watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
16:20:3129/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Dài > Hồ Biểu Chánh > Nặng gánh cang thường - Trang 14
Chỉ mục bài viết
Nặng gánh cang thường
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Tất cả các trang
Trang 14 trong tổng số 14


Chương 14 (chương kết)


Cử binh, hổ tướng thành công
Tức vị, thánh quân ban thưởng

 
Ðây tưởng phải thuật sơ việc biến loạn xảy ra tại triều, thì độc giả mới hiểu tại làm sao mà có tờ Hịch của quan Thủ ngự Kinh lược sứ Lạng Sơn gởi cho các đạo.
Số là ông Thân Nhơn Trung cầm quyền Tướng quốc, ông lấy nhơn nghĩa chánh trực mà chế trị bá quan, bởi vậy ở tại triều những đứng trung thần như ông Ðỗ Nhuận, ông Lê Thọ Vực tận tâm khâm phục đã đành, thậm chí mấy mặt sàm nịnh như Trịnh Công Lộ cũng phải kiêng nể, không dám rục rịch. Ðến khi ông thọ bịnh, không dự vào việc triều chánh nữa được, Trịnh Công Lộ lần lần chuyên quyền, rồi toan ám hại mấy đứng hiền lương, toan kết phe với kẻ gian ác.
Trịnh Công Lộ dòm thấy trong hàng đại thần, ông Ðỗ Nhuận với ông Lê Lộng đã chết rồi, ông Lê Ðình Ngạn với ông Lê Nhơn Hiếu thì suy nhược, duy còn có một mình ông Lê Thọ Vực là rường cột của nhà vua mà thôi. Anh ta muốn ám hại ông Lê Thọ Vực, nên nhơn dịp có tin binh Trung Nguyên rục rịch muốn xâm lấn biên cương, bèn tâu với vua xin phong cho ông Lê Thọ Vực làm chức Thủ ngự Kinh lược sứ để trấn Lạng Sơn mà ngăn ngừa bắc địch. Vua Lê Thánh Tôn nhậm lời hạ chỉ sai ông Lê Thọ Vực đi.
Từ ấy quốc chánh đã trọn vào tay Trịnh Công Lộ.Tuy vậy mà anh ta cũng chưa mãn ý, nghĩ vì có quyền mà không có binh, thì cái quyền khó mà mạnh được. Anh ta nhơn dịp Thanh Tòng từ hôn công chúa, anh ta tâu vô tâu ra, làm cho vua phát nộ thâu chức Ðô Tổng binh của Thanh Tòng rồi dạy đày chàng lên Cao Bằng.

Từ ấy Trịnh Công Lộ hoành hành giữa triều, binh quyền một tay, muốn làm việc chi không ai dám ngăn trở hết thảy. Lê Ðắc Ninh với Trần Lăng là hai tướng ngày trước giúp Lạng Sơn Vương Nghi Dân mà thí vua Nhân Tông đặng soán ngôi. Khi vua Thánh Tôn tức vị ngài không nạp dụng, hai tướng ấy phải trở về quê quán.
Trịnh Công Lộ muốn cho có phe đảng nên sai người tìm Lê Ðắc Ninh và Trần Lăng mà rước về nuôi trong dinh để làm nha trão[1].
Qua năm Hồng Ðức thứ 28 (1497) vua Thánh Tôn băng hà. Triều đình đại hội tính tôn thái tử Tăng lên ngôi. Trịnh Công Lộ không thuận, tìm tỏ ý tôn Nghi Thoại, là trưởng tử của Nghi Dân. Nhưng đại thần là Lê Ðình Ngạn và Lê Nhơn Hiếu phản kháng, nói rằng Tăng đã lập làm Thái tử, triều đình không cho phép phế mà tôn người khác; Trịnh Công Lộ quyết không chịu, dạy bộ tướng Trần Lăng dẫn binh loạn cung bắt Thái tử Tăng giam vào ngục rồi truyền cho bá quan hay rằng nếu thuận để tôn Nghi Thoại, thì sẽ tha Thái tử Tăng còn nếu nghịch ý thì Thái tử Tăng sẽ bị giết.
Lê Ðình Nạn và Lê Nhơn Hiếu lấy làm bất bình, nhưng vì hai ông thấy Trịnh Công Lộ quyền thế mạnh, nha trão đông, hai ông không dám dụng binh mà xung đột mới bàn cùng nhau rồi lén sai người đem mật thơ ra Lạng Sơn mà khuyên ông Lê Thọ Vực mau mau đem binh về triều trừ tà phạt nịnh.
Ông Lê Thọ Vực được tin, lật đật kéo đại binh về kinh. Trịnh Công Lộ hay sự ấy, anh ta sợ Lê Thọ Vực về triều thì sanh biến, bèn sai Trần Lăng dẫn một muôn binh đi chận đường mà đánh. Lê Thọ Vực mới về tới Bắc Giang thì gặp binh Trần Lăng. Hai bên giao chiến! Lê Thọ Vực binh thiểu thế cô, đã  không phá giặc nổi mà lại còn bị giặc cản lộ, lui không kham mà tới cũng không được, nên phải sai người đem tờ Hịch đi rải khắp các đạo mà cầu cứu.
Tại như vậy đó nên mới có tờ Hịch đến Hưng Hóa và Thái Nguyên làm cho Thân Thanh Tòng phải bươn bả cử nghĩa binh về trợ hiền lương, dẹp gian nịnh, mà tài bồi xã tắc, chống vững giang san.
Thanh Tòng dẫn năm trăm binh Hưng Hóa, độ qua sông Nhị Hà, thẳng đến Bạch Hổ Khê, lãnh thêm năm trăm binh Thái Nguyên nữa, rồi kéo đi riết xuống Bắc Giang.

Ði trót năm ngày năm đêm mới tới sông Bình Lộ, thấy mé nam mé bắc đều có binh đóng, không biết binh ngụy đóng mé nào. Thanh Tòng đồn binh dựa triền núi, rồi sai ít tên quân tâm phúc đi do thám. Ðến tối quân về báo rằng binh ngụy kể hơn một muôn, có Trần Lăng làm đô đốc, thì đóng ở mé nam, còn binh của quan Kinh lược sứ Lạng Sơn, không được năm ngàn, thì đóng ở phía bắc.
Thanh Tòng liền viết một bức thơ rồi sai quân lập thế lén qua sông mà trao cho ông Lê Thọ Vực. Trong thơ chàng nói rằng chàng hay ông bị vây nên lật đật đến mà giải cứu. Tiếc vì chàng có một ngàn binh mà thôi, không thể chiến được. Vậy chàng tính đêm nay, nhơn Trần Lăng không phòng bị, chàng sẽ dẫn binh xuống áp xuống công phá dinh trại. Chàng xin ông đêm nay hễ hay mé sông bên nây có mòi náo nhiệt, hoặc thấy lửa đốt, hoặc nghe trống rung, thì mau mau độ binh qua tiếp với chàng mà phá giặc.
Chàng gởi thơ đi rồi thì lo kiểm điểm quân sĩ, sắp đặt hỏa hổ đặng có cướp trại đốt lương của ngụy tặc.
Vừa được nửa canh hai, Thanh Tòng dẫn binh ra, sắp hàng sắp ngũ, hễ một tốp cằm khí giới thì một tốp ôm bổi với hỏa hổ, dặn rằng khi đến trại giặc tốp cầm hỏa hổ thì cứ phóng bổi đốt trại, còn tốp cầm khí giới thì giao chiến cho tận tâm, phải la ó cho hung đặng binh ngụy tưởng mình đông người, nhứt là phải hô rằng: Có công tử Thân Thanh Tòng đến đây. Ngụy tặc phải bó tay quy hàng cho mau“.
Sắp đặt xong rồi, Thanh Tòng mình mặc quần đen áo đen, đầu vấn khăn xanh ngồi trên lưng một con ngựa tía, một tay cầm đoản kiếm, một tay cầm trường thương nhắm trại giặc dẫn binh xông tới.
Trần Lăng chận đường ông Lê Thọ vực không cho độ binh qua sông. Anh ta thấy giặc án binh bất động, trong bụng khinh khi, nên không cần phòng bị chi hết.

Thanh Tòng lén kéo binh tới, rồi phân ra tốp lo đốt trại tốp lo chém giết, la ó vang vậy. Binh giặc đương ngủ, bỗng thấy các trại đều phát hỏa, lại nghe binh của Thân công tử đến, bởi vậy người người đều khủng khiếp, chen nhau dành đường mà chạy, không chống cự chi hết. Thanh Tòng giục ngựa xông vào trung ương, chàng  tới đâu thì quân giặc đều ngã lăn hết thảy, chàng lui tới, lại qua dường như đi trong chỗ không người.
Trần Lăng ở trong trại trung ương nghe tin trại cháy quân loạn, không kịp bận giáp, lật đật mang cung tên và vác đao lên ngựa chạy ra. Vừa ra khỏi cửa liền gặp Thanh Tòng. Hai tướng đánh nhau mới được vài hiệp thì Trần Lăng rút chạy. Thanh Tòng giục ngựa đuổi theo cản lại. Trằn Lăng thấy binh tán loạn, chỉ lo gom binh mà thôi chớ không có lòng muốn giao chiến, bởi vậy hễ bị Thanh Tòng cản lộ thì đánh cầm chừng rồi chạy, chớ không quyết chiến.
Thanh Tòng giết không đặng Trần Lăng thì nổi giận, nên cứ rượt theo hoài. Chàng rượt giặc cho đến sáng, coi lại không có một tên quân nào của chàng mà theo tiếp chàng, còn trước mặt thì có đạo binh ngụy, kể chừng ba bốn ngàn quân, xông ra mà tiếp Trần Lăng. Chàng thấy thế đã nguy rồi, song nghĩ mình đã lỡ leo lên lung cọp không dễ gì mà xuống được, bởi vậy chàng hét lên một tiếng rồi xốc tới đâm bừa Trần Lăng.
Hai bên giao chiến rất kịch kiệt. Binh ngụy thấy Trần Lăng thắng Thanh Tòng không nổi, bèn áp vô trợ chiến. Thanh Tòng một mình tả đột hữu xông, tay chém tay đâm mà binh giặc cứ ào tới hoài như nước bể bờ, không thế ngăn nổi. Chàng bèn quày ngựa mà chạy. Trần Lăng xua binh giục ngựa đuổi theo. Thanh Tòng bị đi đường xa trọn năm ngày đêm, rồi lại bị chiến đấu từ hồi nửa đêm cho đến chừng đó nữa, bởi vậy chàng mệt đuối, huơi thương hết muốn nổi.
Trần Lăng rượt theo riết gần kịp rồi trương cung lắp tên muốn bắn Thanh Tòng. Anh ta đương nhắm bỗng nghe sau lưng có tiếng nạt lớn rằng: „Thằng kia mi không được hại anh ta! Ta sẽ lấy đầu mi . Trần Lăng lật đật ngó ngoái lại thì thấy có một trang râu ria xồm xoàm đương huơi búa mà chém. Anh ta đỡ không kịp, mà tránh cũng không kịp, nên bị lưỡi búa chặt văng đầu xuống đất.
Thanh Tòng day lại thấy đầu của Trần Lăng bay, mà người chém Trần Lăng đó là Ðinh Hổ, bởi vậy chàng mừng rỡ không xiết kể, lật đật quày ngựa trở lại. Vừa tới nơi thì chàng đã đuối hơi rồi, nên leo xuống ngựa ngồi dựa gốc cây mà thở dốc và nói rằng: „Nếu không có nhơn huynh tiếp kịp thì em đã chết rồi .
Ðinh Hổ lật đật hỏi rằng:
- Công tử có bị thương hay không?
- Không. Vì tôi có một mình mà phải đánh với mấy ngàn người; tôi đâm chém riết rồi đuối tay, cử động không nổi nữa, nên tôi phải tìm đường mà chạy. Chớ chi quan Kinh lược sứ độ binh qua tiếp chiến với tôi, thì có đâu tôi bị hại như vầy, Ðinh huynh sao biết tôi ở đây nên đến cứu tôi?
- Anh em tôi ở trên Ngưu Sơn. Hôm qua Tô Hộ đem thơ đến, anh em tôi kéo binh đi liền. Anh em tôi nghe nói giặc đóng tại sông Bình Lộ nên tính đi qua đó. Anh em tôi đạp đường rừng trọn một đêm nay. Ðến sáng nghe có tiếng trống ở phía nầy, anh tôi nghi giặc đương đánh tại đây, nên kéo binh qua. Binh đi lâu quá, tôi bỏ binh mà đi trước. Khi còn xa xa, tôi thấy một người đương rượt một người, tôi không biết là ai, nên quất ngựa riết theo. Chừng lại gần tôi thấy rõ công tử lại thấy thằng khốn ấy đương trương cung bắn công tử, nên tôi xốc tới mà chém nó đó.
- Thiệt là may quá!

Thanh Tòng ngồi nghỉ một chút thì hết mệt, nên đứng dậy leo lên ngựa. Lúc ấy Ðinh Long với Tô Hộ dẫn một đạo binh cũng vừa tới. Anh em gặp  nhau nỗi mừng tả không hết được.
Thanh Tòng dạy Ðinh Long dẫn phân nửa binh đi kiếm quân giặc mà dụ hàng, còn Ðinh Hổ dẫn phân nửa binh đi với chàng trở lại sông Bình Lộ dặng ra mắt quan Kinh lược sứ.
Hồi hôm ông Lê Thọ Vực có tiếp được thơ của Thanh Tòng khắc kỳ phá giặc, nhưng vì ông sợ cái thơ ấy là quỷ kế của Trần Lăng, bởi vậy nên ông không dám động binh. Ðến sáng ông nghe chắc Thanh Tòng một mình đã phá giặc được rồi, ông mới bạt trại độ binh qua sông.
Thanh Tòng trở lại nửa đường thì gặp binh Thái Nguyên và Hưng Hóa đương bơ vơ kiếm chàng. Chàng dạy nhập với binh Ðinh Hổ rồi trở lại Bình Lộ Giang. Ðinh Long đi đường khác mà cũng tới đó một lượt.
Thanh Tòng dắt Ðinh Long, Ðinh Hổ vào yết kiến quan Kinh lược sứ và thuật việc phá giặc cho ông nghe. Ông Lê Thọ Vực khen ngợi vô cùng rồi bàn việc tấn binh hồi triều mà cứu chúa. Thanh Tòng xin cho chàng với hai anh em họ Ðinh dẫn ba ngàn binh làm tiền đạo, đi luôn ngày đêm riết vào kinh đô, chớ nếu diên trì sợ e Thái tử thọ hại. Ông Lê Thọ Vực khen phải và chọn ba ngàn binh tráng kiện mà cấp cho ba tướng đi liền, còn ông thì kéo đại đội theo sau phòng hờ ứng tiếp. Trần Lăng đã bị giết, binh ngụy đã vỡ tan, ở ngoài không còn đạo binh nào ngăn cản nữa, bởi vậy Thanh Tòng với anh em họ Ðinh thong thả, thôi thúc quân sĩ đi riết, nên có ba ngày ba đêm thì về tới kinh thành.
Trịnh Công Lộ tuy ỷ quyền bắt Thái tử hạ ngục, song anh ta thấy quần thần thảy đều nghịch ý, lại chưa có tin bắt Lê Thọ Vực được, bởi vậy anh ta đã không dám làm ngang tôn Nghi Thoại, mà cũng không dám làm dữ giết Thái tử. Anh ta còn đương trông tin Trần Lăng, thình lình quân vào báo rằng công tử Thân Thanh Tòng kéo một đạo binh vây hết bốn cửa thành và kêu phải mở cửa mà nạp Trịnh Công Lộ lập tức.
Trịnh Công Lộ nghe nói tới tên Thanh Tòng thì kinh tâm biến sắc, liền cho đòi lão tướng Lê Ðắc Ninh mà thương nghị. Anh ta vừa thấy Lê Ðắc Ninh bước vô thì nói rằng: „Không xong rồi, tướng quân ôi! Thân Thanh Tòng kéo binh về vây thành rồi, chắc là bọn ta phải bị hại. Vậy tướng quân liệu kế đặng chúng ta thoát thân .

Lê Ðắc Ninh trợn mắt vinh râu đáp rằng: Thanh Tòng số nó phải chết tại tay tôi, nên nó mới về đây. Xin tướng công chớ lo, để tôi bắt nó mà nạp cho tướng công liền bây giờ đây“. Anh ta nói dứt lời liền thót lên ngựa dẫn binh mở cửa thành xông ra.
Thanh Tòng thấy Lê Ðắc Ninh không biết là ai, nên đứng ngó trân trân. Lê Ðắc Ninh xốc ra trước mặt trận kêu lớn lên rằng: Tiểu tử phải hạ mã nạp mình cho mau, kẻo nhọc công ông chém đầu“. Thanh Tòng giận quá, không thèm đối đáp, liền thúc ngựa nhảy tới mà đâm. Lê Ðắc Ninh đỡ khỏi rồi hai đàng giao chiến với nhau.
Lê Ðắc Ninh lớn tuổi, lại không phải là người đối thủ với Thanh Tòng, bởi vậy mới đánh nhau được ít hiệp thì bị Thanh Tòng phi kiếm, làm cho anh ta thọ thương té nhào xuống đất, Thanh Tòng cắt đầu rồi xua quân nhập thành.
Trong lúc Thanh Tòng đánh với Lê Ðắc Ninh tại Bắc Môn, thì Ðinh Long với Ðinh Hổ ở Nam Môn, nhờ có Lê Ðình Ngạn và Lê Nhơn Hiếu xúi quân mở cửa nên hai tướng dẫn binh tràn vô thành. Lê Ðình Ngạn dắt Ðinh Hổ đi thẳng vào ngục thất mà giải cứu Thái tử, còn Lê Nhơn Hiếu thì dẫn Ðinh Long đến vây chặt phủ của Trịnh Công Lộ mà bắt loạn thần và bắt hết thảy gia quyến không sót một người. Chừng Thanh Tòng nhập thành thì đâu đó đã an hết rồi. Thái tử ra chánh điện, bá quan văn võ thảy đều tề tựu trước điện mà bái yết, Thanh Tòng với Ðinh Long, Ðinh Hổ quỳ mà tâu rằng: Tội thần về trễ, để cho Ðiện hạ thọ khổn lâu ngày, thiệt là lỗi của tội thần rất lớn. Ngửa xin Ðiện hạ rộng lượng dung thứ .
Thái tử tạ ơn Thanh Tòng và anh em họ Ðinh, phủ ủy bá quan, rồi dạy đem Trịnh Công Lộ và gia quyến giam hết vào ngục, đợi triều đình hội nghị rồi sẽ định tội. Quần thần tung hô rồi lui ra.
Cách hai ngày sau ông Lê Thọ Vực mới kéo đại binh về tới. Ông vào bái yết Thái tử, tôi chúa ôm nhau mà khóc. Ông dắt Thanh Tòng đi viếng lăng Thánh Tôn rồi mới hội văn võ bá quan mà chọn ngày tôn Thái tử lên ngôi cửu ngũ.
Thái tử Tăng tức vị, xưng hiệu là Cảnh Thống, phong cho Lê Thọ Vực làm chức Tả Tướng quốc, còn các quan văn võ đều được thăng lên một cấp hết thảy. Vua lại dạy Thân Thanh Tòng làm một cái biểu dựng lên mà kể tội kể công cho vua xem và dạy Lê Thọ Vực nhóm đại thần mà nghị tội Trịnh Công Lộ.
Triều đình hội cộng đồng, nghĩ vì Trịnh Công Lộ lộng quyền ỷ thế phản chúa khi quân, ngoài gây cuộc binh đao trong bày điều ly loạn, nên nghị án Trịnh Công Lộ thì chịu lăng trì, còn gia quyến và đồng lõa thì bị trảm quyết.
Vua Cảnh Thống bổn tính nhơn từ quảng đại lại mới lên ngôi bủa đức rưới ân, nên chế giảm cho phạm nhơn, định trảm quyết một mình thủ phạm Trịnh Công Lộ mà thôi còn bao nhiêu thì ân xá đuổi về quê quán nhập vào hạng lê thứ.
Thân Thanh Tòng vưng lịnh làm biểu mà kể hết những chuyện: từ hôn Công chúa mà phải bị thâu chức lại bị đày, tới Bắc Giang phân rẽ anh em họ Ðinh, qua Thái Nguyên làm con nuôi Huỳnh Như Hào, đi cưới vợ lại cưới nhầm thế nữ Xuân Lan, nhờ Xuân Lan mới gặp Lệ Bích, lúc sấm sét, nghe quan Thái úy mách bảo, nhờ Ngô Sĩ Liên và Chánh sứ Hưng Hóa Thái Nguyên giúp binh nên mới đi xuống Bắc Giang, gặp Ðinh Hổ cứu mới khỏi nguy, hiệp với Ðinh Long, Ðinh Hổ về triều bình loạn, đầu đuôi kể hết không sót chút nào.
Vua xem biểu rồi mới phán rằng: Ngày nay trẫm được nối Tiên vương mà tài bồi xã tắc bá tánh được an cư lạc nghiệp, khỏi nạn loạn ly, phần nhiều nhờ sức Thân Thanh Tòng là một đứng nam nhi đã giữ vẹn can thường, mà lại còn có chí cần vương cứu quốc nữa. Vậy trẫm do theo tờ biểu mà phong  thưởng như vầy:
Thân Thanh Tòng: Tài cao, công lớn, nên trẫm phong chức Nam quốc đại tướng quân“, chấp chưởng trọn binh quyền trong nước.
Lệ Bích: Trọng hiếu, trọng tứ nên trẫm cho phục phẩm Công nương, lại cho sánh duyên cùng Thân Thanh Tòng cho khỏi trái ý cha, và khỏi lỗi thệ ước.
Công chúa Nhị Hoa: Vì tiên đế đã tứ hôn cho Thanh Tòng nên trẫm cũng vưng theo ý ấy mà đưa về Thân phủ để làm đệ nhị phòng.
Thế nữ Xuân lan: Tuy là phận thấp hèn, nhưng mà có công cực với Lệ Bích, lại đã động phòng hoa chúc với Thân Thanh Tòng rồi, ấy là ý trời định vậy, nên trẩm phong tam phẩm phu nhơn, cho vào Thân phủ để làm đệ tam phòng.
Ðinh Hổ: Tuy tánh ngang tàng, song có khiếu trung trực, có công cứu Thanh Tòng, mà lại có công vào ngục thất giải thoát cho trẫm trước hết, nên trẫm phong chức „Nam phương chư đạo Ðô tổng binh .
Ðinh Long: Sẵn lòng dẹp loạn, lại có công bắt hết bọn phản thần nên trẫm phong chức Bắc phương chư đạo Ðô Tổng binh .
Hành khiển Tuyên phủ Chánh sứ Thái Nguyên và Hưng Hóa: Có công giúp binh cho Thanh Tòng dẹp loạn, nên trẫm thăng lên một cấp và ban thưởng cho mỗi người 10 cây lụa với một trăm nén bạc.
Nguyên Giám sát Ngự sử Ngô Sĩ Liên: Ðã trí sĩ rồi mà cũng có lòng trung quân ái quốc, nên trẫm ban thưởng 10 cây lụa và 100 nén bạc.
Tô Hộ: Ở trọn niềm với chủ, lại có công cực khổ đem thơ qua Ngưu Sơn, nên trẫm thưởng cho 10 nén bạc và hai chữ Nghĩa bộc .
Thanh Tòng, Ðinh Long, Ðinh Hổ đồng quỳ trước điện mà tạ ơn. Bá quan văn võ thảy đều vui mừng cho minh quân hổ tướng tao phùng, tài tử giai nhân tế ngộ.
Thanh Tòng về tổ quán mà rước mẹ. Chàng lại viết thơ rồi cậy Ðinh Hổ với Tô Hộ đem đi rước Lệ Bích, Xuân Lan, Ngô Sĩ Liên và Huỳnh Như Hào về triều đặng bái mạng.
Khi sum họp đủ rồi, vua mới chọn ngày đưa Công chúa Như Hoa về Thân phủ, đặng Lệ Bích, Như Hoa và Xuân Lan chung nhau làm lễ giao bôi với Thanh Tòng một lượt.
 
 
Cang thường nặng gánh hai vai,
Nghĩa sâu hơn biển, tình dài hơn sông.
 

[1] tay chơn bộ hạ
 
 
An Trường Février - Mai 1930








Chương 2

Bị nhục, cha mong báo oán
Nặng tình, con ngại tranh hùng.


 
Ông Thân Nhơn Trung giải y cân rồi vào thơ phòng đóng cửa lại, dặn quân hầu hễ có khách nào đến thì cứ thưa rằng ông đi khỏi. Ông lục đục trong thơ phòng cho đến chiều mà cũng không chịu ra ăn cơm.
Thân phu nhơn không hay việc chi hết, tưởng ông có bịnh nên mở cửa vào thăm. Bà thấy ông đương ngồi chống tay trên ghế châu mày ủ mặt, thì bà hỏi ông có việc chi mà buồn lo như vậy. Ông bèn thuật đầu đuôi mọi việc lại cho bà nghe, sau rốt ông lại nói rằng: Tôi tiếc thằng Thanh Tòng nó mắc đi du học, chớ nếu có nó ở nhà thì ai mà dám nhục tôi. Ðể nó về đây rồi sẽ coi .
Bà vừa nghe nói như vậy thì bà giựt mình nên bà hỏi rằng:
- Ông đợi thằng Thanh Tòng về mà chi? Quan Thái úy lỗ mãng đánh ông, thì ông cứ vào tâu với Thánh thượng, xin Thánh thượng làm tội ổng. Mình có chứng cớ ổng chối sao được.
- Tâu Thánh thượng mà làm gì? Ví dầu Thánh thượng có làm tội Lê Niệm đi nữa, cái nhục của tôi lại rửa được hay sao? Huống chi người là em rể của vua, người làm quan tới chức Thái úy, bất quá Thánh thượng quở trách lôi thôi rồi can gián hai bên hòa với nhau, chớ không lẽ Thánh thượng chém giết gì. Tâu với Thánh thượng thì tôi tâu, mà tôi cũng đợi thằng Thanh Tòng về đây tôi biểu nó đánh Lê Niệm mà trả thù cho được tôi mới nghe.
- Ông không nên tính như vậy. Ðã biết Thanh Tòng với Lệ Bích chưa phối hiệp với nhau, nhưng mà hai trẻ đã hứa hôn, ông đã cho phép con mình kêu quan Thái úy bằng cha rồi, có lẽ nào bây giờ ông lại xúi nó đánh lộn với cha vợ nó.
- É! còn cha con gì nữa mà kể. Cha chả! Cha vợ lại bằng cha ruột hay sao? Nếu thằng Thanh Tòng là con thảo, thì nó phải lo rửa nhục cho cha nó, nó phải trọng cha nó hơn thiên hạ hết thảy.
Thân phu nhơn ngồi trầm ngâm một hồi rồi bà đáp rằng:
- Tôi biết con tôi lắm: thà là nó dứt tình phu thê, chớ nó không đành để lỗi niềm phụ tử, thà là nó chết, chớ chẳng bao giờ nó chịu ai nhục tông môn nó. Nếu chừng nó về đây mà ông biểu, thì chắc nó đi báo thù cho ông liền. Cha chả! Mà con mình còn nhỏ dại quá, tôi sợ lắm ông!
- Bà sợ nỗi gì? Sợ nó đánh không lại lão Lê Niệm phải hôn? Hứ! Khéo lo dữ! Như nó đánh không lại thì nó chết cho tròn danh tiết. Chớ sợ chết rồi nhịn thua người ta, sống mà chịu nhục thì sống làm gì?
- Tôi nghe quan Thái úy võ nghệ cao cường lắm ông.
- Vậy chớ con mình nó dở lắm hay sao?
- Dầu nó có giỏi đi nữa, nó cũng là con nít nó sánh với quan Thái úy sao được, mà ông muốn cho nó tranh đấu.
- Bà không hiểu, bà đừng có cãi...
Ông Thân Nhơn Trung nói chưa dứt lời, bỗng có một tên quân hầu bước vào bẩm rằng Công tử Thanh Tòng du học đã về, nên xin vào bái kiến cha mẹ. Ông đổi buồn làm vui, hối quân ra đòi Công tử vào. Bà ngó ông và nói rằng: Việc nhà để thủng thẳng rồi sẽ tính, xin ông đừng có vội lắm . Ông gặc đầu đáp rằng: Bà đừng lo. Ðể mặc tôi liệu lượng .
Thanh Tòng bước vô, sau lưng lại có tên gia thần là Tô Hộ với hai người lạ mặt, tướng mạo đường đường, oai phong lẫm lẫm, đi theo nữa. Bốn người bái kiến ông bà. Ông Thân Nhơn Trung thấy hai người lạ, không biết là ai, nên hỏi con. Thanh Tòng vòng tay thưa rằng: Thưa cha mẹ, hai người nầy là anh em ruột với nhau, người lớn tên Ðinh Long, người nhỏ tên Ðinh Hổ. Cha mẹ khuất sớm, anh em dắt nhau rảo bước giang hồ, tìm thầy chọn bạn mà luyện tập nghiệp võ nghe văn, chờ cơ hội ra phò vua giúp nước. Khi con vào tới Hoành Sơn con gặp anh em họ Ðinh, con thấy người có khiếu anh hùng, có tài hào kiệt, con kết làm bằng hữu. Nay con trở về, con dắt về bái kiến cha mẹ. Xin cha mẹ vui lòng cho anh em họ Ðinh ở trong dinh với con, đặng ba anh em con ôn nhuần kinh sử, rèn tập kiếm cung, chờ lịnh trên mở hội cầu hiền, con sẽ lập công danh mà đền nợ nước .
Ông Thân Nhơn Trung nghe nói như vậy thì ông lấy làm mừng. Ông hỏi thăm căn nguyên quê quán, mới hay anh em họ Ðinh gốc ở Thuận Hóa; Ðinh Long đã được 25 tưổi, còn Ðinh Hổ mới có 22 tuổi. Bà Thân phu nhơn mừng con, nhưng bà sợ chồng tỏ việc thù oán cho con nghe, nên bà lật đật hối con dắt anh em họ Ðinh ra nhà khách coi biểu gia đinh quét phòng dọn chỗ cho anh em họ Ðinh nghỉ. Bà lại dặn dò Tô Hộ hãy coi cơn nước mà đãi khách cho tử tế. Ðinh Long với Ðinh Hổ tạ ơn ông bà rồi theo Thanh Tòng và Tô Hộ mà đi ra khách đường, Thanh Tòng thấy cha mẹ vui lòng cho anh em họ Ðinh tá ngụ, thì chàng mừng rỡ, nên biểu gia đinh đứa lo dọn phòng, đứa lo dọn cơm lăng xăng.
Ðến tối Thanh Tòng đương ngồi đàm luận với khách bỗng có một tên gia đinh ra mời Công tử vào hậu đường cho ông dạy việc. Thanh Tòng lật đật kiếu khách rồi theo tên gia đinh mà vào trong. Khi chàng bước vào thì thấy cha ngồi tại ghế giữa khí sắc nghiêm trang, còn mẹ ngồi bên tả nhìn chàng trân trân, mà coi buồn bực lắm. Chàng khoanh tay đứng trước mặt cha mà chờ lịnh.
Ông Thân Nhơn Trung ngó con hỏi rằng:
- Cha cho con đi du học gần một năm nay, con đi đâu tài học của con bây giờ ra thể nào, đâu con thưa cho cha nghe thử coi.
- Thưa cha, con nhờ ơn cha mẹ rộng lượng cho phép con rảo khắp giang hồ đặng tìm thầy kết bạn mà học thêm cho quảng kiến đa văn, trót mấy tháng nay chẳng có giây phút nào mà con dám lãng chí xao lòng, ngày con luyện võ, đêm con tập văn, con quyết khoa sẽ tới đây thế nào con cũng đề danh bảng hổ. Con dạo non sông gần khắp hết, con kết bằng hữu cũng nhiều. Vô tới Hoành Sơn may con lại gặp ông Trần Kim, ông dạy thao lược binh thơ rành rẽ. Không lẽ con dám khoe với cha mẹ, chớ thiệt con tưởng nghề văn nghiệp võ của con bây giờ từ trong triều ra khắp châu quận ít ai mà hơn con nổi.
- Cha mẹ sanh có một mình con, mà con học được như vậy thì cha mẹ mừng cho con đó. Nầy con, mà làm con người ở đời chẳng phải tập văn hay luyện sức mạnh đó là đủ. Ðứng làm trai trong võ trụ con phải biết trung, biết hiếu, biết lễ, biết nghĩa nữa mới được. Cha còn lo sợ điều đó lắm; nếu con văn hay võ giỏi, mà con bất trung bất hiếu, thì cái tài của con đó cũng không ích gì.
- Thưa cha, mấy lời cha nói đó con cảm phục lắm. Làm người mà không biết trọng hiếu, trung nếu có tài cao sức mạnh, thì càng hại cho nước nhà, càng nhục cho tổ tông chớ có ích gì. Tuy con còn nhỏ dại, song con cũng hiểu trong sự học phải lấy hiếu, trung, nhơn, nghĩa làm gốc; con học là học đặng phò vua giúp nước, học đặng trả ơn mẹ nghĩa cha, học đặng lấy chút công danh mà làm cho hiển vinh tông tổ.
- Con lập chí như vậy thì phải lắm. Ðạo làm trai phải phơi gan trải mật mà phò vua giúp nước, phải khắc yết[1] ghi tâm mà trả thảo đền ơn. Mà cha thấy thế thường người ta gọi rằng hiếu là do nuôi dưỡng cha mẹ, cung kính cha mẹ, thương yêu cha mẹ, chẳng dám để cha mẹ phiền não, chẳng dám làm cha mẹ mang nhục. Cha nghĩ cái hiếu như vậy đó chưa đủ đa con.
- Dạ, thưa cha, ơn sanh thành dưỡng dục minh mông như trời như biển, chất ngất như núi như non, phận làm con phải lo đền đáp, làm được điều nào thì mừng điều nấy, chớ có biết sao mà dám gọi là đủ được.
- Ờ con nói như vậy thì hiệp ý cha lắm. Nhưng mà để cha hỏi thử con điều nấy: làm con muốn cho trọn thảo cùng cha mẹ thì chẳng nên làm điều chi nhục nhã đến cha mẹ. Còn như cha mẹ làm điều chi mà bị sỉ nhục, thì phận làm con phải liệu làm sao hử con?
- Thưa cha, sách thánh hiền dạy rằng: ví như cha mẹ làm điều chẳng phải. mà bị sỉ nhục, thì đạo làm con phải theo mà can gián. Như can mà cha mẹ không nghe thì phải khóc lóc theo mà can hoài chằng nên mỏi chí, can cho đến chừng nào cha mẹ động lòng, tránh đường quấy trở vào nẻo phải, chừng ấy mới thôi. Con là đứa có học, tự nhiên con phải noi theo đạo thánh hiền, chớ có lẽ nào con dám để sai sót.
- Con nói đó là nói khi nào cha mẹ làm quấy nên bị nhục. Còn như cha mẹ làm phải, mà đứa tiểu nhơn nó ghen hiền ghét ngõ[2], nó kiếm chuyện mà làm nhục cha mẹ, dường ấy phận làm con phải liệu làm sao kia chớ.
Thân phu nhơn nghe chồng hỏi tới đó thì bà lo sợ, nên bà xăng văng xéo véo ngồi không yên, bà đứng dậy mà thưa rằng: Thưa ông, con nó đi đường xa mới về, nó mệt mỏi chưa nghỉ ngơi được, mà ông theo hỏi dần lân hoài, nhọc trí nó tội nghiệp lắm ông . Ông trợn mắt đáp rằng: Bà có mệt thì vào trong mà nghỉ, để cho tôi nói chuyện với con, sao bà lại cản tôi? Bà sợ nên bà lặng thinh ngồi xuống, không dám nói nữa.
Thanh Tòng bèn thưa với cha rằng:
- Thưa cha, ở đời nếu con làm xấu, thì tự nhiên mẹ cha cũng xấu; còn cha mang nhơ thì con cái đều nhơ. Danh giá trong nhà là danh giá chung, mỗi người đều phải lo giữ gìn cho toàn vẹn. Nếu người nào ghen hiền ghét ngõ, họ làm nhục cha mà cha không thể trả thù được phận làm con thì con phải thay thế cho cha mà lấy máu rửa hờn, dầu con có chết con cũng cam lòng, chớ sống mà để nhục danh giá cha mẹ, thì sống làm sao được.
- Phải. Con nói phải lắm. Ðược như vậy mới phải trang hiếu tử, mới đáng mặt anh hùng. Nếu cơn mà biết trọng danh giá thì cái nhục của cha mới có thể rửa được.
Thanh Tòng nghe cha nói câu sau đó, thì chàng chưng hửng, đứng ngó cha trân trân, ý muốn hỏi coi có việc chi mà cha nói như vậy. Ông Thân Nhơn Trung ngồi nhắm con một hồi rồi ông mới nói rằng: Ớ nầy con, để cha phân cho con rõ. Số là hồi sớm mơi nầy, có đại triều, lịnh Thánh thượng xét cha công dày tuổi lớn, nên gia phong cha làm chức Tả Tướng quốc, lại giao cho cha phải lãnh dạy dỗ Ðông cung Thái tử. Trong bạn đồng liêu có người thấy cha được Thánh thượng yêu dùng thì sanh lòng ganh ghét; lúc bãi chầu, đón cha tại ngọ môn mà sỉ nhục cha, rồi còn đánh cha gãy hết một cái răng nữa... .
Thanh Tòng vừa mới nghe cha nói bấy nhiêu đó thì lửa giận phừng phừng, nên hét lớn lên rằng: Cha chả? Thằng nào mà to gan dữ vậy? Xin cha nói tên nó cho con biết, con sẽ đi báo thù cho cha liền bây giờ đây .
Bà Thân phu nhơn ngồi biến sắc. Ông gặc đầu rồi chậm rãi đáp rằng:
- Nói tên người đó, không phải là khó chi lắm. Nhưng vì cha sợ e hễ cha nói rồi, cái lòng báo oán, cái khí anh hùng của con nó giảm bớt đi chăng, nên cha không muốn nói chớ.
- Thưa cha, cha phân như vậy thì tội nghiệp cho con lắm. Chữ phụ thù bất cộng đái thiên, thà là con chết, chớ con nhịn người ta sao được mà cha nghi ngại. Xin cha nói tên người đó cho con biết.
- Ờ nếu con muốn biết thì cha nói cho con biết. Người nhục cha hồi sớm mơi đó là Thái úy Lê Niệm là cha vợ của con, chớ không phải ai đâu lạ.
Thanh Tòng nghe rõ rồi thì chết điếng trong lòng nên rưng rưng nước mắt mà nói rằng: Té ra cha vợ của con!... Cha vợ con đánh cha gãy răng... . Chàng sửng sốt một chút rồi chàng châu mày trợn mắt mà thưa rằng: Thưa cha, xin cha hãy an nghỉ cho khỏe. Việc thù oán nầy để mặc con liệu cho. Con nói thiệt, thà là con chết, chớ con không thể để cho cha mang nhục được .
Ông Thân Nhơn Trung nói rằng: Vì căn duyên của con nên hồi sớm mơi cha nhịn nhục hết sức; mà quan Thái úy người không nghĩ, đã mắng cha rồi còn đánh cha nữa. Vậy con hãy liệu đánh[3]  lấy; bên thì hiếu, bên thì tình, con phải cân phân cho kỹ .
Thanh Tòng đáp rằng: Xin cha an nghỉ, cha để mặc con lo cho . Ông bèn đứng dậy đi vào phòng mà nằm. Bà thấy Thanh Tòng đứng trơ trơ, bà mới bước lại vỗ vai con mà nói rằng:
- Nầy con, việc nầy phải đề thủng thẳng mà tính, con đừng có hốt tốc, nghe hôn con. Cha con giận, ổng nói như vậy, chớ con cũng phải nhớ quan Thái úy là cha vợ của con, đa nghé.
- Thưa mẹ, xin mẹ an lòng, không có sao đâu mà sợ.
- Quan Thái úy không phải là người tầm thường; ổng có tánh nóng nảy, chắc là có ai xúi ổng, hoặc là tại cha con nói xốc ý ổng sao đó, nên mới sanh sự như vậy. Từ hồi trưa cho đến bây giờ mẹ cứ khuyên cha con hãy dằn lòng đợi đến ngày đại triều làm sớ mà tâu với lịnh Thiên Tử. Vậy con phải chậm chậm mà chờ lịnh Thiên Tử phân xử thì hay hơn.
- Mẹ dạy như vậy thì phải lắm. Ngặt vì dầu Thánh thượng có làm tội quan Thái úy, cái răng  của cha con cũng không thường được, sự nhục của cha con, con cũng nhớ hoài.
- Phải, mẹ cũng biết thù cha là trọng, nhưng mà một câu nhịn bằng chín câu lành, vậy con phải dằn lòng, chẳng nên hốt tốc rồi sau con tự hối. Thôi, con mới về mệt mỏi, con ra trước mà nghỉ, để mai rồi mẹ sẽ nói nữa.
Thân phu nhơn đi vào phòng. Thanh Tòng đứng ngẩn ngơ một hồi rồi chàng lần đi ra nhà ngoài.
Trong đêm ấy Thanh Tòng lấy cớ mệt mà khuyên anh em họ Ðinh phải nghỉ, rồi chàng vào thơ phòng chấp tay sau đít đi qua đi lại mà suy nghĩ hoài. Cha chả là khó liệu! Phận làm con thì phải báo thù cho cha. Cha mình sanh mình ra, nuôi mình cho nên vai nên vóc, lại còn cho mình ăn học cho thông nghề văn, giỏi nghiệp võ, dạy mình đêm ngày cho mình biết luân lý cang thường. Nay cha mình bị người ta làm nhục, mà vì niên cao kỷ trưởng lưng mỏi gối dùn, không có sức rửa hờn đặng. Mình là đạo làm con, không lẽ mình điềm nhiên tọa thị; mình là đứng anh hùng, không lẽ mình nhịn thua để đợi cha mình làm sớ mà kiện với Thánh Hoàng. Thế nào mình cũng phải báo thù, trước trả thảo cho cha, sau giữ danh giá cho tông tổ. Làm như vậy mới đáng mặt trượng phu, làm như vậy mới trọn niềm hiếu tử... Mà báo thù làm sao cho được! Người thù là cha vợ của mình. Nếu mình vì thù cha, vì danh giá, mà đối địch cùng cha vợ mình, ví như mình dở mình chết, thì là trọn thảo cùng cha, rạng danh nam tử, dầu có chết mình cũng cam lòng. Còn như rủi mình thắng cha vợ mình, thì còn gì là nghĩa châu trần, còn gì là niềm phu phụ. Thanh Tòng nghĩ tới đó chàng ứa nước mắt. Một bên thì là hiếu, một bên thì là tình, tình đã thâm, mà hiếu cũng trọng. Nếu được tình thì mất hiếu, nếu được hiếu thì mất tình. Biết làm sao cho tình hiếu vẹn toàn, biết làm sao cho hai bên hòa thuận? Niềm chồng vợ tuy chưa chung chăn gối, nhưng mà từ ngày đã hứa hôn rồi thì lòng dặn lòng sanh tử giữ đồng. Duyên nợ gì mà chưa hiệp lại muốn tan, ai xui khiến nỗi đất bằng sóng dậy.
Chàng tư lự suốt đêm, khi thì giận cái nhục của cha, quyết đi báo cừu, không thèm kể ai hết; khi thì rầu nỗi tóc tơ bối rối, sợ lỡ tay rồi phải ăn năn, bởi vậy chàng đi ra đi vô hoài, nằm ngồi không được.
Ðến sáng, yến sáng mặt trời dọi vào cửa sổ, tiếng chim quyên kêu inh ỏi trên nhành. Thanh Tòng đứng chống tay dựa cửa mà ngó ra vườn, chàng nghĩ rằng: phụ thù là chí trọng, danh dự là chí tôn, tại sao mà mình dụ dự. Mình phải báo phụ thù mình phải báo danh dự chớ. Nàng Lệ Bích dung nhan thiệt là đẹp, văn chương thiệt là hay, mà trong triều ngoài quận không có gái nào sắc đẹp bằng, văn hay bằng hay sao, mà ta đi mê nàng, đến nỗi quên phụ thù, bỏ danh dự. Huống chi mình mới hứa hôn mà thôi, chớ chưa chung chăn gối, thì có nghĩa chi đâu mà mình sợ phạm, có tình chi đâu mà mình sợ bạc. Thà là mình chết vì cha, chớ sống vì vợ, sống càng thêm nhục sống mà làm chi? Dầu thế nào mình cũng phải giáp mặt kẻ thù của cha mình; nếu mình dụ dự thì mình mang lỗi với cha mình lắm.
Thanh Tòng liền kêu một tên gia đinh mà biểu bắc ngựa thắng yên rồi dắt ra trước cửa mà chờ. Chàng rửa mặt, thay áo, buộc dây đai, mang độc kiếm, rồi lén cha mẹ ra cửa thót lên lưng ngựa, nhằm dinh quan Thái úy Lê Niệm mà thẳng tới.
 
 





 

[1] ước, thề ước
 
[2] khôn ngoan
 
[3] định
<< Lùi - Tiếp theo

HOMECHAT
1 | 1 | 254
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com