskette) = nón lưỡi trai, nón có rìa che nắng
3 (tiếng Pháp: guêtre) dây da hoặc vải đan chéo dùng bọc ống chân (bắp chuối) từ đầu gối đến ống giày, từ ngữ này đã được việt hóa.
4 Nay là đại lộ Trần Hưng Đạo
<< Lùi - Tiếp theo

HOMECHAT
1 | 1 | 190
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com