watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
14:43:0926/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Dài > Hồ Biểu Chánh > Đóa Hoa Tàn - Trang 4
Chỉ mục bài viết
Đóa Hoa Tàn
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Tất cả các trang
Trang 4 trong tổng số 4

Chương 4
Tình sâu tiết sạch

Cách một tháng sau, thím biện Yến có trở về ở đậu trong xóm mà mướn thợ xây mả cho chồng.
Người ta hỏi thăm thì thím nói Hải Đường làm quan Bác vật tại sở Tạo Tác Sài Gòn. Làm mả xong rồi thì thím đi nữa, nói rằng lên Sài Gòn ở với con.
Từ ấy cho tới hai năm sau, Hải Đường và thím biện Yến không có trở về trong làng nữa, mà cũng không có gởi thơ cho ai hết, nên không ai biết còn ở Sài Gòn hay là đã dời đi chỗ nào khác.
Một buổi trưa, lính trạm đi phát thơ, cũng ghé nhà ông Bình mà phát nhựt trình như mỗi bữa. Cô Túy Nga ở nhà có một mình, cô mở tờ nhựt báo "Thanh niên“ ra, thấy ở chương đầu có một bài đề tựa chữ lớn như vầy: "Tài với Tình“. Cô là người đa tình, thấy tựa như vậy thì lấy làm kỳ, nên đọc bài ấy trước.
Bài viết như vầy:
Ông Nguyễn Hải Đường là một đấng nhơn tài của Việt Nam, ông ở tại " Chư nghệ Đại học hiệu“ Ba-Lê mà xuất thân, được cấp bằng làm Kỹ sư Bác vật sở Tạo Tác Đông Pháp. Chí tấn thủ với tài học thức của ông làm vẻ vang cho bực thanh niên
Nam Việt không biết chừng nào. Tiếc thay cho ông cũng như trăm ngàn đấng thanh niên khác, hễ đa tài thì đa tình, ông cũng bị dây ái tình ràng buộc lôi cuốn vào biển khổ.
Hôm chúa nhựt rồi đây, tôi thăm ông bạn tôi là ông y khoa Tấn sĩ Lê Vĩnh Trị ở Châu Đốc, tình cờ tôi nghe được tâm sự của ông Hải Đường thì tôi lấy làm đau
lòng vô hồi. Theo như lời ông bạn tôi nói lại, thì ông Hải Đường từ nhỏ đã có tình với một cô mỹ nữ nào đó, nhưng vì cô chê ông nghèo hèn, không khứng kết tóc
trăm năm với ông, nên ông thất vọng mới đi qua Pháp mà học. Ông học thành tài rồi, ông trở về xứ, gắn bó xin kết tóc với cô nữa. Cô quyết một lòng kháng cự, ông năn nỉ thế nào cô cũng không ưng. Lần nầy ông thất vọng mà lại thêm thất chí, không còn ham phú quí công danh gì nữa. Ông đương làm Kỹ sư Bác vật tại Sài Gòn sang trọng sung sướng không ai bì kịp, mà ông không thèm kể, ông xin đổi lên xứ Cao Miên đặng đi coi làm cầu theo đường xe lửa qua ranh Xiêm La. Ông lội trong ruộng, ở trong rừng, dãi nắng dầm mưa, cực nhọc đáo để, mà ông cũng không lấp mạch sầu được.
Ông buồn quá nên sanh tật uống rượu, vì ông tính lấy rượu mạnh mà rửa mối sầu. Gần hai năm nay, phần thì ăn thất thường, ở cực khổ, phần thì ngày như đêm rượu mạnh cứ đốt gan đốt ruột ông, bởi vậy ông phải sanh bịnh, vừa đau trái tim, vừa đau con mắt. Ông phải xin vào nhà thương Nam Vang mà dưỡng bịnh.
Ông bạn của tôi là ông Lê Vĩnh Trị vốn là bạn thiết của Hải Đường hồi ở Ba-Lê, lại chuyên trị bịnh trái tim và con mắt. Ông Trị hay tin ấy mới tuốt lên Nam Vang thăm ông Hải Đường, rồi rước ông về Châu Đốc để tại nhà mà trị bịnh cho ông. Tuy ông Trị hết lòng lo cứu bạn, nhưng mà cho thuốc hơn nửa tháng rồi, bịnh trái tim có giảm, còn cặp mắt của ông Hải Đường vẫn còn lù mù, không thấy đường đi.
Tôi thấy bịnh của ông Hải Đường thì tôi làm tiếc cái tài học của ông hết sức, mà tôi lại ghê gớm cho cái giống ái tình, nó mạnh mẽ đến nỗi giết người được. Cái hại về ái tình mà ông Hải Đường vương mang đó, là cái gương để cho anh em thanh niên xem.
Giáo sư Bùi Đạo Đức
Cô Túy Nga đọc hết bài nhựt trình, thì nước mắt tuôn dầm dề. Cô cầm tờ nhựt trình vô phòng nằm đọc đi đọc lại, đọc chừng nào cô càng đau đớn thêm chừng nấy.
Cô khóc trót giờ, rồi lấy giấy viết một bức thơ, giọt lụy nhiểu ướt giấy hai ba chỗ. Cô niêm thơ kỹ luỡng rồi sai một đứa bạn đem xuống Vũng Liêm mua cò mà gởi tại nhà thơ (40).
Cô nằm trong phòng mà khóc hoài, cho đến chiều, ông bà đi xóm về, người nhà dọn cơm, mà cô cũng không chịu ra ăn.
Bà tưởng cô đau, nên tối bà vô phòng mà thăm cô, té ra bà thấy cô dựa bên cây đèn, mắt ngó vào tờ nhựt trình mà khóc. Bà lấy làm lạ, nên trở ra nói việc mình thấy đó cho ông nghe.
Ông Bình bèn kêu cô Túy Nga dậy ra mà cho ông biểu. Cô bước ra, cặp mắt ướt rượt, tay cô cầm tờ nhựt trình. Ông thấy vậy bèn hỏi rằng: "Có việc gì mà con khóc?“
Cô Túy Nga đưa tờ nhựt trình và chỉ cái bài "Tài với Tình“ cho ông xem. Ông cầm đọc lớn cho bà nghe với ông. Ông đọc lớn rồi day qua hỏi Túy Nga rằng: "Hải Đường mang bịnh thì tội nghiệp thiệt, nhưng tại cớ nào con khóc đến nỗi bỏ ăn bỏ uống?“ Túy Nga thủng thẳng đáp rằng: "Cô mỹ nhơn nói trong bài nhựt trình đó là con!“
Vợ chồng ông Bình nhìn nhau chưng hửng. Ông hỏi rằng:
- Té ra Hải Đường có tỏ tình với con, có xin kết tóc trăm năm với con hay sao?
- Thưa, có.
- Hồi nào?
- Thưa, hồi ở bên Pháp mới về đó.
- Sao con không cho thầy má hay?
- Con nghĩ con ưng ảnh không đựơc, nên con trả lời ngay cho ảnh, con không thưa lại cho thầy má hay làm chi.
- Hồi nó đi Pháp về thì chồng con để bỏ con đã lâu rồi, có điều chi trở ngại đâu mà con ưng không được?
- Tại con hay cái tình của ảnh đối với con nặng lắm, cái tình ấy gây ra từ khi
ảnh mới thi đậu Tú tài và con chưa có chồng, mà ảnh ái ngại không dám nói ra, để bỏ đi Pháp mà học; nên sau con nghĩ phận hèn của con không xứng với tình nặng của ảnh mà con không ưng.
- Con dại quá! Việc như vậy mà nó không cho hay, để Hải Đường thất tình đến nỗi bịnh hoạn, bây giờ làm sao?

Bà nói rằng:
- Hồi Hải Đường thi đậu Tú tài rồi, tôi muốn gã phứt con Túy Nga cho nó. Tại ông muốn làm sui với chỗ môn đương đối hộ, ông hứa lỡ với ông Thiện mà gã nó cho Đăng Cao, tôi không biết làm sao, nên tôi phải xuôi theo. Chớ chi hồi trước mình gã nó cho Hải Đường thì nó có đâu bị hành hạ cái thân như vậy.
- Thiệt đó chớ! Tại hồi đó lòng tôi còn phấn chấn danh lợi nên tôi lầm. Thôi, việc xưa bà nó nhắc lại làm chi, để tính việc bây giờ đây coi phải làm sao.
- Bây giờ còn tính giống gì nữa. Tại hai đứa nó không có duyên nợ với nhau nên trời mới khiến như vậy, thì phải chịu, chớ biết làm sao.
Ông ngồi suy nghĩ một hồi lâu rồi ông hỏi Túy Nga rằng: "Con nói mấy lời hồi nãy đó thì thầy đủ hiểu ý tứ của con rồi. Tại con vì liêm sỉ, vì tiết giá nên con không ưng Hải Đường. Con ở như vậy thì cao thiệt, nhưng mà cái cao của con đó nó không hạp với cái tình sâu của chàng Hải Đường, nên chàng mới thọ hại. Bây giờ con tính lẽ nào? Con đành giữ phẩm giá của con cho cao hoài mà để cho tiêu diệt một đấng nhơn tài của xã hội Việt Nam hay sao?“

Túy Nga khóc và đáp rằng:
- Thiệt con không dè cái ái tình của anh Hải Đường sâu sia (41) đến thế. Con tưởng anh tài cao tước lớn, nếu con không ưng ảnh, thì chẳng thiếu nơi sang trọng giàu có cho ảnh kết đôi, có lẽ nào phận hèn của con mà làm lụy cho ảnh được.
- Có vậy con mới thấy cái ái tình đó là ái tình thiệt, không giả dối chút nào hết.
- Phải con hay như vậy thì thà là con chịu hổ thầm mà làm thấp, chớ con đâu nỡ dành phần cao mà để cho ảnh thất chí thọ bịnh. Con nghĩ lại con lỗi với anh Hải Đường nhiều lắm, nếu ảnh chết thì cái tội của con còn lớn hơn nữa, biết chừng nào mà chuộc được.
- Thiệt như vậy.
Túy Nga đứng dụ dự một lát rồi nói tiếp rằng: "Con muốn xin thầy má một điều nầy: Từ ngày con bị chồng để bỏ, con tưởng nợ nhơn duyên con đã dứt rồi, nên con thề tâm phục sự thầy má cho đến trăm tuổi già, để đền ơn sanh thành cúc dục. Chẳng nhè nợ nhơn duyên của con còn lòng dòng, nên mới khiến có việc rắc rối như vầy. Nếu con làm lơ thì con mang tội ác lớn lắm. Vả lại ở nhà có anh Hai chị Hai. Vậy con xin thầy má vui lòng cho phép con lên Châu Đốc tìm mà nuôi dưỡng anh Hải Đường đặng con chuộc cái tội của con, chừng nào ảnh lành mạnh rồi con sẽ trở về“.
Ông Bình gật đầu đáp rằng: "Đó là nghĩa vụ của con, có lẽ nào thầy ngăn cản“. Bà tiếp mà nói rằng: "Vậy mới phải. Bề nào cũng phải ráng hết sức mà cứu nó chớ“.
Cô Túy Nga sửa soạn hành lý rồi bữa sau cô đón xe hơi mà đi Châu Đốc.
Ông y khoa Tấn sĩ Lê Vĩnh Trị mướn ba căn phố dọn ở phía sau chợ Châu Đốc, một căn để làm phòng khám bịnh, còn hai căn để làm biệt xá.
Cô Túy Nga lên tới Châu Đốc lối ba giờ chiều. Cô hỏi thăm nhà ông Lê Vĩnh Trị rồi ngồi xe kéo đi lại đó. Khi cô xách vali bước vô cửa thì cô thấy thím biện Yến ngồi trong nhà. Cô liền để vali ngoài hàng ba rồi đi riết vô và khóc và hỏi rằng: "Thím biện, anh Bác vật bớt hay không? Ảnh nằm đâu?“
Thím biện Yến lắc đầu, rưng rưng nước mắt mà đáp rằng: "Nó ở trong núi, chớ đâu có ở đây. Tại cô mà bây giờ nó phải mang bịnh hoạn nhiều quá cô Ba ôi!“
Cô Túy Nga ngồi dựa bên thím biện Yến mà khóc, không nói được một tiếng chi hết. Thím biện Yến thấy vậy thím cảm tình, nên thím cũng khóc chớ không nỡ trách nữa.
Hai người tỏ dấu sầu não về cái họa chung một hồi, rồi cô Túy Nga mới hỏi bịnh của Hải Đường phát hồi nào, chứng bịnh ra làm sao, tại sao lại vô trong núi mà ở.
Thím biện Yến cũng nói y như bài trong nhựt trình: "Hải Đường không kết duyên cùng Túy Nga được thì chàng thất tình xin đổi lên Cao Miên mà làm việc. Tưởng đi cho xa đặng nguôi bớt nỗi sầu, nào ngờ sự buồn thảm vấn vít theo hoài đêm ngày làm việc mệt nhọc hết sức mà cũng không nguôi được. Chừng cùng thế bèn mượn rượu mạnh mà giải khuây, uống nhiều quá nên phải sanh bịnh con mắt rồi luôn tới trái tim nữa. Chàng mới xin nghỉ ra nằm nhà thương Nam Vang mà dưỡng bịnh. Ông Bác sĩ Trị hay tin ấy mới lật đật lên rước đem về mà cho thuốc. Vả bịnh phải trị lâu ngày, mà nhứt là cần phải ở chỗ yên tịnh mát mẻ. Sẵn ông Bác sĩ Trị có cất một cái nhà mát ở trên triền núi Sam để hứng gió, nên ông đem Hải Đường để ở tạm nhà mát ấy rồi mỗi ngày ông vô tuần mạch mà cho thuốc.
Túy Nga nghe rõ đầu đuôi rồi cô mới hỏi rằng:
- Vậy mà từ ngày ông Bác sĩ rước về cho thuốc đến nay, thím coi bịnh có giảm chút nào hay không?
- Khá lắm. Mấy bữa rày nó không còn mệt nữa. Ông Bác sĩ coi mạch hồi trưa,
ổng nói trái tim nó bớt nhiều, song ổng căn dặn đừng có chọc cho nó giận, bởi vì hễ nó giận thì sợ bịnh phát lại rồi khó trị.
- Còn con mắt bây giờ ra thể nào?
- Cặp con mắt thì ông Bác sĩ ổng lo lắm. Ông nói với tôi, ổng sẽ hết lòng lo cứu chữa, song ổng sợ nó phải chịu tật; như Phật Trời có phò hộ thì hoạ may nó thấy lờ mờ vậy thôi, chớ khó tỏ rõ như hồi trước được. Hổm nay ổng băng con mắt nó bì bịt, có thấy đường đâu, ăn cơm phải đút, ra vô phải dắt, chớ nó không thấy chi hết.
Túy Nga nghe lời đó thì nước mắt tuôn dầm dề nữa.
Thím biện Yến hỏi rằng:
- Ông bà dưới nhà mạnh, cô Ba hả?
- Thưa, mạnh.
- Sao cô hay nó đau?
- Tôi coi nhựt trình tôi mới hay.
- Còn sao cô biết tôi ở đây nên lên đây mà kiếm?
- Cũng nhờ xem nhựt trình mới biết.
- Cô đi lên đây ông bà hay hay không?
- Thưa, hay. Tôi có xin phép thầy má tôi rồi mới đi đây. Nhà nầy phải là nhà
của ông Bác sĩ hay không?
- Phải.
- Ông đi đâu vắng?
- Hồi trưa ổng vô trỏng ổng xem mạch cho nó, rồi tôi đi theo xe ổng ra đây mà
lấy thuốc. Té ra xe về tới thì có người trực rước ổng, vì có bịnh gấp. Ông lật đật đi coi bịnh dưới Cỏ Tầm Bon, ổng dặn tôi chờ ổng về rồi ổng sẽ soạn thuốc cho tôi đem về trỏng mà cho nó uống. Tôi rầu lắm, cô Ba ôi! Vợ chồng tôi có làm việc gì bất nhơn thất đức đâu, mà sao trời đất lại hại con tôi như vầy không biết. Nếu con tôi có bề nào chắc là tôi phải chết theo nó, chớ sống sao cho được.
Thím biện Yến tủi phần con nên thím khóc nữa. Túy Nga thấy vậy cô càng thêm ăn năn, nên cô cũng chảy nước mắt mà nói rằng: "Anh Bác vật bịnh hoạn như vậy, tôi có tội nhiều lắm. Đã biết tôi không làm cho ảnh bịnh, nhưng mà cũng tại cử chỉ của tôi nên anh thất chí rồi mới sanh bịnh. Vì vậy nên hay tin thì tôi lo sợ buồn rầu không biết chừng nào. Tôi lên đây là tôi quyết hy sanh cái danh giá của tôi, quyết thí thân tôi mà nuôi dưỡng săn sóc cho tới chừng nào ảnh lành mạnh rồi tôi mới trở về. Nói cùng mà nghe, ví như trời đất không thương bắt ảnh phải chết, thì tôi cũng khó sống được. Vậy tôi xin thím tha lỗi cho tôi, và vui lòng cho tôi ở mà nuôi ảnh. Tôi phải chịu cực khổ với ảnh thì hoạ may tôi mới chuộc tội của tôi được“.
Thím biện Yến thở ra mà đáp rằng:
- Bây giờ cô biết thương nó rồi, cô nói như vậy, thì có lẽ nào tôi đi ngăn cản.
- Tôi cảm ơn thím. Tôi sẽ thế cho thím mà nuôi ảnh.
- Cha chả! Mà nó phiền cô lung lắm. Từ ngày nó đau cho tới bây giờ hễ nói tới tên cô thì nó nổi giận nó rầy quá. Tôi sợ nó không chịu cho cô ở gần nó chớ.
- Tôi sẽ hạ mình mà xin lỗi ảnh. Tôi ăn năn rồi, không lẽ ảnh không dung chế.
Tôi muốn xin thím dắt tôi đi liền vô núi đặng tôi giáp mặt coi bịnh tình thế nào.
- Không được. Tôi phải đợi ông Bác sĩ đặng lấy thuốc rồi về mới được chớ. Cô chờ một chút, đã quá bốn giờ rồi, có lẽ ông Bác sĩ cũng gần về.
- Anh Bác vật đau như vậy mà ảnh ăn ngủ được hay không?
- Ăn được mà nó ngủ ít lắm.
- Ảnh ốm hay không?
- Ốm hơn hồi trước nhiều.
- Thím đi dây rồi ai ở nhà với ảnh?
- Có mướn một đứa nhỏ mười bốn tuổi, mướn để nó ra vô lấy thuốc. Tôi đi thì nó ở nhà, chớ có ai đâu.

Hai người nói chuyện tới đó thì xe hơi của ông Bác sĩ­ Trị về tới. Ông Bác sĩ bước vô thấy cô Túy Nga chào ông, thì ông hỏi thím biện Yến vậy chớ người đó là ai. Thím biện đáp rằng: "Cô Ba đây là con của ông Tổng Bình ở dưới Vũng Liêm. Cô là người mà thằng con tôi nó muốn kết duyên, song muốn không được nên nó rầu buồn mà phải sanh bịnh đó“.
Ông Bác sĩ chưng hửng. Ông đứng ngó cô Túy Nga trân trân, sắc mặt nghiêm nghị, làm cho phải kiêng nể mà cúi đầu.
Ông hỏi cô rằng:
- Cô lên đây có việc chi?
- Thưa, em coi nhựt trình, em thấy anh Bác vật đau, nên em xin phép thầy má em mà lên đây.
- Anh Bác vật nặng tình với cô, mà cô không biết thương xót ảnh, vậy thì cô lên
đây làm chi?
- Thưa, việc riêng của em khó nói cho ông hiểu được. Em thương hay là không thương chỉ có em biết bụng em mà thôi.
- Cô nói thế ấy nghe ra cô thương anh Bác vật. Thương sao lại đối đãi với ảnh
lợt lạt, làm cho ảnh thất tình đến nỗi phải bịnh hoạn dường ấy. Tôi nói cho cô
biết, nếu anh Bác vật có bề nào, thì cô mang tội lớn lắm. Theo lời anh nói chuyện với tôi thì tôi biết ảnh đối với cô, ảnh có một cái tình sâu sia nặng nề lắm. Có lẽ cô còn biết sự ấy nhiều hơn tôi nữa chớ?
- Thưa, em biết.
- Ô, cô biết mà sao cô phụ rảy cái tình ấy?
- Thưa, em đã có một đời chồng rồi. Theo luân lý của mình thì liệt nữ vô nhị giá. Vì vậy mà em không thể kết duyên cùng anh Bác vật được, chớ nào phải em phụ rảy ảnh.
Ông Bác sĩ Trị nghe mấy lời sau đó, thì ổng ngó cô Túy Nga rồi lắc đầu mà hỏi rằng:
- Bây giờ cô hay ảnh đau, rồi cô lên đây làm chi?
- Em nghĩ ảnh mang bịnh đó là tại em, nên em quyết hy sinh danh giá và tánh
mạng mà nuôi dưỡng ảnh cho lành mạnh đặng em chuộc cái tội của em chút đỉnh.
- Cô nói sao?
- Em nói em quyết lên đây ở làm tôi mọi mà nuôi dưỡng anh Bác vật cho tới lúc
ảnh lành mạnh.
- Uý! Cái đó không được. Tôi không thể cho cô gặp anh Bác vật được.
Cô Túy Nga chưng hửng.
Thím biện Yến nói rằng: "Ở nhà nãy giờ cô Ba cổ nói cổ ăn năn lắm, nên quyết lên ở nuôi dưỡng nó mà chuộc cái tội phụ rảy nó ngày trước“.
Ông Bác sĩ lắc đầu, ông kéo ghế mà ngồi rồi nói chậm rãi mà gắt gao rằng: "Tôi không thể cho cô Ba đây giáp mặt với anh Bác vật được. Không được, không được“.
Cô Túy Nga vội hỏi ông rằng:
- Thưa ông, tại sao vậy?
- Anh Bác vật nói tâm sự của ảnh cho tôi nghe mấy lần thì tôi biết rõ ý ảnh hờn cô, oán cô hung lắm. Ảnh đau trái tim tự nhiên phải cử cái giận, vì vậy nên tôi kiếm chỗ yên tịnh để ảnh ở dưỡng bịnh. Mấy tuần nay bịnh trái tim đã giảm nhiều rồi. Nếu cô giáp mặt với ảnh, tôi sợ ảnh nổi giận ảnh làm sung, rồi tôi cứu ảnh không đựơc.
- Ảnh thương em, nếu em đến, có lẽ ảnh hết giận chớ.
- Cô nói như vậy thì sai lắm. Cô hay ảnh mang bịnh, cô đến mà nuôi ảnh, ấy là cô tội nghiệp người mắc hoạn họa, chớ không phải cô trìu mến người đa tình. Ảnh biết như vậy thì ảnh càng thêm giận, chớ không phải ảnh vui đâu.
- Nếu ảnh còn giận thì em sẽ khóc lóc năn nỉ với ảnh. Em nói thiệt dầu ảnh giận, ảnh mắng nhiếc đánh đập em đi nữa, em cũng cam tâm mà chịu.
- Không được. Bịnh đó hễ giận thì nguy lắm.
- Tội nghiệp em lắm, ông ơi! Hồi nãy em nói với thím Biện, thì thím bằng lòng rồi.
Thím biện Yến nói rằng: "Hồi nãy cô nói với tôi thì thiệt tôi có chịu, bởi vì tôi có hiểu bịnh tình thế nào đâu. Bây giờ ông Bác sĩ nói như vậy, thì tôi đâu dám cho cô gặp nó“.
Cô Túy Nga ngồi khóc bộ thảm thiết quá. Ông Bác sĩ thấy vậy, ông bèn bỏ đi qua chỗ khám bịnh, không muốn thấy cái cảnh ảo não của một người đàn bà ăn năn. Cô
Túy Nga theo năn nỉ thím biện Yến cho cô giáp mặt với Hải Đường, ví như chàng giận chàng xô đuổi thì cô sẽ liệu lượng. Thím biện động lòng, nhưng vì có lời ông Bác sĩ nói như vậy, nên thím không biết lẽ nào.
Cách một hồi lâu, ông Bác sĩ Trị trở qua nhà tư, ông nói rằng: "Cô Ba nói đã hết lời, nếu mình ngăn cản thì té ra mình hẹp lượng. Vậy để cô giáp mặt với anh Hải Đường thử coi. Song nếu cho cô Ba đi vô trỏng thì phải có tôi theo mới đựơc. Lại phải làm chậm chậm, chớ không nên làm gấp. Lúc nầy tôi băng con mắt của ảnh, nên ảnh không thấy chi hết. Bây giờ mình phải lập kế nói dối rằng tôi thấy thím biện già cả thức đêm thức hôm nuôi bịnh mệt nhọc, lại phải ra vô lấy thuốc hoặc mua đồ ăn khó lòng, nên tôi mướn giùm cô Ba đây - phải dấu mà kêu cô là "con Kiều“ đây là con gái mồ côi, mới vài mươi tuổi, nghèo nàn, song biết chữ, để phụ nấu cơm, nước, hoặc đi lấy thuốc, hoặc thức đêm hôm, hoặc đọc thơ đọc nhựt trình cho ảnh nghe. Mình nói dối như vậy trong ít ngày cho ảnh quen rồi, ví như chừng con mắt ảnh sáng lại ảnh biết, thì việc đã lỡ rồi, nên có lẽ ảnh bớt giận. Tôi tính như vậy, cô nghĩ thử coi được không cô Ba?“
Túy Nga mừng lòng, nên lật đật đáp rằng:
- Thưa, ông tính như vậy thì hay lắm.
- Cha chả! Mà tôi quên việc nầy: Tôi sợ cô nói chuyện rồi ảnh biết tiếng cô.
- Em không nói chuyện.
- Không nói sao được.
- Ảnh có hỏi hay là biểu việc chi thì chỉ nói tiếng một vậy thôi, chớ không nói dài.
- Ừ, phải vậy mới được. Không nên nói dài, sợ ảnh biết tiếng; đợi ít ngày cho quen rồi sẽ hay. Mà cô nhớ là tôi đặt tên cô là con "Kiều“ nghe hôn.

Thím biện cũng nhớ kêu tên ấy, chớ đừng lộn xộn dấy lâu mà hư việc. Thôi, để tôi biểu đầu bếp nấu cơm dọn cho thím với cô Ba ăn rồi sẽ đi. Để làm thử coi hoặc may ảnh hết sầu não rồi ảnh mau mạnh được.
Ông Bác sĩ kêu đầu bếp mà hối dọn cơm. Có lính trạm đem thơ và nhựt trình mà phát. Ông Bác sĩ soạn thấy có hai cái thơ đề tên Hải Đường, ông bỏ túi để lát nữa đem vô cho bạn. Ông lại soạn thuốc bỏ vào một cái túi da sẵn sàng.
Ăn cơm rồi, mặt trời đã chen lặn, thím biện Yến cùng cô Túy Nga mới lên xe hơi đi với ông Bác sĩ Trị mà vô núi Sam.
Đường từ Châu Đốc vô núi Sam chỉ có bốn năm ngàn thước. Cô Túy Nga ngồi trên xe hơi ngó hai bên thì thấy đồng ruộng mênh mông, lúa trỗ chín nên vàng vàng, còn chỗ đương trỗ nên phơi màu xám xám. Trước mặt một vừng núi sừng sựng, tuy không cao không lớn, song đứng giữa đồng nên coi cũng có vẻ chớn chở (42) nguy nga.
Cảnh lạ lại gặp trời chiều, người nhàn du ai cũng phải vui lòng phới dạ, duy có cô Túy Nga mắc trông cho mau tới chỗ đặng giáp mặt Hải Đường, lại mắc lo không biết bịnh tình thế nào, nên thấy cảnh đẹp mà cô không biết vui chút nào hết.
Xe vô tới chơn núi rồi quanh qua phía tay trái, chạy vòng theo một con đường nhỏ mà lên núi. Cách ít trăm thước xe ngừng trước cửa một cái nhà nhỏ, tuy trời đã chạng vạng tối, song Túy Nga thấy cái nhà ấy trên lợp ngói đỏ dưới đóng vách ván.
Thím biện Yến chỉ cho Túy Nga mà nói rằng: " Nó ở cái nhà nầy đây“.
Cô Túy Nga theo thím biện Yến mà bước xuống xe, trong lòng bâng khuâng, nên không nói chi hết.
Ông Bác sĩ xâm xâm đi vô nhà, hai người đàn bà nối gót theo sau. Nhờ có cây đèn hạ đăng đốt để trên bàn ở giữa nhà, nên trong nhà coi sáng sủa. Một đứa trai chừng mười bốn mười lăm tuổi chạy ra sân. Ông Bác sĩ hỏi nó rằng:
- Bà cụ đi từ hồi trưa đến giờ, ông mầy ở nhà có nhắc hay không?
- Thưa, có. Ông tôi cứ hỏi bà cụ về hay chưa.
Thím Biện Yến sai thằng nhỏ ra ngoài xe bưng đồ vô. Ông Bác sĩ vô nhà, ông để cái túi da trên bàn, rồi đi thẳng vô buồng.
Ông hỏi rằng: "Từ hồi trưa tới giờ con mắt có nhức nữa hay không?“
Có tiếng đáp nhỏ nhỏ rằng: "Không. Nhờ toa cho thuốc nhỏ mắt nên êm“.
Ông Bác sĩ nói nữa rằng: "Ô, chịu thuốc rồi đa. Mỏa (43) về ngoải rồi có bịnh gấp họ rước, thím phải ở chờ, nên bây giờ mỏa mới đưa thím về được. Đâu toa (44) ra ngoài nầy ngồi cho khoảng khoát, sao nằm trong buồng hoài vậy?“
Cô Túy Nga đứng dựa cái bàn viết, cô thấy ông Bác sĩ Trị nắm tay Hải Đường mà dắt ra ngoài, Hải Đường bị băng bít hai con mắt, một tay níu ông Bác sĩ, một tay rờ rờ trên không, sợ đụng bàn ghế, thì cô cảm động, nên nước mắt nhiểu giọt.
Ông Bác sĩ để Hải Đường ngồi trên cái ghế phô tơi (45), rồi ông kéo một cái ghế khác mà ông ngồi một bên.
Thím biện Yến có mua bánh mì, sữa bò, cùng đồ hộp đặng để dành cho con dùng, nên nãy giờ thím mắc soạn đồ ấy. Chừng Hải Đường ngồi yên rồi, thím mới hỏi rằng:
- Thằng Hai đã dọn cháo cho con ăn rồi hay chưa?
- Thưa rồi. Con ăn hồi nãy.
- Chiều nay con ăn được mấy chén?
- Thưa, hai chén.
- Để má biểu nó nấu nước nóng rồi khuấy sữa cho con uống.
Ông Bác sĩ Trị tiếp hỏi Hải Đường rằng:
- Toa hết hồi hộp nữa phải không?
- Thiệt hết.
- Mỏa lo là lo trái tim, chớ con mắt mỏa ít lo. Nay trái tim mạch nhảy đều rồi thì
hết lo. Tuy vậy mà mỏa cấm toa không được buồn, không được giận. Toa phải nghe lời mỏa đa. Bữa nay toa còn thèm rượu nữa hay không?
- Cũng còn thèm lắm.
- Mỏa xin toa cử tuyệt thứ đó, chớ nếu toa uống rượu, nó công con mắt, rồi mỏa trị sao được.
- Không uống rượu thì buồn quá.
- Mỏa hiểu. Bợm rượu mà cử rượu, phần thì không thấy đường, nên không đi đâu được, làm sao mà khỏi buồn. Nầy, may quá toa. Hồi mỏa ăn cơm với thím, có ông Đốc học Luật ổng dắt một đứa con gái lại nói mà cho ở với mỏa. Ông nói con nhỏ mồ côi, nhà nghèo, học có bằng cấp sơ học, mà không có công việc làm, nên bữa đói bữa no. Ông gởi gấm nó ở cho mỏa đặng quét nhà lau tủ, mỗi tháng cho nó đôi ba đbạc cũng được, miễn nó có cơm ăn thì thôi. Mỏa sực nhớ đến toa. Toa đau, mà lại đau con mắt, không đi đâu, mà cũng không coi sách được, tự nhiên toa phải buồn, nên mỏa mướn nó dùm cho toa. Mỏa dắt nó vô đây, để nó ở đặng hễ toa có buồn thì biểu nó đọc truyện, đọc sách, hoặc đọc nhựt trình cho toa nghe, toa muốn gởi thơ thì đọc cho nó viết, bữa nào đi lấy thuốc, hoặc ra chợ mua đồ thì sai nó đi, chớ thím già cả, thím đi cực nhọc thím quá.
Ông Bác sĩ nói tới đây, ông ngó coi ý Hải Đường thể nào. Cô Túy Nga đứng đàng xa cô cũng ngó chàng trân trân.
Hải Đường lặng thinh một hồi rồi thủng thẳng đáp rằng:
- Được vậy thì tốt lắm. Hổm nay mỏa muốn viết vài bức thơ mà không biết làm sao mà viết.
- Ô, có nó ở đây thì toa biểu nó viết rồi toa ký tên. Nó ở mỗi tháng cho nó đôi ba
đồng bạc, không tốn hao gì lắm.
- Được.
- Hồi chiều mỏa nói chuyện thì thím cũng bằng lòng, nên mỏa dắt luôn nó vô
đây.
- Ô, toa đã đem nó vô đây hay sao?
- Ừ.

Thím biện Yến xen vô nói rằng: "Má nghe ông Bác sĩ ổng nói cũng phải, mà má thấy con nhỏ mồ côi bơ vơ cũng tội nghiệp, nên má chịu mướn để đỡ tay chơn cho má chút đỉnh. Ông Bác sĩ chở nó vô đó. Nó biết chữ, nó coi ve thuốc nào uống giờ nào cho dễ; cha chả, má dốt, hổm nay má cho con uống thuốc, thiệt má sợ lộn quá“.
Hải Đường ngồi im lìm một lát rồi nói rằng: "Nếu có nó vô rồi, đâu kêu nó lại gần đây cho tôi hỏi nó một chút coi“.
Thím biện ngoắt Túy Nga và nói: "Kiều à, buớc lại đây cho ông mày hỏi“.
Cô Túy Nga bỏ giày thủng thẳng bước lại đứng một bên Hải Đường và lấy khăn ra lau nước mắt.
Ông Bác sĩ nói: "Nó lại rồi đó. Toa hỏi việc chi thì hỏi đi“.
Hải Đường hỏi:
- Em năm nay mấy tuổi?
- Dạ, thưa hai mươi.
- Cha mẹ chết hết, mà không có anh em gì hay sao?
- Thưa, không.
- Em học trường nào? Em biết đọc chữ Tây hay không?
- Thưa, em học trường... Châu Đốc, em đọc chữ Tây được.
Hải Đường rùng mình, đưa hai tay run run, ngã ngửa trên ghế phô tơi và la lớn rằng: "Không thèm! Tôi không bằng lòng mướn người nầy. Đuổi nó đi, đuổi nó ra khỏi nhà cho mau. Đi, đi. Không chịu, không chịu“.
Ông Bác sĩ Trị lật đật đỡ Hải Đường và tiếp mà nói:"Thôi, đi ra, đi về đi, ổng không chịu mướn. Đi, đi“. Tuy ổng nói như vậy, mà ổng ra dấu biểu đứng đó. Thím biện cũng chạy lại ôm con mà nói: "Con làm giống gì vậy con? Sao con lại giận? Không chịu mướn thì thôi, rầy rà nó làm chi?“
Túy Nga Đứng sửng sốt, nước mắt tuôn dầm dề. Hải Đường nằm thở dốc. Ông Bác sĩ Trị mở túi da lấy ra một ve dầu nhãn rồi đưa gần lỗ mũi cho Hải Đường hửi.
Cách một hồi Hải Đường tỉnh lại, chống tay ngồi dậy.
Thím Biện nói rằng: "Con đau rồi con nóng nảy quá! Nguời ta nghèo nàn, người ta xin ở với mình đặng nhờ hột cơm. Mướn hay là không mướn thì thôi, con xô đuổi người ta như vậy, tội nghiệp người ta chớ. Ông Bác sĩ mới dặn đừng có giận, mà con giận liền như vậy rồi làm sao mau mạnh cho được“.
Ông Bác sĩ cũng nói tiếp rằng: "Toa nóng nảy quá! Có gì đâu mà giận dữ vậy“.
Hải Đường ngồi lặng thinh một hồi lâu rồi hỏi mẹ rằng:
- Má biết người đó hay không?
- Người nào?
- Người xin ở đó.
- Ồ! Thuở nay ai mà biết nó hồi nào.
- Thiệt như vậy hay sao?
- Sao lại không thiệt! Hồi chiều má đương ăn cơm với ông Bác sĩ. Ông Đốc học
dắt nó lại gởi gấm xin mướn dùm nó, má mới thấy nó đó chớ.
- Người đó bao lớn tuổi?
- Lối mười chín hai mươi gì đó không biết.
Hải Đường ngồi im lìm một hồi nữa rồi chậm rãi nói rằng: "Tiếng nói của người đó sao giống tiếng cô Túy Nga quá. Tôi nghe cái giọng nói đó tôi chịu không được nên tôi mới nổi giận chớ. Té ra không phải cô Túy Nga hay sao?“
Ông Bác sĩ ngó thím biện rồi ngó Túy Nga mà cười. Ông đáp rằng:
- Túy Nga nào đâu? Con Kiều ở ngoài chợ Châu Đốc mà; học trò cũ của ông Đốc
học Luật đa.
- Vậy hay sao?
- Chớ sao.
- Cha chả! Nếu thiệt cô Túy Nga lên đây, chắc mỏa chết được.
- Cái gì mà chết?
- Toa không hiểu hay sao? Cô đã khinh khi mỏa; bây giờ mỏa bịnh hoạn, mà cô
tới đây ngạo mỏa nữa, thì mỏa chịu sao nổi.
- Có cái gì mà ngạo toa đâu. Ví như cô Túy Nga hay toa đau, cô Túy Nga đến thăm toa, chớ sao mà ngạo?
- Mỏa không màng cái tình đó. Nếu ngày nay cô ấy tới đây, ấy là cô ấy tội nghiệp thân mỏa, chớ không phải cô thương yêu mỏa.
- Nếu biết tội nghiệp thì phải có thương rồi mới tội nghiệp chớ.
- Hứ! Tội nghiệp với thương khác nhau. Toa đi đường toa thấy có một người bịnh họ té nhủi. Toa lật đật chạy lại đỡ họ, ấy là toa tội nghiệp họ, chớ nào phải toa yêu thương gì họ. Ví như toa là người bịnh mà té đó, còn người khinh khi toa chạy lại đỡ, toa chịu được hay sao?

Ông Bác sĩ ngó Túy Nga rồi lắc đầu. Ông không muốn kéo nhây câu chuyện đó nữa, nên ông nói:
- Thôi, chuyện cô Túy Nga toa nên bỏ dẹp đi, nhắc tới làm chi. Bây giờ toa
mướn con Kiều hay không? Như không muốn thì mỏa chở nó về mỏa trả nó tại cho ông Đốc học Luật.
- Mướn thì mướn chớ sao... Phải mướn đặng đỡ tay chơn cho bà già mỏa... Bậy quá, hồi nãy mỏa nóng giận mỏa xô đuổi nó, không biết bây giờ nó chịu ở hay không?
- Sao lại không chịu. Con nhà nghèo đói rách, có biết liêm sĩ là gì đâu. Rầy chút
đỉnh mà kể gì.
- Không biết nó còn ở đó hay không?
Thím biện nói: "Hồi nãy con giận, nó sợ nó chạy ra ngoài xe kia chớ đâu. Để má kêu nó“. Túy Nga vẫn đứng một bên đó, song thím biện làm bộ ra cửa kêu om sòm rồi mới dắt vô.
Ông Bác sĩ nói: "Ông Bác vật có bịnh nên sanh tật nóng nảy, cô em đừng có phiền. Thôi, ở mà nuôi dùm ổng“.
Túy Nga dạ mà thôi, chớ không dám nói dài. Hải Đường nói: "Tôi xin lỗi cô em. Tại bịnh nên tôi hay giận dỗi như vậy, chớ không phải tôi hung dữ chi đâu. Cô em đừng có sợ. Để rồi bà cụ chỉ thuốc cho cô em biết thứ nào uống giờ nào đặng cô em coi mà cho tôi uống“.
Túy Nga cũng dạ cụt ngủn, chớ không dám nói chi hết. Ông Bác sĩ Trị thấy kế đã thành, ông bèn mở túi da ra lấy hai cái thơ mà đưa cho Hải Đường, lấy thuốc mà giao cho Túy Nga và dặn thứ nào phải uống giờ nào, mà nỗi lần uống bao nhiêu. Ông hứa chiều bữa sau ông sẽ vô thăm bịnh. Ông dặn Hải Đường đừng có buồn, đừng có giận, rồi ông từ giã lên xe mà về.
Thím Biện làm bộ lăng xăng, chỉ công việc cho Túy Nga làm, biểu quét giường nệm trong phòng Hải Đường, dọn bộ ván phía trong cho Túy Nga ngủ gần người bịnh, rồi sai đi khuấy sữa cho Hải Đường uống, giọng nói như chủ nhà với đày tớ, nên Hải Đường không nghi nữa.
Túy Nga bưng ly sữa đem cho Hải Đường. Chàng lấy ly sữa và hỏi rằng:
- Cô em tên gì, nói cho qua biết đặng kêu cho dễ?
- Em tên Kiều.
- Cô em buồn ngủ hay chưa? -
Thưa, chưa.
- Viết dùm đỡ cho qua một chút được hay không?
- Thưa, được.
- Thôi, để qua uống sữa rồi qua sẽ chỉ công việc cho em làm.

Hải Đường bưng ly sữa, một lát uống một hớp.
Thím biện Yến ngoắt cô Túy Nga qua căn bên kia mà nói nhỏ rằng: "Được rồi. Coi bộ nó không nghi nữa. Nó thức khuya lắm. Đêm nào cũng vậy, nó lục đục đến canh ba nó mới chịu đi ngủ. Như cô có mệt thì qua giường tôi phía bên nầy mà ngủ trước đi, để tôi thức với nó“.
Túy Nga lắc đầu đáp nhỏ nhỏ rằng:
- Tôi không mệt đâu. Để tôi thức với ảnh. Thím nghỉ trước đi.
- Như cô muốn thức cũng được. Nè, mà hồi nãy tôi làm bộ chỉ chỗ cho cô ngủ đó đặng nó tin, chớ chừng nào cô buồn ngủ thì qua ngủ chung với tôi đặng có mùng, kẻo muỗi cắn chết.
- Được. Thím nghỉ đi, đừng lo. Chừng nào ảnh nghỉ rồi, tôi sẽ qua. Túy Nga đợi Hải Đường uống hết sữa rồi, cô lấy ly mà dẹp.
Thím biện Yến đóng cửa rồi thím đi ngủ.
Đã gần hết canh một, tư bề vắng vẻ, chỉ nghe tiếng ve kêu trên ngọn cây và một lát nghe tiếng chuông ở chùa Phật dưới chơn núi dộng một cái bon mà thôi.
Hải Đường ngồi trân trân không nói chi hết, mà Túy Nga ngồi cái ghế gần đó, cô ngó chàng rồi rơi lụy, chớ cô không dám hở môi.
Cách một hồi lâu chàng hỏi rằng: "Cô Kiều còn thức đó hay không?“.
Túy Nga lật đật đứng dậy đáp rằng:
- Thưa, em còn thức đây. Ông có cần dùng việc chi hay không?
- Tôi muốn đọc cho cô em viết một chút.
- Thưa, được.
- Cô bước lại bàn viết, cô lấy cuốn "agenda“ đem dùm lại đây cho tôi. Cuốn bìa
cứng, màu xám, ngoài bìa có in chữ lớn "agenda“ đó.
- Em biết.
Túy Nga bước lại bàn viết lấy cuốn agenda đem đưa cho Hải Đường. Chàng cầm trong tay và gật đầu nói rằng: "Phải. Cuốn nầy. Xưa rày tôi bịnh, song tôi có ngụ ý đặt được một bài thi bát cú, ngặt bị con mắt đau nên viết ra không được. Vậy cô em lấy viết mực đem lại bàn đây mà ngồi cho gần, rồi tôi đọc bài thi ấy cho cô em chép“.
Túy Nga lấy viết mực ngồi dựa cây đèn, gần một bên Hải Đường. Chàng đưa cuốn agenda lại cho cô và nói rằng: "Cô em giở chương đầu coi phải có một thi đề tựa "Túy Nga tự thán“ hay không?
Cô giở ra thiệt quả có bài thi của cô làm năm trước. Cô bèn đáp rằng:
- Thưa, phải. Có bài thi đó.
- Ừ, cô em viết tiếp khúc dưới. Cô viết tựa chữ lớn: "Hải Đường hòa vận“.
- Thưa, rồi.
- Bây giờ tôi đọc cho cô em chép bài thi của tôi.

Hải Đường ngồi đọc nhỏ nhỏ cho Túy Nga viết bài thi như vầy:
Một mình co duỗi góc trời Đông,
Khỏa lấp niềm riêng chén rượu nồng;
Nghĩa vụ, chung tình đành phải thế,
Công danh, phú quí cũng như không;
Câu ngâm hối hận bồi hồi khách,
Giọt lụy chia lìa lai láng sông;
Em hỡi Túy Nga em nỡ để,
Trăm năm rối rắm mối tơ hồng.
Túy Nga chép bài thi, cô cảm động không xiết kể, song cô sợ Hải Đường biết nên cô không dám khóc, cô dằn lòng mà chịu, mà nước mắt tuôn dầm dề.
May Hải Đường không biểu cô đọc lại, chớ nếu chàng biểu, thì chắc cô đọc không được.
Chàng dựa ngửa trên ghế phô tơi mà nghỉ lưng. Cô ngồi coi chừng coi ý chàng còn muốn việc gì nữa. Chàng thò tay vào túi móc ra hai cái thơ của ông Bác sĩ Trị trao hồi nãy, cầm sò sè một lát rồi đưa một cái cho cô mà hỏi rằng:
- Cô em xem con dấu đóng trên con cò đó coi thơ ở đâu gởi vậy.
- Thưa, con dấu nhà thơ Mỹ Tho.
- Thơ của ai vậy kìa. Đâu cô xé đọc dùm cho tôi nghe.
Túy Nga xé bao, rút thơ ra rồi đọc như vầy:
Cher ami Hải Đường,
Tôi đọc nhựt trình có hay tin bạn đau và M. Trị rước bạn về nhà mà điều trị. Tôi lật đật viết sơ lược ít hàng mà cầu chúc cho bạn mau mạnh, đợi ít ngày nữa có dịp rảnh tôi sẽ lên Châu Đốc mà thăm bạn.
Theo như tin trong nhựt trình, thì mấy năm nay bạn cũng chưa cưới vợ. Ở trong thời đại nầy, lại đứng vào bực học thức cao đẳng, mà bạn ôm ấp ái tình đến nỗi phải lụy thân, thì tôi lấy làm lạ. Bạn phải tỉnh mà nhớ lại, đời nầy là đời danh lợi, cách hành động của mình, dầu đi học, hay là cưới vợ, hay là kết bạn, hay là làm việc, bất lục là lúc nào, mình đều phải chủ hướng về cái danh hoặc cái lợi, dường ấy mới hạp với thời, thuận với người.
Cô mỹ nhơn mà bạn đeo đuổi theo đó sẽ giúp ích cho đường đời của bạn về phương diện danh hay là lợi hay không mà bạn phải chịu khổ tâm đến thế? Ối! Dầu có ích cho mấy đi nữa, nếu thấy bước đường gay trở thì bạn phải vạch nẻo khác mà đi, hơi nào mà phải cố tâm thiết tha trong chỗ khó.
Sao bạn không làm như thiên hạ, mà lại trèo leo lên cái lối huyền vọng ái tình làm chi cho lao tâm mệt trí?
Tôi quyết sẽ đem bạn ra khỏi cái lối huyền vọng ấy, tôi sẽ kéo bạn xuống cái cảnh chơn thiệt ở cõi trần, đặng cho bạn hưởng chút đỉnh của thế gian như các bạn đồng song của chúng ta vậy. Tôi nói ngay với bạn rằng tôi có một đứa em gái, năm nay mới hai
mươi tuổi, thông thạo cách giao thiệp theo đời nay, biết nói tiếng Pháp, biết đánh tơ nít (46); cha mẹ tôi khuất hết để gia tài lại, tôi chia ra phần nó mỗi năm hưởng huê lợi trên mười ngàn giạ lúa. Tôi nhứt định sẽ gả cho bạn đặng trước là nó có chồng xứng đáng với số gia tài của nó, sau nữa bạn khỏi mệt mà có một cái gia tài nhỏ nhỏ đủ làm nề (47) mà bước lên cho cao thêm hoài.
Tôi gởi cái chơn dung của con em tôi theo đây cho bạn xem trước. Nếu bạn không chê nó, thì tôi gả nó cho bạn liền, bạn muốn định cưới ngày nào cũng được.
Đợi bạn hồi âm, tôi chúc bạn mau mau mạnh.
Nắm tay bạn.
Túy Nga đọc thơ rồi, cô ngó Hải Đường trân trân, có ý chờ coi chàng liệu định lẽ nào. Hải Đường ngồi tự nhiên mà hỏi rằng:
- Người viết thơ có ký tên hay không?
- Thưa, có.
- Ai vậy kìa...
- Thưa, ở dưới dấu ký tên có biên: "Phan Thế Bửu, Điền chủ ở Mỹ Tho“.
- À! Anh Thế Bửu! Có học thức mà vậy đó! "Thế Ngu“ chớ Thế Bửu gì vậy.

Túy Nga hiểu ý, thì cô lắc đầu. Tuy vậy mà cô muốn dò đáo để, nên cô đưa tấm chơn dung đính theo thơ cho Hải Đường mà nói rằng: "Thưa, có tấm hình đây“.
Hải Đường cùn quằn đáp rằng: "Hình mà làm gì. Đút vô bao với cái thơ rồi bỏ trong cuốn agenda“.
Chàng ngồi im lìm một hồi lâu rồi đưa phong thơ thứ nhì mà hỏi rằng: "Còn thơ nầy ở đâu gởi lại?“
Túy Nga lấy phong thơ, thì là thơ của cô gởi tại Vũng Liêm, trước khi ra đi. Tuy vậy mà cô cũng làm bộ coi con dấu nhà thơ rồi đáp rằng: "Thưa, thơ gởi tại Vũng Liêm“.
Cô và nói và ngó coi ý chàng thế nào. Hải Đường dụ dự rồi hỏi rằng:
- Chữ đề bao đó giống tuồng chữ đàn bà hay là đàn ông?
- Thưa, em không hiểu.
- Đàn ông thường họ viết cứng, còn đàn bà họ viết yếu.
- Thưa, em coi không ra.
Hải Đường dụ dự một hồi nữa, rồi thở ra mà rằng: "Thôi, xé đại mà đọc thử coi“.
Túy Nga xé thơ. Vả thơ của cô viết thì cô thuộc lòng, bởi vậy tay cầm bức thơ, mắt ngó Hải Đường trân trân và miệng đọc như vầy:
„ Anh Hải Đường đáng yêu đáng kính ôi!
Trót hai năm nay em không được tin tức của anh, nên em không biết anh ở đâu, mà cũng không hiểu anh làm việc gì. Tuy vậy mà trong trí em vẫn tưởng tượng anh đã có đôi bạn, có con nhỏ, tưởng anh đã gây cuộc gia đình, tưởng anh đang hưởng hạnh phúc vợ hiền con quí, chẳng có chút chi buồn hay là lo, cũng như bầu trời thanh bạch, chẳng có mây giăng, cũng như mặt biển lặng trang, chẳng có sóng dợn.
Than ôi! Em vừa đọc một bài trong nhựt trình, em mới hay sự tưởng tượng của em không trúng chút nào hết, em mới rõ mấy năm nay vì em mà anh phải sầu não, phải vất vả tấm thân, đến nỗi phải thọ bịnh. Trời đất ôi! Tội của em lớn biết chừng nào, bây giờ làm sao mà chuộc cho được!
Anh ôi! Hiện bây giờ em đau đớn trong lòng quá, không còn trí khôn mà tả cho anh hiểu tấm lòng của em đối với anh. Em biết nói làm sao bây giờ! Em xin viết một câu
nầy: "Nếu anh chết thì em không thể nào sống được“. Em tưởng nói bao nhiêu đó có lẽ đủ cho anh hiểu rõ lòng dạ của em.
Mà không lẽ trời độc ác đến nỗi phải khiến anh chết như vậy. Em cũng không chịu cho anh chết. Em phải làm cho anh mạnh thì em mới khỏi tội. Vậy em nhứt định bỏ dẹp luân lý, em hy sinh cái đời vô dụng của em đặng em cứu anh.
Em cúi xin anh cho phép em lên ở nuôi dưỡng anh cho anh lành mạnh. Ví như trời có khiến anh phải chết, thì đôi ta nhìn cho tận mặt nhau một lần chót, rồi chết với nhau một lượt đặng chừng đầu thai cũng trở lên một luợt mà kết vợ chồng với nhau.
Nếu anh nhậm lời, thì xin anh đánh dây thép cho em biết, em sẽ lên liền“.
Hải Đường nghe đọc dứt rồi, chàng dựa ngửa ghế phô tơi, tay run, miệng hỏi rằng: "Ai ký tên đó?“
Tuý Nga ngó chàng không nháy mắt, thủng thẳng đứng dậy mà đáp rằng: "Lê Túy Nga ở Mê Phốp, làng Trung Điền“.
Hải Đường thở một cái, rồi gượng ngồi dậy và đưa tay nói rằng: "Trao cái thơ ấy lại đây“.
Túy Nga đút thơ vô bao rồi đưa cho chàng. Hải Đường bỏ thơ vô túi, ngồi lặng thinh một hồi rất lâu, bộ chàng suy nghĩ lung lắm. Túy Nga đứng ngó không nháy mắt.
Thình lình Hải Đường biểu rằng: "Lại bàn viết lấy một miếng giấy trắng đặng tôi đọc cho mà viết“. Túy Nga vưng lời, đi lấy một miếng giấy đem lại đèn mà ngồi và nói rằng: "Thưa, có giấy rồi“.
Hải Đường đọc: "Lê Túy Nga, con gái ông Tổng Bình, làng Trung Điền, Vũng Liêm“.
Túy Nga run tay nên viết chậm lắm. Chừng viết xong rồi cô mới nói rằng: "Thưa, rồi“.
Hải Đường ngồi im lìm một hồi nữa rồi vùng nói: "Viết: Lên lập tức, tôi trông“.
Túy Nga cảm động, không thể dằn nữa được, nên buông cây viết chạy lại, một tay thì nắm tay Hải Đường, còn một tay thì vịn vai chàng mà khóc và nói rằng: "Cảm ơn anh. Em đã lên rồi đây“.
Hải Đường rùng mình, run hết cả tay chơn rồi thủng thẳng nói rằng: "Thiệt em đó hay sao? Té ra hồi hôm, qua nghi trúng lắm...Em đã thấy tình của qua hay chưa?“
Túy Nga đứng khóc rấm rức, không nói được một tiếng chi nữa hết. Hải Đường hớn hở, miệng chúm chím cười mà nói rằng: "Đôi ta đã hiệp nhau rồi, có việc chi phải buồn nữa đâu mà em khóc“.
Túy Nga bệu bạo đáp rằng:
- Vì em mà anh phải đau nhiều quá, không buồn sao được.
- Được gần em thì chắc qua mạnh. Bây giờ trong mình qua khỏe khoắn như thường.
- Em biết anh còn đau nhiều lắm.
- Dầu còn đau, hễ em nuôi qua thì qua mạnh chớ gì. Em ở nuôi dùm qua nghe hôn.
- Dạ, em ở, ở nuôi cho anh mạnh.

Hải Đường phỉ chí nên ngồi cười khan, còn Túy Nga càng thêm cảm động nên khóc lớn. Thím biện Yến bước qua, thấy hai trẻ nắm tay dang díu, kẻ khóc người cười, thím biết việc đã bể mà hai bên đều thỏa tình mãn ý, thì thím mừng nên cười ngỏn ngoẻn mà nói rằng: "Thương nhau như vậy mà trời khiến duyên nợ trắc trở làm chi cho kẻ rầu người bịnh không biết!“.
Nhờ ông Bác sĩ Trị cho thuốc tận tâm, mà cũng nhờ Túy Nga ở nuôi dưỡng an ủi, nên cách vài tuần lễ thì Hải Đường bình phục, trái tim mạch nhảy đều như thường, cặp mắt cũng đã sáng lại, duy còn đỏ chút đỉnh mà thôi.
Mỗi bữa, sớm mơi từ tảng sáng đến tám giờ, chiều từ bốn giờ rưởi tới chạng bạng, Túy Nga dắt Hải Đường lên núi rồi khi thì ngồi dựa gốc cây, khi thì nằm nghiêng trên hòn đá, mà nghinh phong hướng cảnh. Mặt trời mọc lên chói cánh đồng từ núi Sam dãy Thất Sơn, lúa đương chín nên vẽ một màu vàng khè, làm cho khách háo cảnh đa tình trông thấy, phải ngậm ngùi vì tình, khoan khoái với cảnh. Mặt trời chen lặng giục giã dế ngâm trong kẹt đá, chim hót trên ngọn cây, làm cho khách chí đại tâm thanh nghe qua, như ghẹo lòng son, như khiêu chí cả.
Có khi Túy Nga ngâm bài thi tự thán hồi trước lại cho Hải Đường nghe, rồi Hải Đường cũng ngâm bài thi của chàng họa mà đáp lại, ngâm rồi hai người ngó nhau rưng rưng nước mắt. Có khi Túy Nga ngồi đờn, Hải Đường nằm nghe; người đờn rỉ rả như bày tỏ cang trường, người nghe mẩn mê quên lửng công danh phú quí.
Gần gụi nhau chừng nào, tình càng thêm sâu, nghĩa càng thêm nặng, càng mê vì nết, càng mến vì lời, gái chẳng chút ngại ngùng, trai chẳng còn sè sụt. Tuy vậy mà hễ khi nào Hải Đường mở hơi muốn nói chuyện cưới hỏi, thì Túy Nga chận liền mà xin rằng: "Anh phải rán an tâm tịnh trí mà lo dưỡng bịnh cho mau mạnh, không nên lo tính việc gì khác. Nếu thiệt anh thương em, thì anh phải nghe lời em“. Mấy lời nói ấy vừa dang díu, vừa quả quyết, làm cho Hải Đường không cãi được, nên phải dằn lòng vưng chịu.
Một buổi sớm mơi, ông Bác sĩ Trị khám bịnh cho toa đến chín giờ rồi ông rảnh rang. Ông bèn sai người nhà mua rượu, thịt, bánh, trái, rồi ông bỏ lên xe hơi mà chạy vô núi, tính đem đồ vô ăn uống với bạn cho vui. Thím biện Yến với Hải Đường, Túy Nga tiếp rước ông rất vui vẻ.
Ông Bác sĩ coi mạch cho Hải Đường rồi ông nói rằng: "Bữa nay toa thiệt mạnh rồi, không còn một chút bịnh nào nữa hết. Thôi, để dọn đồ ăn uống chơi một bữa, rồi mỏa rước hết về nhà mỏa mà ở. Toa chơi chừng nào đã thèm rồi sẽ đi làm việc“.
Thím Biện với Túy Nga nghe Hải Đường thiệt hết bịnh thì mừng rỡ, nên nói nói cười cười coi dọn đồ lên bàn rồi chủ khách đồng ngồi chung quanh mà ăn uống.
Ông Bác sĩ Trị rót một ly rượu chát mà đưa cho Hải Đường và nói rằng: Mấy tháng nay toa bị cấm rượu, chắc toa thèm lắm. Bữa nay uống được. Vậy toa uống đi“.
Túy Nga ngồi ngang Hải Đường, cô đưa tay mà cản rằng: "Úy! Không nên. Xin ông Bác sĩ đừng cho uống. Xưa rày bỏ rượu đã quen rồi. Nếu cho uống rồi anh Bác vật bắt bén uống lại, sợ e bịnh con mắt phục phát. Thôi, bỏ luôn tốt hơn“.
Hải Đường thèm rượu lắm, song nghe Túy Nga nói như vậy, thì chàng ngó ly rượu rồi ngó Túy Nga và cười và nói rằng: "Cô Ba buồn, thôi tôi không uống“.
Ông Bác sĩ cũng cười và nói rằng: "Tôi mướn cô Ba Để nuôi ông Bác vật bịnh. Tôi không dè người bịnh vị bụng người nuôi quá, hèn chi bịnh mới mau hết“.
Túy Nga nghe lời pha lửng ấy, thì cô mắc cỡ, nên cúi mặt đáp rằng:
- Anh Bác vật lành mạnh là nhờ tài của y sư, chớ em có công cán chi đâu. Em chịu sự anh Bác vật hay vị bụng em, nhưng mà nếu ảnh không vị, thì làm sao hôm nay được vui như vầy.
- Cô đã công nhận rằng anh Hải Đường thường vị bụng cô, hễ cô muốn thế nào,
ảnh cũng làm theo hết thảy. Bây giờ tôi muốn coi cô có vị bụng ảnh hay không, như ảnh muốn một việc gì cô có vui lòng làm theo hay không?
- Thưa, việc em muốn có ý nghĩa khác, còn việc anh Bác vật muốn sợ có ý nghĩa khác, vì vậy nên em e khó chìu ý ảnh được.
Hải Đường nghe mấy lời ấy thì chàng ngó Túy Nga một cách rất buồn.
Ông Bác sĩ Trị cũng lấy làm lạ, ông bèn nghiêm sắc mặt mà hỏi Túy Nga rằng:
- Cô nói cái gì vậy cô Ba? Hôm cô lên đây, cô có nói với tôi rằng bạn tôi mang bịnh, lỗi tại nơi cô, nên cô quyết hy sinh cả danh giá và tánh mạng đặng lo phương cứu bạn tôi. Bình sanh bạn tôi muốn có một điều, là kết tóc trăm năm với cô. Nay bạn tôi lành mạnh rồi, ví bạn tôi tỏ ý muốn việc đó, cô cũng không chịu hay sao?
- Thưa, muốn cái đó khó cho em lắm.
- Cô đã quyết hy sinh cả danh giá và tánh mạng với ảnh, sá chi một chút đó mà cô dụ dự.
- Thưa ông, em có tội làm cho anh Bác vật rầu buồn mà sanh bịnh. Em phải hy sinh danh giá và tánh mạng mà cứu ảnh đặng em chuộc tội của em. Em hứa sẽ làm tôi mọi mà nuôi dưỡng cho tới ảnh lành mạnh. Nay ảnh lành mạng rồi thì thôi, chớ em có hứa kết tóc trăm năm với ảnh đâu.
Hải Đường buông đũa đứng dậy ngó ngay Túy Nga mà nói xẳng xớm rằng:
- Rõ ràng cô làm bộ thương, chớ cô không thương tôi chút nào hết. Tại sao mà cô cứ gạt gẫm tôi hoài vậy cô Ba?
- Xin anh cũng đừng nóng giận. Anh ngồi lại rồi em sẽ nói rõ cho anh nghe.
- Có chuyện gì nữa đâu mà nói. Bình sanh tôi chỉ ao ước có một điều mà thôi:
Là kết nghĩa vợ chồng với cô. Hồi nhỏ vì cô giàu sang còn tôi hèn hạ nên không thể phối hiệp được, tôi thất tình mới bỏ qua Pháp mà học. Khi trở về xứ, tôi hay cô bị chồng để, tôi liền xin cưới cô. Cô phụ rẫy tình tôi, làm cho tôi phải bịnh hoạn thiếu chút nữa tuyệt mạng. May nhờ có bạn tôi cho thuốc, lại cũng nhờ có cô nuôi dưỡng giải sầu, nên tôi lành mạnh. Nay sẵn dịp có bà già tôi và có bạn thiết của tôi đây, tôi tỏ lời xin cưới cô nữa. Cô bằng lòng hay là không bằng lòng xin cho tôi biết liền. Cô nói phứt một tiếng mà thôi, chẳng cần phải nói dài.
Túy Nga cúi đầu, rưng rưng nước mắt mà đáp nhỏ nhỏ rằng: "Nếu em liệu làm vợ anh được, thì năm trước anh nói em đã ưng rồi, có đâu phải sầu não đến nỗi sanh bịnh hoạn“.
Hải Đường đỏ mặt, trợn mắt, hỏi nặng lời rằng:
- Té ra bây giờ cô cũng không ưng nữa sao?
- Em đã nói em không thể làm vợ anh được.
- Tại sao vậy?
- Anh không biết hay sao?
- Cô nói cho tôi nghe thử coi. Cô phải nói đi.
- Thân em như đóa hoa tàn, còn phận anh như cái lục bình quí. Hoa tàn mà cặm trên cái lục bình quí thì uổng lục bình, mà cũng thẹn cho hoa quá.

Tại vậy mà em không vưng lời anh được, chớ nào phải em làm khó cho anh đâu. Anh thương em, xin anh trọng dùm em, đừng làm cho em hỗ với cái tiết của em với phải.
Hải Đường nghe dứt lời, thì chàng té ngồi trên ghế nước mắt chảy ròng ròng. Thím biện Yến với Bác sĩ Trị nhìn nhau trong lòng lạnh ngắt. Thím biện Yến thấy con bi lụy, thím chịu không được, nên thím nói rằng: "Tại nó lòng lòng quyết một, nếu cô Ba ái ngại hoài thì sợ nó buồn rầu rồi sanh bịnh lại chớ“.
Bác sĩ Trị cũng tiếp mà nói rằng: "Cô Ba nói nghe phải lắm. Nhưng mà người vương lấy bịnh tình, thì còn kể gì là cao thấp nữa đâu. Vậy tôi khuyên cô Ba nếu cô thương bạn tôi, thì cô ưng phứt đi, đừng kể nỗi đục trong gì hết. Cô đã dám hy sinh danh giá với tánh mạng, sá chi một chút đó mà cô dụ dự“.
Túy Nga đau đớn trong lòng quá, nên cô ấm ức nói rằng: "Liệt nữ vô nhị giá. Nếu em ưng làm vợ anh Bác vật, thì em hổ thẹn với cái tiết của em hoài, rồi sợ em cũng không làm vui cho ảnh được. Em cũng thương anh Bác vật vậy chớ; nếu không thương, thì làm sao mà em lên ở đây. Ngặt vì tiết giá của em đã đục rồi, nếu kiếp nầy phối hiệp cùng nhau, thì tình vợ chồng không được thanh bạch. Em nguyện để kiếp sau em sẽ làm vợ ảnh, đặng cho tình vợ chồng được cao, được sạch. Bây giờ chẳng thiếu chi gái xứng đáng cho ảnh cưới làm vợ: Ông Phan Thế Bửu, dưới Mỹ Tho, có một người em gái giàu có, ảnh cưới thì có sẵn gia tài cho ảnh hưởng trọn đời. Như ảnh sợ người nhiều tiền hay có tánh thô tục, ảnh chê chỗ đó, thì em xin ảnh cưới cô Trường Thoại, là con của ông giáo Lạc ở dưới Vũng Liêm, cô ấy tuy nghèo song có tánh cao thượng, làm vợ ảnh thì xứng đáng lắm. Còn phận em thì em xin kết nghĩa anh em với ảnh thôi, để kiếp sau rồi sẽ làm vợ chồng“.
Hải Đường vùng đứng dậy nói lớn rằng: "Bình sanh vô nhị sắc. Tôi không thèm ai hết. Nếu cô không ưng tôi thì tôi sẽ chịu cô thân trọn đời“.
Túy Nga và khóc và nói: " Sá chi một đóa hoa tàn!“
Cô than tới đó thì có một cái xe ngựa ngừng ngoài cửa. Thím biện Yến ngó ra rồi nói lớn rằng: "Ồ, có ông Tổng với bà Tổng lên kia!“
Thiệt quả hai vợ chồng ông Bình xuống xe rồi đi thẳng vô nhà. Bốn người trong nhà đều đứng dậy chào mừng.
Ông Bình hỏi ông Bác vật rằng:
- Cháu thiệt mạnh hay chưa? Hơn một tuần nay bác không được thơ của con Túy Nga, bác không biết bịnh cháu có giảm hay không, nên chạy lên đây thăm thử coi.
- Thưa, cháu đã mạnh rồi. Ông Bác sĩ Trị đây là anh em bạn thiết của cháu, mới xem mạch nói bịnh cháu bữa nay thiệt dứt.
Ông Bình với Bác sĩ chào nhau. Ông Bình day lại thấy đồ ăn đầy bàn thì ông nói rằng: "Ồ, mấy bà con ăn đi, ăn cho rồi bữa chớ. Vợ chồng tôi lên tới Châu Đốc vô tiệm ăn cơm rồi mới mướn xe vô đây. Mấy bà con ăn đi“.
Vì việc Hải Đường với Túy Nga cãi lẽ nãy giờ làm cho tiệc vui mà không vui, nên không ai muốn ăn nữa. Thím Biện với Túy Nga dẹp đồ ăn, còn Hải Đường với Bác sĩ Trị thì đi rửa tay uống nước.
Ông Bác sĩ Trị nói với ông Bình rằng:
- Hai bác lên đây thiệt là may lắm. Mới xảy ra một việc khó liệu hết sức. Phải có hai bác thì phân giải mới được.
- Việc gì đó?
- Bạn tôi là Hải Đường mạnh rồi. Bữa nay tôi mua đồ đem vô đây ăn mừng.
Nhơn dịp nầy bạn tôi tỏ lời xin cưới cô Ba. Cô Ba không nhậm lời, làm cho bạn tôi thất vọng nữa.
- Tại sao vậy?
- Tôi xin nói tắc như vầy cho hai bác hiểu: "Cô Ba không ưng, cô viện lẽ "Liệt nữ vô nhị giá“. Cô nói cô thương anh Bác vật lắm, ngặt vì cô đã có một đời chồng rồi, nếu cô làm vợ anh Bác vật thì cô hổ với tiết của cô. Cô chỉ chỗ nầy chỗ nọ, cô xin anh Bác vật cưới thế cho cô, để kiếp sau rồi cô sẽ làm vợ ảnh, cho tình vợ chồng được trong sạch. Anh Bác vật nói: "Bình sanh vô nhị sắc“, ảnh không thèm ai hết. Nếu cô Ba không ưng ảnh thì ảnh nguyện sẽ chịu cô thân suốt đời. Thím tôi đây với tôi không biết xử sao được. Vậy xin hai bác phân xử dùm.

Ông Bình ngồi suy nghĩ một chút rồi nói rằng: "Hai trẻ đều có tình nặng với nhau. Mà bên gái trọng tiết hơn tình, ấy là phải lắm. Còn bên trai thì trọng tình hơn tiết, ấy cũng không quấy. Tuy vậy mà thầy khuyên con Túy Nga đừng cố chấp thái quá như vậy. Đã biết làm thân nhi nữ phải trọng tiết trinh, nhưng mà cái tiết của đàn bà là cái phẩm hạnh vô hình, chớ không phải thứ vật chất như con thấy đó. Nếu con có chồng, mà con còn lưu ý với người khác dầu con không ăn nằm với người tình của con đó đi nữa, con cũng mang tội thất tiết với chồng. Nay con có chồng, mà chồng con đã để (48) con rồi, đạo cang thường đã dứt, bây giờ con lấy chồng khác, thì đối với chồng sau con có thất tiết chỗ nào đâu. Mà dầu con cho có một đời chồng ấy là thất tiết, thì sự thất tiết của con đó lỗi tại nơi thầy, bởi vậy từ ngày thầy hay Bác vật vì nặng tình với con mà mang bịnh thì thầy ăn năn hết sức. Vậy thầy khuyên con đừng ái ngại nữa mà buồn cho ông Bác vật và cũng buồn cho thầy“.
Bà Bình tiếp nói rằng: "Hồi ông Bác vật mới thi đậu Tú tài thì ý tôi đã muốn gã nó cho ổng. Tại căn duyên của nó phải trắc trở, nên trời khiến phải tan rồi mới hiệp được. Thôi thì phải chịu như vậy, chớ cãi trời sao được“.
Hải Đường thấy vợ chồng ông Bình đều xuôi thuận thì mừng, nên nói với Tuý Nga rằng:
- Cô Ba, cô nghe ông bà nói đó hôn? Dầu cô không vị tình tôi, thì cô cũng phải vị tình của ông bà một chút. Xin cô đừng ái ngại nữa. Cô nỡ cố chấp tiểu tiết, mà để cho hỏng cái đời của tôi hay sao?
- Dầu thế nào em cũng chẳng quên thân em là đóa hoa tàn.
- Hoa tàn mà tôi coi quý hơn hoa mới nở.
Túy Nga ngước lên thấy Hải Đường ngó mình rất hữu tình, thì cô động lòng, không còn lời mà cãi nữa được, nên cô thở dài mà than rằng: "Tạo hóa sanh loài người, lại bày cho cái ái tình làm chi, mà phải nặng bề như vậy!“
Hải Đường hiểu ý cô đã thuận rồi, nên chàng bước lại nắm tay cô và cười và nói rằng: "Cảm ơn cô Ba tưới nước cái cây khô nầy được tươi lại. Tôi nguyện tôi cũng sẽ săn sóc cho đóa hoa tàn tươi lại một lần nữa“.
Ai nấy thẩy đều vui mừng. Ông Bác sĩ Trị rước hết ra Châu Đốc ở chơi, tới bữa sau vợ chồng ông Bình với Túy Nga dắt trở về Mê Phốp.
Hải Đường vô làm việc lại, xin đổi về Sài Gòn rồi chọn ngày lễ cưới Túy Nga.

Vĩnh Hội 1936

40 bưu điện
41 sâu xa
42 chán chở hay chắn chở
43 (moi), tôi
44 (toi), anh
45 (fauteuil), ghế dựa bọc nệm
46 (tennis), quần vợt
47 bàn đạp,cơ sở
48 bỏ, ly dị

HẾT

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Đóa Hoa Tàn

Chương 1

Hồi phát đạt

Nhằm tiết tháng sáu. Một buổi chiều, bầu trời sơn màu xanh lét, ngọn gió động lá phất phơ, gây ra cái không khí mát mẻ phi thường, làm cho cây cỏ tốt tươi, mà cũng làm cho con người khỏe khoắn.
Trên khúc lộ Vĩnh Long xuống Trà Vinh ngang qua xóm Mê Phốp, là xóm nhà cửa đông đặc, cách chợ Vũng Liêm chừng ba ngàn thước, người đi đường qua lại dập dìu, lại người trong xóm cũng chòm nhom trên lề, kẻ đứng người ngồi mà hứng mát, nên cảnh xem có vẻ náo nhiệt, mà mặt người nào coi cũng có sắc hân hoan.
Cái không khí mát mẻ khỏe khoắn ấy nó làm cho người ta đã vui vẻ mà lại hăng hái về nẻo lợi đường danh, bởi vậy trong nhà thầy Cai tổng Lê Thái Bình, ở dựa lộ, nhằm chánh giữa xóm Mê Phốp, có tiếng nói om sòm xen lộn với tiếng cười inh ỏi.
Nhà nầy cất đã trên mười lăm năm rồi, ngói bị rong rêu đóng nên trỗ màu đen, vườn bị nắng mưa táp hóa ra màu xám; nhưng mà nền đúc thật cao, cửa cuốn bán nguyệt, bên tay mặt có cất một cái lẫm (1) lúa rộng lớn, bên tay trái có cất một cái nhà để xe ngựa, phía sau có cất nhà bếp sạch sẽ, phía trước có dọn một cái sân, trồng sắp kiểng mấy hàng, ngoài trồng bông đủ thứ, giữa sân lại có trồng một cây huỳnh mai gốc lớn nhánh nhiều, hễ qua tiết xuân nó đơm bông vàng khè, chung quanh cuộc đất (2) lại có trồng dừa bao vòng, làm cho thêm vẻ trù mật, bởi vậy ai đi ngang ngoài lộ dòm thấy cũng biết đó là chỗ ở của một người giàu có.
Thầy Cai tổng Lê Thái Bình mới bốn mươi tám tuổi vóc trung trung, tướng thanh nhã; hồi nhỏ thầy cứ học chữ nho, lớn rồi thầy mới học chữ quốc ngữ, còn chữ Pháp thiệt là thầy không biết. Thầy ngồi tại bộ ghế cẩm lai (3) để giữa nhà, thầy cười ngất mà nói lớn rằng: "Hả, hả, con người ta hễ có thời, thì trời khiến gặp cái may như vậy đó. Hôm trước chú Phùng dưới chợ Vũng Liêm chú lên hỏi mà mua lúa của tôi. Chú trả bốn đồng tám cắc một tạ (4). Tôi nài năm đồng bạc. Chú nói lỗ chú không dám mua. Bữa nay lúa lên giá tới năm đồng rưởi, coi sướng hôn? Phải mà hôm trước tôi bán thì tôi mất tiền nhiều quá".
Hương sư Diệu đi theo xã trưởng Phú đến hầu thầy Cai tổng đặng xin phép xuất công kho tu bổ nhà việc (5) làng, ông ngồi cái ghế trường kỷ để đàng chái, ông nghe thầy Cai tổng nói như vậy, thì ông khen rằng:
- Bẩm thầy, sao thầy biết lúa lên giá, thầy trằn (6) lại, thiệt thầy giỏi quá. Hôm lúa lên bốn đồng tám, nhiều người lật đật bán hết, không dám chờ nữa.
- Không phải giỏi. Làm chủ điền, mình phải biết nhắm thời thế chớ.
- Bẩm thầy, không biết lúa của thầy còn được bao nhiêu?
- Còn nhiều mà. Hôm tháng tư tôi bán đỡ vài ngàn giạ mà đóng thuế, còn bao nhiêu tôi vựa hết lại đó, chưa có bán.
- Nếu vậy thì gặp giá nầy thầy có lợi nhiều lắm.
Bà Cai tổng, tên là Lý Thị Ngọc, trạc chừng bốn mươi lăm tuổi, tánh nết ôn hòa, sắc mặt hiền hậu, bà đương ngồi ăn trầu nơi bộ ván phía bên kia, bà xen vô mà nói rằng: "hôm tháng tư thầy nó lật đật bán hai ngàn giạ lúa, giá có bốn đồng bạc, thiệt uổng quá. Theo giá bây giờ, mất lợi gần một ngàn đồng bạc ".
Thầy Cai tổng cười ngất mà đáp rằng:
- Bà nó tiếc làm chi. Mình làm lớn, mình phải làm gương cho dân sự trong tổng
bắt chước chớ. Mình lỗ một hai ngàn đồng mình cũng phải bóp bụng mà chịu, chớ mình trằn lại, mình không đóng, điền chủ khác họ phân bì họ không đóng, rồi cái làng có thuế đâu mà đăng kho.
- Từ ngày thầy nó ra làm quan tới giờ, tôi coi việc nào cũng bị thiệt hại hết thảy.
Chớ chi thầy nó đừng có làm tổng thì bây giờ làm giàu biết bao nhiêu.
- Nói như bà nó vậy sao được. Ở đời phải có chút công danh với người ta chớ.
Giàu mà đi đến đâu thiên hạ họ khinh khi, thì giàu làm gì.
- Tôi tưởng ở đời hễ vô sự thì vô lự, tranh đua lắm càng mệt trí, chớ không ích gì.
- Ở thế gian, ai cũng vậy, không ham danh thì cũng ham lợi; nếu không ham thứ nào hết, thôi thì đi tu cho rồi, chớ ở thế gian sao được.
- Danh lợi ai mà không ham, tiếc vì cầu danh mà phải tốn hao nhiều quá, tôi
mới nói chớ.
- Muốn có danh với người ta thì phải tốn hao chút đỉnh chớ sao.
- Danh cũng có nhiều thứ. Có thứ danh khỏi phải tốn hao gì hết.
- Danh gì vậy? Phải danh hà tiện hay không?
- Mình lấy nhơn nghĩa mình đối đãi vơi mọi người, tự nhiên thiên hạ họ kính trọng mình, cần gì phải cầu cái danh nào khác.
- Nhơn nghĩa thì tự nhiên mình phải làm chớ sao. Mà mình làm nhơn nghĩa thì
bất quá người ta khen mình là người tử tế, chớ có ai kính phục. Làm người phải có phẩm cao tước lớn mới có danh chớ.
- Tại thầy nó hiểu cái danh như vậy đó nên thuở nay mới tốn hao không biết
mấy muôn mà kể! Thiên hạ họ bẩm dạ mà có ích gì? Họ làm bộ trước mặt, rồi sau lưng họ khinh khi mình có hay đâu. Theo ý tôi cái danh người biết nhơn nghĩa đó là quí rồi, Đòi danh cao chức lớn hao tốn quá chẳng ích gì.
Hương sư Diêu thấy vợ chồng thầy Cai tổng không đồng ý kiến, sợ để hai ông bà cãi lẽ dài rồi sanh mích lòng, nên ông xen vô mà hỏi rằng:
- Bẩm thầy, bữa nay lúa lên giá như vậy đó, không biết thầy nhứt định bán hay chưa?
- Để rồi tính lại coi. Nếu bán, sợ trong vài bữa giá lên cao hơn nữa, thì tức.
- Bẩm, giá năm đồng rưởi cũng là cao quá rồi.
Thầy Cai tổng ngồi suy nghĩ một hồi rồi day qua hỏi vợ rằng:
- Bà nó muốn bán hay chưa? Như muốn bán thì biểu bày trẻ đạp xe máy xuống chành (7) Vũng Liêm kêu nó lên mà tính giá cả.
- Thầy nó nhứt định lấy chớ?
- Bà nó tính coi lúa mình còn được hết thảy là bao nhiêu hay không?
- Con Ba nó có biên sổ, để hỏi nó coi, chớ tôi có nhớ đâu. Ba à, con ra đây cho thầy con hỏi một chút, con.
Nghe có tiếng dạ rất dịu dàng ở phía trong, rồi một người mỹ nữ, chừng mười tám mười chín tuổi, thủng thẳng bước ra, mình mặc một bộ đồ lụa trắng, chơn mang một đôi dép da đen, môi đỏ như thoa son, da trắng như dồi phấn, mặt sáng rỡ như hoa nở, tóc láng mướt như huyền giồi (8). Ấy là cô Túy Nga, con gái của thầy Cai tổng Bình.
Cô Túy Nga chúm chím cười, miệng lại càng có duyên, mặt lại càng tốt tươi thêm nữa. Cô thấy có khách nên cúi đầu mà chào, rồi hỏi bà Cai tổng rằng: "thưa, má kêu con có chuyện chi?"
Bà Cai tổng đáp rằng: "Thầy con hỏi lúa trong lẫm bây giờ còn hết thảy là bao nhiêu. Con biết hay không?"
Cô Túy Nga đương tươi cười, mà nghe hỏi như vậy, thì cô liền nghiêm sắc mặt, coi ra cô có vẻ tề chỉnh hòa hưỡn (9) vô cùng. Cô thủng thẳng đáp rằng:
- Con nhớ còn mười bốn ngàn mấy trăm giạ, số lẽ con không nhớ. Sổ lúa con
đưa cho anh Hai con cất. Để con vô hỏi anh Hai con coi.
- Anh Hai con làm giống gì ở trỏng?
- Anh Hai con nằm trên võng giỡn chơi với cháu Càng, chớ có làm chi đâu.
- Con biểu nó đưa sổ lúa coi.
Cô Túy Nga trở vô buồng, tướng đi coi rất dịu dàng thanh nhã.
Hương sư Diêu hỏi thầy Cai tổng rằng:
- Bẩm thầy, cô Ba thi đậu bằng cấp rồi, thầy không tính cho cô học thêm nữa sao?
- Thôi, con gái học cho biết lễ nghĩa ở đời vậy thôi. Nó cũng lớn rồi, nên mẹ nó không cho nó học nữa.
- Bẩm thầy có tính làm sui chỗ nào chưa?
- Có ông bá hộ Thiện trên Vĩnh Long gấm ghé xưa rày, ông nói chuyện muốn làm sui với tôi hai ba lần rồi, mà tôi nghe cậu nhỏ đó xài tiền dữ lắm, nên tôi còn dục dặc. Để thủng thẳng coi, không gấp gì.
- Bẩm, thầy làm sui với ông bá hộ trên châu thành (10) thì xứng lắm.
- Ai cũng nói như vậy hết, mà bà nó ý không muốn.
Một người trai trạc chừng hai mươi lăm tuổi, ở trong buồng bước ra, sau lưng có cô Túy Nga đi theo, cô bồng đứa cháu trai mới hai tuổi. Người trai ấy tên là Lê Thái Hòa, con trưởng nam của thầy Cai tổng, có vợ rồi và có một đứa con trai mới biết đi lững chững đặt tên là Càng.
Cô Túy Nga bồng cháu Càng lại ngồi trên bộ ván với bà Cai tổng, còn cậu Thái Hòa thì thẳng lại bàn viết, lấy một cuốn sổ giở ra coi rồi nói rằng: "Thưa, lúa mình thâu góp cộng chung hết thảy là mười sáu ngàn bốn trăm năm mươi ba giạ. Hôm tháng tư bán hết hai ngàn giạ, thì còn lại trong lẫm mười bốn ngàn bốn trăm năm mươi ba giạ".
Hương sư Diêu nói rằng: "Lúa của thầy còn nhiều quá. Theo giá nầy bán có hai mươi mấy ngàn đồng bạc".
Thầy Cai tổng cười và đáp rằng: "Nhờ bà nó mua lúa chịu, nên góp mới tới số đó, chớ lúa ruộng đâu có nhiều dữ vậy. Mà còn có mười bốn ngàn giạ, có phải là nhiều đâu. Bề nào cũng phải để nhịn lại vài ngàn giạ cho tá điền ăn. Còn trong số bán thì cũng có việc xài, chớ để dành sao được..."
Thầy nói tới đó, kế dòm ra ngoài cửa ngõ thấy có người biện của thầy, là Nguyễn Hải Yến, đương xâm xâm đi vô với người con trai, là Nguyễn Hải Đường, hai mươi mốt tuổi, học trên Sài Gòn, mới thi đậu bằng Tú tài khoa này. Thầy Cai tổng bèn cười mà nói rằng: "Chú biện Yến đi rước con chú về kia. Con chú thi đậu tú tài kỳ nhì, chú mừng quá, nên lên Vĩnh Long đón rước, không đợi nó về. Con nhà nghèo mà nó học thành danh như vậy thiệt là đáng khen lắm chớ".
Cả nhà ai nấy đều ngó ra sân. Cô Túy Nga ngồi trên ván, tay vịn cháu, mà cô cũng ngóng dòm.
Cha con biện Yến bước vô cửa và cúi đầu chào vợ chồng thầy Cai tổng. Thầy Cai tổng vụt nói: "Thầy mừng cho cháu... Giỏi đa".
Biện Yến chận mà nói lớn rằng: "Bẩm thầy, thầy được thăng chức rồi. Có giấy của quan trên lại tới hồi sớm mơi".
Thầy Cai tổng chưng hửng, nửa mừng nửa nghi, thầy đứng dậy ngó sửng biện Yến mà hỏi rằng:
- Sao chú biết, ai nói với chú?
- Bẩm, hồi sớm mới lên tới Vĩnh Long tôi đi thẳng vô toà bố. Tôi gặp thầy năm thầy cho tôi hay. Thầy nói giấy mới lại tới hồi chiều hôm qua. Sớm mơi nầy quan lớn dạy gởi giấy xuống cho quan Chủ quận. Có lẽ sáng mai mình được trát.
- Thiệt như vậy sao?
- Bẩm thiệt. Tôi nghe thầy năm nói tôi mừng quýnh. Tôi ra bến xe đón thằng nhỏ tôi rồi tôi đi riết về đây cho thầy hay, tôi chưa kịp về nhà.
- Kỳ hầu lệ tháng trước quan lớn hứa xin thăng chức cho tôi. Tôi tưởng ngài nói thôi, té ra có thật chớ.
Hương sư Diêu với xã trưởng Phú bước lại chúc mừng thầy. Hương sư Diêu nói: "Thầy lãnh chức Cai tổng mấy năm nay thiệt cực nhọc hết sức. Quan trên thăng thưởng thì xứng đáng không biết chừng nào. Hai bà con tôi nghe tin thiệt là mừng quá, mà hương chức mấy làng họ hay đây chắc ai cũng vui mừng hết thảy".
Ông Cai tổng mới chúm chím cười và nói rằng: "Tôi làm tổng mới có chín năm, mà năm ngoái lên hạng nhứt, hôm Tết được mề đay (11), rồi bây giờ được thăng chức nữa. Được như vậy thiệt tôi cũng vui lòng, bởi vì có nhiều ông Tổng khác, người thì hai mươi tám năm công nghiệp, người thì hai mươi lăm năm, mà họ Tổng cũng còn Tổng hoài, coi buồn quá. Ở đời ai có số mạng nấy, nên tôi đi mới mau như vậy".
Biện Yến đi lại bàn đứng rót nước trà mà uống, còn Tú tài Hải Đường thì lại gần bàn viết ngồi nói chuyện với cậu hai Thái Hòa.
Biện Yến vừa bưng chén nước và nói rằng:
- Bẩm, thầy làm trong ít năm nữa đây rồi sẽ được ban khen nữa.
- Thôi, có chút đỉnh với người ta thì đủ rồi, trông mong cao quá làm chi.
- Bẩm, được chớ. Có nhiều ông Cai tổng lên tới chức cao lận chớ.
- Chú khéo bày chuyện cho bà nó thêm ghét. Tôi làm Cai tổng mà bà nó còn cằn nhằn hoài. Tôi thăng chức đây chắc là không vui rồi.
Bà Bình mới ngồi ăn trầu xỉa thuốc, bà nghe chồng nói tới bà thì bà cười mà đáp rằng:
- Nói chuyện lợi hại mà nghe, chớ cằn nhằn giống gì. Còn ông nó được lên chức, sao tôi lại không vui. Tôi than thở, là vì tôi lo hễ cao sang chừng nào càng tốn hao chừng nấy. Tôi lo là lo chỗ đó chớ.
- Ở đời nếu mình muốn có chút danh vọng với người ta, thì tự nhiên phải tốn hao chút đỉnh chớ sao.
- Sợ tốn nhiều, chớ chút đỉnh mà nói làm chi.
- Bà nó đừng có lo mà.
- Không lo sao được. Có khách mà đem chuyện nhà ra nói, thì coi cũng kỳ.
Song ông Hương sư với chú biện đây cũng như bà con trong nhà, để tôi nói hết cho mà nghe. Hồi trước ông nó ra tranh chức Cai tổng, tôi can gián hết sức không được. Ông nó tranh được chức Cai tổng rồi phải đền ơn đầu nầy, phải đáp nghĩa đầu kia, phải làm tiệc ăn mừng, phải đãi đằng hương chức, tôi tính ra tốn hao hết thảy trên ba chục ngàn đồng bạc, chớ phải ít ỏi gì sao. Nợ tới bây giờ mà trả cũng chưa dứt. Nếu hồi trước đừng thèm tranh chức Cai tổng thì mấy năm nay khỏe biết chừng nào. Bây giờ còn bày lên chức, đố khỏi mắc nợ lại nữa cho mà coi.
- Bà nó đừng có lo. Lúa có giá mà sợ nỗi gì. Nếu muốn cho người ta kêu bằng
"ông", thì phải vậy chớ sao.
- "Ông" rồi chém giết gì ai hay sao mà ham. Tôi tưởng ở đời mình có đủ tiền xài, khỏi mắc nợ mắc nần, khỏi cực lòng cực trí, thấy việc quấy mình tránh, gặp việc phải mình làm, được như vậy thì sung sướng hơn ông gì hết thảy.
Hương sư Diêu cười mà nói rằng: "Bẩm bà, bà không chịu se sua nên bà nói như vậy, chớ thiên hạ ai cũng muốn chức phận hết, dầu tốn mấy muôn họ cũng chịu, mà họ muốn không được, chớ phải chơi sao. Thầy được như vầy thì là có phước hết sức, dầu tốn hao chút đỉnh có hại gì".
Ông Lê Thái Bình nói rằng: "Tốn thì tốn chớ sợ gì. Để tôi xuống cám ơn quan Chủ quận và cậy ngài dắt lên cám ơn quan lớn Chánh. Sẵn dịp đi Vũng Liêm tôi hỏi dọ giá lúa luôn thể".
Biện Yến chen vô nói rằng: "Thế nào thầy cũng phải làm một tiệc cho long trọng coi mới được".
Ông Bình gật đầu đáp rằng:
- Chớ sao. Tự nhiên mình phải làm tiệc long trọng cho xứng đáng mới được chớ. Phải mời các quan Tây quan Nam trong tỉnh cho đủ, mời hết các Cai, Phó Tổng, Ban biện, Hội Đồng, Thông ngôn, Ký lục, thầy giáo, Điền chủ.
- Bẩm, có lẽ cũng phải mời Hương chức các làng phần tổng mình nữa chớ.
- Ừ, phải mời đủ các làng chớ. Tiệc đãi sợ tới ba bốn trăm người. Có lẽ phải chia mà đãi hai ba ngày mới tiện.
Cậu hai Thái Hòa hỏi:
- Bẩm thầy, thầy tính đãi tiệc mà đặt cho khách trú (12) nấu, hay để ở nhà làm?
- Úy! Tiệc lớn mà ở nhà nấu sao đựơc. Mà đặt cho khách trú nấu cũng không ra gì. Hễ làm thì phải làm cho hẳn hòi, chớ làm quẹt lọ sao được. Hồi ông Kim ăn tiệc mừng ổng đặt cho nhà hàng trên Sài Gòn nấu đồ Tây mà đãi. Mình cũng phải làm như vậy, nếu không hơn thì cũng phải làm cho bằng ổng, chớ lẽ nào mình lại thua ổng.
- Đặt cho nhà hàng Sài Gòn nấu sợ tốn hao nhiều lắm.
- Nghe nói mỗi người ăn, giá chừng mười lăm đồng bạc, có rẻ lắm cũng phải
mười hai đồng bạc.
- Cha chả! Nếu vậy thì đãi bốn trăm người, phải tốn tới năm sáu ngàn đồng bạc!
- Chớ sao, con! Tốn thì tốn, mình phải làm cho đúng coi mới được chớ. Bà nói rằng: "Nếu đãi đồ Tây giá mắc như vậy, thôi thì mình chia ra đãi hai cách. Khách thường như hương chức với Điền chủ nhỏ nhỏ thì mình đãi đồ Nam, hoặc đồ Quảng Đông, còn khách quí thì mình đãi đồ Tây, được hôn?"
Ông Bình trề môi lắc đầu đáp rằng: "Ông Kim ổng làm như vậy đó, coi không được. Làm như vậy thành ra kẻ khinh người trọng. Phải đãi đồ Tây hết thảy, tốn bao nhiêu thì tốn chớ. Làm cho đúng lấy tiếng chơi. Chừng đó tôi sẽ đặt cho thợ trên Vĩnh Long làm năm trăm đồng bạc pháo bông đặng đốt cho thiên hạ xem; có lẽ tôi biểu rước hát Tiều hoặc hát bộ nó hát ít đêm cho dân sự coi chơi nữa".
Bà ngồi buồn hiu. Ông Bình tiếp rằng: "Đây rồi còn phải mua một cái xe hơi, chớ còn đi xe đò nữa thì coi sao được. Có lẽ qua sang năm cũng phải cất nhà lại nữa chớ".
Bà cũng ngồi lặng thinh hoài.
Biện Yến nói rằng: "Tôi mừng quá nên lật đật ghé báo tin cho ông hay, tôi chưa về nhà. Xin phép ông bà đặng dắt thằng nhỏ tôi về cho mẹ nó mừng".
Ông Bình gật đầu nói: "Ừ, thôi về đi kẻo thím biện thím trông. Còn Tú tài, thầy khen cháu lung lắm đa. Thôi, ở nhà nghỉ ít ngày rồi kiếm việc mà làm đặng giúp đỡ cho cha mẹ. Cháu ở nhà có buồn thì lại đàng nầy nói chuyện chơi".
Hải Đường dạ rồi cúi đầu từ giã mỗi người. Khi chàng lại mà từ giã bà Bình thì bà ngó chàng trân trân. Cô Túy Nga ngồi một bên bà, cô cũng ngó mà miệng lại cười chúm chím.
Chừng cha con biện Yến ra khỏi cửa, bà nói rằng: "Vợ chồng chú biện Yến nghèo mà có một đứa con đáng quá. Tướng Tú tài đó có thế nào mà hư được. Vậy đó là có phước".
Hương sư Diêu với xã trưởng Phú cũng từ giã mà về. Hai người vừa ra tới sân thì thấy có một cái xe hơi ngừng ngoài lộ. Ông Bình ngó ra và nói rằng: "Xe của quan chủ Quận. Có bà đi với ông nữa. Chắc ngài được giấy rồi, nên hai ông bà lên mừng mình chớ gì".
Thiệt quả quan chủ Quận với bà xuống xe rồi dắt nhau vô cửa ngõ. vợ chồng ông Bình không dám sái lễ tôn ti, nên ra sân mà tiếp rước. Quan chủ Quận vừa thấy ông Bình thì ngài nói rằng: "Mừng ông! Tôi mới tiếp được giấy của quan lớn Chánh cho hay ông được thăng chức, nên lật đật chạy lên mừng cho ông".
Ông Bình vừa cười vừa nói: "Cảm ơn ông, biện của tôi đi Vĩnh Long, nó nghe nói, nó mới ghé cho tôi hay đây. Tôi tính để tối sẽ xuống tạ ơn ông, tôi chưa đi, mà ông lên trước, thiệt tôi lỗi quá".
Bà Bình tiếp mời bà Quận vô nhà.
Quan chủ Quận vịn vai ông Bình mà bước lên thềm, vừa cười và nói rằng: "Tôi làm gắt lắm, nên mới được đó. Ông khoái chí chưa?"
Ông Bình cười và đáp rằng: "Cảm ơn ngài lung quá".
Chú biện Nguyễn Hải Yến ở một cái nhà lá nhỏ hai căn xông (13), cột dầu, vách ván, dựa đầu cầu Mê Phốp, nhà tuy chón hón (14), song trong ngoài dọn dẹp đều vén khéo sạch sẽ. Trước cửa có đắp một cái sàn (15) cũng nhỏ, mà có trồng ớt, cà, rau sống đủ thứ, lại đường vô nhà có trồng cây tây hai hàng, cây đơm lá đủ màu nên coi rất đẹp mắt.
Trời chạng vạng tối. Tú tài Hải Đường bưng một cây đèn tạ đăng đem để trên bàn rồi lấy một cuốn sách lại ngồi gần đèn mà coi.
Vợ chồng biện Yến nằm tại bộ ván ngang đó mà chơi, liếc mắt ngó con tướng mạo ôn hòa, mặt mày sáng sủa, trán rộng, môi dày, mắt lớn, mày rậm, lại nhớ con đã thi đậu Tú tài đủ hai khoa rồi, đậu với lời khen của hội khảo thi cho là "thiệt giỏi", thì chồng hân hoan đắc chí, vợ khoan khoái vui lòng, tuy nằm trong cái nhà nhỏ sơ sài, song bụng chứa chan hạnh phúc.
Cách một hồi một tên tùng giả bước vô nói cô Ba con ông Bình, sai mời chú biện lại cho cô nói chuyện.
Biện Yến biểu tùng giả về trước rồi mình sẽ theo sau, lại biểu Hải Đường dẹp sách mà đi lại nhà ông Bình chơi một chút.
Vợ biện Yến hỏi chồng rằng:
- Nghe nói ông Bình đã đi Sài Gòn mà, phải hôn?
- Ông, bà với cậu hai đi Sài Gòn hồi sớm mơi, đi mua xe hơi.
- Nếu cậu hai đi nữa, thì còn có mợ Hai với cô Ba ở nhà, hai người sợ nên kêu mình lại ngủ coi nhà dùm chớ gì.
- Bạn bè đầy nhà, thiếu gì người ta. Lại điếm nào dám kéo đến nhà ông mà sợ.
- Biết chừng đâu.
Cha con biện Yến bước vô nhà ông Bình thì thấy đèn măng-song (16) đốt hai cái phía truớc sáng lòa, mợ hai Thái Hòa đương nằm trên một bộ ván với con mà quạt cho con ngủ, còn cô ba Túy Nga thì ngồi dựa bên cây đèn mà thêu khăn. Hai chị em chào rồi mời hai cha con biện Yến ngồi, kêu đứa ở biểu nấu nước chế trà uống chơi.
Cô Túy Nga ngó biện Yến vừa cười vừa nói rằng:
- Hồi sớm mơi, trước khi ra đi, thầy tôi có dặn mượn chú ngủ coi nhà dùm một
đêm, mà ngày nay tôi quên nói với chú. Nhà có người ở đông, song họ ngủ nhà sau, còn phía trước không có ai nên hai chị em tôi sợ. Vậy xin chú ngủ dùm một đêm, chắc mai thầy má tôi mới về.
- Ông bà đi mua xe hơi mà mai về sao kịp. Lên tới Sài Gòn phải đi lại mấy hãng mà lựa xe rồi chạy thử. Như chịu mua thì trả giá cả cho xong rồi phải vẽ số, phải làm giấy phép. Tôi sợ ba ngày cũng chưa rồi.
- Mấy ngày cũng vậy, chú cũng phải coi nhà dùm cho tới chừng nào thầy tôi
về, chớ biết làm sao.
- Cô với mợ Hai biểu, thì tôi phải vưng, coi nhà bao lâu cũng được. Ông bà với
cậu Hai đi khỏi tự nhiên ở nhà tôi phải lo chớ, bởi vậy hồi chiều tôi có dặn thầy Hương quản ban đêm phải cho dân đi tuần khúc nầy cho thường.
- Không biết mua một cái xe hơi mới giá chừng bao nhiêu?
- Cái đó không có chừng. Họ nói giá mắc rẻ tùy theo hiệu xe, có thứ hai ngàn
mấy, có thứ ba ngàn mấy , có thứ bốn năm ngàn, có thứ tới chín mười ngàn.
- Thầy tôi nói lắm nên má tôi mới chịu đi đó, chớ thiệt ý má tôi không muốn
lắm xe hơi chút nào hết. Không biết thầy tôi lên trển rồi mua xe thứ nào.
- Hôm qua ông có nói chuyện với tôi, ý ông muốn mua xe chừng bốn ngàn, hoặc bốn ngàn rưởi.
Mợ hai Thái Hòa nói: "Ý thầy tôi thì muốn sắm xe cho thiệt tốt, còn ý ở nhà tôi thì không chịu xe nhiều tiền, tính lên trển đốc thầy tôi mua xe chừng vài ngàn thôi".
Biện Yến cười và nói: "Ý cậu Hai ít chịu se sua, bởi vậy cậu là con nhà giàu mà ai cũng kính mến cậu hết thảy".
Cô Túy Nga nói rằng:
- Anh Hai tôi giống ý má tôi, má tôi cực chẳng đã phải đi đó, chớ vái hãng đừng còn chiếc xe nào hết, cho thầy tôi mua đừng được. Hổm nay má tôi than thở hoài, nói thầy tôi lên chức, phải đền ơn đáp nghĩa, đãi đằng thiên hạ, tốn hao nhiều quá, rồi còn mua xe hơi nữa, chịu sao nổi.
- Ông thăng chức sang trọng biết chừng nào, phải sắm xe hơi đi coi mới được chớ. Còn đãi tiệc tốn hao nhiều thiệt, nhưng mà ông làm đúng quá, thiên hạ ai cũng ngợi khen hết thảy, bởi vậy tốn hao cũng không mất đi đâu. Mợ Hai với cô Ba nghĩ coi, thuở nay có ai ăn lễ mừng mà làm long trọng được như vậy hay không. Đãi gần bốn trăm khách, đãi đồ Tây hết thảy, mướn nhà hàng Tây trên Sài Gòn xuống nấu, mỗi người khách nhà hàng tính giá muời ba đồng bạc. Hương chức đều ăn cơm Tây hết thảy cũng như các quan, thiệt đúng quá. Hổm nay tôi gặp Hương chức làng nào họ cũng phục lắm. Đã vậy mà còn đốt pháo bông cho nhơn dân coi chơi trót một giờ đồng hồ, còn hát bộ, hát Tiều ba đêm, thiên hạ mê lắm.
- Làm thì đúng thiệt, ngặt tốn tiền nhiều lắm chớ.
- Không biết hổm nay ông bà có tính thử coi nội cuộc tốn chừng bao nhiêu?
- Má tôi tính tiền nầy tiền nọ xê xích một muôn lận, chớ phải ít ỏi gì.
- Tốn một muôn mà đáng lắm chớ. Tốn tiền mà được danh tiếng, chẳng hơn có nhiều người họ chơi tầm bậy mà cũng tốn một hai muôn đó sao.
- Thầy tôi thì ưa danh tiếng, làm việc gì cũng muốn được người ta khen. Còn má tôi thì không chịu se sua, nên hổm nay cằn nhằn hoài.
- Tôi tưởng nếu không có tiền thì thôi, chớ có tiền cũng nên làm cho có danh tiếng chơi chớ.
- Má tôi nói lúc mình có quyền thế hơn, có tiền bạc nhiều, mình làm việc gì họ
cũng khen hết thảy, dầu làm bậy họ cũng cho là phải. Đến chừng mình suy sụp, yếu thế hết tiền rồi, họ đã không khen nữa, mà sợ e họ lại khinh khi mình chớ.
Biện Yến ngồi suy nghĩ mà nói rằng: "Bà nghĩ xa như vậy cũng phải. Thiệt thế tình thường có như vậy".
Mợ Hai Thái Hòa thấy con ngủ mê, bèn bồng đem vô buồng. Cô Túy Nga đứng dậy rót nước trà mà mời biện Yến với Hải Đường uống. Trên đầu xóm có tiếng chó sủa om sòm. Ngoài lộ dân đi tuần nhịp sanh lắc cắc. Cô Túy Nga ngồi thêu, nước da trong bóng, gò má ửng hồng, miệng như hoa bán khai, mày như nguyệt mới rạng, hình vóc điềm đạm, cặp mắt hiền từ, tay lần rút chỉ thêu, bàn tay đã dịu mà ngón lại dài, cườm tay tròn vo, phao tay ửng đỏ. Cô mặc một cái áo bà ba màu bông hường dợt, ánh đèn măng-song dọi vào áo, rồi áo dọi lại mặt cô, làm cho sắc cô càng thêm tươi, duyên cô càng thêm đẹp.
Tú tài Hải Đường từ nhỏ chí lớn ở gần cô Túy Nga, thường hay gặp cô, song có đêm nay mới có dịp ngồi ngó kỹ như vầy. Chàng ngó một hồi rồi nghe trong lòng khó chịu, nên day mặt ngó chỗ khác, tính không ngó cô nữa. Trí chàng quyết như vậy mà lòng lại không muốn như vậy, nên ngó quanh ngó quất rồi cặp mắt như bị đá nam châm hút, thế nào cũng phải ngó lại cô Túy Nga; mà hễ ngó cô thì lại gặp cô cũng ngó chàng, làm chàng sượng sùng ngần ngại hết sức. Chàng muốn đi về đặng tránh cái cảnh vừa vui vẻ vừa khó chịu ấy, song chàng không biết phải nói tiếng chi mà đi về, lại cũng không nỡ bỏ cái cảnh mới thấy lần đầu, mà thấy một cách khỏe khoắn tiêu diêu quá.
Hải Đường đương ngần ngại, thình lình cô Túy Nga cất tiếng hỏi rằng: "Anh Tú học trên Sài Gòn có lẽ anh biết cậu Từ Đăng Cao là con của ông bá hộ Thiện ở trên Vĩnh Long chớ?"
Hải Đường bợ ngợ nên ú ớ đáp rằng:
- Từ Đăng Cao... Con của ông bá hộ Thiện... Tôi biết.
- Nghe nói cậu đó cũng thi Tú tài kỳ nầy mà.
- Cậu học dưới tôi một lớp. Cậu ở nhà ngoài mà đi học, chớ không có ở trong truờng. Phải, nghe nói kỳ thi nầy có cậu thi, mà cậu mới thi phần thứ nhứt.
- Rớt hay đậu?
- Tôi nghe dường như cậu rớt thì phải.
Biện Yến chen vô hỏi cô rằng:
- Cậu Đăng Cao tôi biết rồi. Hôm ông đãi tiệc, vợ chồng ông bá hộ Thiện xuống
dự tiệc có dắt theo một cậu chừng hai mươi tuổi, chắc là cậu đó chớ gì, phải hôn cô Ba?
- Phải, cậu đó đa.
- Sao cô biết cậu đó mà hỏi thăm?
- Hôm xuống ăn tiệc đó, bà bá hộ có kêu vô nhà trong mà chào má tôi.
- Cha chả, ý bà bá hộ muốn làm sui với bà ở nhà đây rồi chớ gì.
Cô Túy Nga châu mày, chăm chỉ ngồi thêu, cô không trả lời. Biện Yến thấy vậy bèn nói tiếp rằng: "Ông bà ở nhà đây làm sui với ông bá hộ trên châu thành thì xứng lắm. Ông thiệt là sang trọng quyền thế. Quan lớn Chánh yêu ông hết sức, đi đâu cũng dắt ổng theo, ổng nói giống gì quan Chánh cũng nghe hết thảy, bởi vậy ổng muốn ai sống thì sống, muốn ai chết thì chết. Đã vậy mà họ nói ổng giàu lắm, có mua ruộng miệt Bạc Liêu nhiều, mà lại còn cho vay cũng nhiều nữa. Nói lén đây mà nghe quan Chủ quận của mình đây thua quan Chủ quận châu thành xa lắm, bởi vậy nếu ông ở nhà làm sui với ông ở châu thành thì đúng rồi có kém bao nhiêu đâu".
Cô Túy Nga ngó Hải Đường, miệng chúm chím cười, rồi ngó biện Yến mà nói rằng:
- Chú tưởng quyền tước lớn, tiền bạc nhiều, vậy là đúng, không có cái gì hơn
được hay sao? Quyền tước lớn mà không biết cứu vớt ai, tiền bạc nhiều mà không chịu giúp đỡ ai, thì quyền với tiền đó có ích gì đâu? Ở đời sang hay hèn, nghèo hay là giàu, không có chi là chắc chắn hết. Vậy chớ chú không nghe nói ông Hội Đồng Kế với ông Cả Huynh đó sao? Họ nói ông Hội Đồng Kế hồi trước ổng giàu sang trong xứ mình không ai dám bì, mà bây giờ ổng suy sụp đến nỗi không có nhà mà ở, đi theo bọn bài bạc bữa đói bữa no. Còn họ nói ông Cả Huynh hồi nhỏ ổng ở đợ giữ trâu, mà bây giờ ổng giàu có, ai cũng phải vay bạc của ổng hết thảy, ổng đi tới đâu ổng cũng ăn trên ngồi trước, coi sang trọng quá. Ấy vậy mình chẳng nên thấy giàu sang mà ham, còn thấy nghèo hèn mà phụ. Theo ý tôi, cưới vợ lấy chồng phải vì tình vì nghĩa, chớ không nên vì quyền thế, vì bạc tiền. Nếu cưới gả mà không chủ tâm về tình nghĩa, lại chủ tâm về bạc tiền thì cái đạo vợ chồng thấp thỏi quá. Tôi nói như vậy đó, anh Tú nghĩ coi có phải không, anh Tú?
Hải Đường ngó dạng cô ngồi, nghe tiếng cô nói, hiểu ý cô luận, thì mê mẩn, nửa tỉnh nửa say; thình lình nghe cô hỏi, thì chàng giựt mình lúng túng, nên đáp rằng:
- Thuở nay tôi mắc lo học, không để ý tới việc vợ chồng, nên tôi không hiểu. Mà cô Ba luận như vậy thì phải lắm chớ.
Biện Yến giành nói nữa rằng:
- Cô Ba còn nhỏ, mà cô luận việc đời nghe hơi như người lớn tuổi vậy. Đời nầy mà nói tình nghĩa làm chi nữa cô Ba. Hễ có bạc cho nhiều, thì thiên hạ kính phục, không cần tình nghĩa gì hết.
- Thiệt, đời khốn nạn lắm, ai cũng lo tranh danh đoạt lợi. Mà có lẽ cũng còn một
số người biết trọng tình nghĩa chớ.
- Số ấy ít lắm. Mà dầu có ai nói chuyện nhơn nghĩa tôi sợ e họ mượn danh nhơn nghĩa đặng cầu danh cầu lợi chớ trong bụng họ cũng không có nhân nghĩa thiệt đâu.
- Nói như chú vậy thì đời nầy hoá ra dã man rồi! Thế thì nên đi tu cho rồi, chớ ở chung lộn với thế gian như vậy làm chi.
- Không, thiên hạ văn minh tấn bộ lắm chớ, văn minh theo vật chất, tấn bộ về
lợi danh.
Cô Túy Nga ngồi trầm ngâm một hồi rồi cô thở dài mà than rằng:
- Đời thiệt là khổ, mà nhứt là đời của một con gái!
Biện Yến ngó cô mà bảo rằng:
- Sao cô lại than như vậy? Phận cô thì sung sướng đệ nhứt rồi. Ông bà là bực giàu có sang trọng. Một vài năm nữa đây cô lấy chồng chắc cũng ở trong hạng thượng lưu. Đời của cô rực rỡ đã thấy mòi rồi, có sao đâu mà cô buồn.
- Đường đời của tôi, ở xa mà ngó thì thấy bông hoa chớn chở; mà tôi sợ chừng
bước chơn vào đó rồi chông gai đẫy dầy, đó chú...
- Cô còn nhỏ tuổi, cô không nên chán đời như vậy, cô Ba. Phải hăng hái mà đi
tới, đặng nếu rủi gặp chông gai, cô mới có đủ nghị lực mà bước khỏi chớ.
- Tại chú mở việc vợ chồng mà nói, nên tôi phải trả lời với chú, chớ tôi có chán
đời đâu.
- Cô than thở như vậy mà cô nói cô không chán đời, hay là cô chê con của ông bá hộ Thiện trên châu Thành?
Cô Túy Nga lặng thinh, mà sắc mặt cô buồn hiu. Cách một lát cô mới đáp rằng:
- Làm thân con gái Việt Nam mình bị cái chế độ gia pháp bó buộc, nhứt là về duyên phận trăm năm thì mình không được tự do chút nào hết. Gả nơi nào tự cha mẹ định, mình có phép chê khen ai đâu.
- Xin lỗi cô, không biết vợ chồng ông Thiện đã có cậy mai mối nói mà xin làm sui với ông hay chưa?
- Việc đó tôi không hiểu. Song tôi lóng nghe thì in như ổng đã có nói chuyện
với thầy tôi. Còn hôm đãi tiệc, bà Thiện có dắt cậu Đăng Cao xuống. Đó là có ý muốn cho thầy má tôi thấy cậu và cho cậu coi mắt tôi luôn thể.
- Nếu vậy, thì chắc ông bà chịu làm sui rồi nên mới cho coi đó chớ.
- Tôi không hiểu, song tôi nghe thầy tôi nói làm sui chỗ đó xứng đáng lắm.
- Ông nói như vậy thì phải lắm. Không biết ý bà với cậu Hai thế nào?
- Anh Hai tôi ảnh chim bỉm (17) hoài, ảnh có nói cho đâu mà biết. Còn má tôi thì không muốn.
- Còn theo ý cô thế nào?
- Tôi đã có nói, tôi đâu có quyền chọn lựa. Nếu tôi được tự do thì nói gì...
- Duyên nợ là việc trăm năm của cô, nếu cô có điều chi không vừa ý thì cô phải thưa lại với ông đặng cho ông bà liệu định chớ.
Cô Túy Nga châu mày rồi liếc mắt ngó Hải Đường mà đáp rằng: "Khó nói lắm!"
Cô ngồi thêu một hồi nữa rồi mới hỏi Hải Đường rằng:
- Tôi hỏi anh Tú phải nói cho thiệt đa nghe hôn. Cậu Đăng Cao thi rớt đó là tại
số mạng hay là tại cậu học dở?
- Tôi không hiểu.
- Còn tánh nết cậu ta thế nào?
- Tôi cũng không đựơc biết.
- Anh không muốn nói cái tệ của người khác, chớ có lý nào anh không hiểu.
- Tại học khác lớp, nên thiệt tôi không hiểu chớ.
- Anh muốn dấu diếm, đặng anh hại tôi phải hôn?
- Có lẽ nào tôi lại đê tiện quá như vậy.
Cô Túy Nga nghiêm sắc mặt, rồi ngó ngay Hải Đường mà nói rằng: "Anh dấu tôi, nếu cái đời tôi sau nầy mà gặp việc chẳng may, thì anh mang tội lớn lắm, nói cho anh biết".
Mấy lời ấy làm cho Hải Đường càng thêm rối trí bận lòng, không thể ngồi lâu nữa được, nên đứng dậy thưa với cha rằng: "Thôi, ba ở đây ngủ coi nhà dùm cho ông, để con về kẻo má chờ".
Chàng liền từ giã cô Túy Nga mà bước ra cửa. Cô ngó theo, sắc mặt coi buồn hiu.
Thuở nay Hải Đường một là mắc lo học, hai là biết xét phận thấp hèn, nên chẳng bao giờ để ý đến cô Túy Nga. Nay ngồi ngó cô một lát, nghe cô nói những lời đạo nghĩa, hiểu ý cô không ỷ giàu sang mà khinh khi kẻ nghèo hèn, thì trong lòng chàng sanh mối cảm tình chứa chan, ra khỏi cửa rồi chàng thơ thẩn bâng khuâng như ngây dại.
Về đến nhà, chàng vẫn còn buồn xo.
Thiếm biện Yến hay chồng mắc ở coi nhà dùm cho ông Bình thì thím đi ngủ, không chờ nữa.
Hải Đường lấy một cuốn sách ngồi dựa đèn mà coi, mặt ngó vô cuốn sách mà mắt tại thấy hình dạng của cô Túy Nga hoài, tai văng vẳng nghe những tiếng cô nói, trí cứ nhớ những câu chuyện hồi nãy.
Cậu Đăng Cao là con nhà giàu. Từ khi mới lọt lòng thì cậu đã nằm trong cái địa vị cao sang, cậu muốn việc chi cũng được, cậu đòi thứ chi cũng có hết thảy.
Đến chừng lớn khôn, cậu dòm thấy chung quanh cậu chẳng có một người nào không thương yêu, không bợ đỡ cậu, lần lần cậu quen cái thói coi thiên hạ đều thấp hèn hơn cậu, tưởng thiên hạ là tay sai của cậu. Bởi vậy cậu đến nhà trường, đối với chúng bạn thì cậu lấn lướt kiêu hãnh, làm cho chẳng có một trò nào mà ưa cậu. Mà theo cậu, thì sự đi học là cái chước để cho cậu có thế xài phá bạc tiền của cha mẹ, chớ không phải là cái chước để cho cậu mở trí sửa lòng, bởi vậy đi học mà cậu không cần cố chi hết, chỉ lo sắm áo quần cho tốt để chúa nhựt thả đi chơi, hoặc ngồi nhà hàng, hoặc coi hát bóng.
Cậu thi rớt ấy là lẽ tự nhiên, tại học không cần nên thi không đậu, chớ không phải tại số mạng nào hết. Có lẽ cậu xét phận của cậu, nên cậu tính cưới vợ chớ không thèm học nữa. Cậu tính như vậy cũng hay, bởi vì nếu cậu học nữa thì bất quá tốn tiền thêm cho cha mẹ, chớ không chắc cậu thi đậu được. Tánh nết với tài học của cậu Đăng Cao như vậy đó, mình có nên nói rõ ra cho cô Túy Nga biết hay không? Có lẽ nào mình lại đem việc xấu của người mà nói cho thiên hạ biết. Huống chi ông Bình đã muốn gả con cho Đăng Cao, nếu mình khai chỗ tệ của cậu, té ra mình dèm siểm, làm như vậy thì mình còn xấu hơn người mà mình nói xấu đó nữa.
Mà việc nầy là việc trăm năm của một cô thiếu nữ, theo con mắt mình xem thì là một cô đứng đắn về tánh tình, lại xinh đẹp về nhan sắc nữa. Mình có nên sợ mang tiếng "Dương nhơn chi ác"(18) mà để cho cô thiếu nữ, mình vừa yêu vừa trọng đây, phải mang một người chồng bất lương, bất tài trọn đời hay không?
Hai vấn đề ấy thật là khó giải quyết. Đã vậy mà tại sao cô Túy Nga lại nói rằng nếu mình dấu cô, hễ sau nầy có việc chi chẳng may thì mình phải mang tội?
Tại sao trước mặt mình cô lại than thở về sự cha mẹ tính gả cô cho Đăng Cao?
Tại sao cô than việc lấy chồng cô không được tự do mà chọn lựa?
Tại sao cô lại nói: "Chẳng nên thấy giàu sang mà ham, còn thấy nghèo hèn mà phụ?" Cô có tình riêng với mình chút nào hay sao, mà nay cha mẹ định gả lấy chồng, cô thất vọng nên than thở với mình như vậy?
Đó là một vấn đề nữa, mà vấn đề nầy còn khó giải hơn vấn đề trước bội phần. Canh khuya, đêm vắng, Hải Đường ngồi ngó sửng ngọn đèn, nghe tiếng dế gáy rân ngoài thềm, với tiếng thằn lằn chắc luỡi (19) trong vách, thì chàng bâng khuâng lơ lửng, lén hỏi thầm trong trí rằng mình có duyên nợ gì với cô Tuý Nga hay không? Chàng hỏi như vậy rồi chàng giựt mình, ngó quanh trong nhà thấy cái nhà lá túm húm xịch xạc, đồ đạc sơ sài, còn chàng nhớ cái nhà của cô Túy Nga kinh dinh (20) rực rỡ, thì chàng teo gan héo ruột, ủ mặt châu mày, chàng lắc đầu mà đáp rằng: "không thể có duyên nợ được, bởi vì cha mình là bộ hạ của ông Bình, mà ông lại đương tính làm sui với một ông bá hộ, thì còn gì mà ước mơ."
Mang ái tình vào lòng thì đã khó chịu lắm rồi, mà cái ái tình ấy lại không có hy họng thỏa mãn được, thì càng đau đớn nhiều hơn nữa. Hải Đường vừa mới ra khỏi nhà trường thì đã sa vào cái đường khổ não rồi!
Từ nay chàng lững đững lờ đờ, buồn mà không tỏ với ai được, muốn viết thơ mà tỏ tánh nết Đăng Cao cho Túy Nga biết, rồi dụ dự cũng không dám viết.
Cách chừng một tháng, một buổi chiều, biện Yến đương ngồi ăn cơm với vợ con, chú nói rằng ông Bình đã nhứt định gả cô Túy Nga cho con ông bá hộ Thiện, ngày cưới đã định rồi, bà Bình đã đi Sài Gòn mua hột xoàn và đặt may áo quần sữa soạn đưa con về nhà chồng.
Hải Đường hay tin ấy thì đau đớn như kim châm ruột. Khối tình đã rã, hy vọng đã tan, đường đời chẳng còn mục đích gì nữa. Chàng suy nghĩ trong mấy ngày, rồi quyết dập tắt lửa lòng, định lấy sự học vấn mà làm chủ hướng, không thèm kể việc gia thất. Chàng bèn thưa với cha mẹ rằng mấy ông thầy dạy chàng học đều thương chàng, thuờng hay khuyên chàng nên xin học bổng đặng qua bên Pháp mà học thêm ít năm nữa, lại hứa nếu chàng xin học bổng thì mấy ổng sẽ lập thế nói dùm cho, bởi vậy chàng muốn nghe lời thầy mà xin qua Pháp học thêm năm bảy năm nữa, lấy bằng cấp Cao Đẳng về mới vinh quang, làm việc ăn lương mới lớn.
Biện Yến không rõ tâm sự của con, lại thấy con có chí muốn học cao hơn nữa, thì lấy làm hiệp ý mình, bởi vậy chú đã không ngăn cản, mà lại còn xúi thêm con.
Hải Đường là một học trò giỏi nhứt trong lớp, bởi vậy từ đốc học tới giáo sư ai cũng đều yêu mến. Chàng lên Sài Gòn làm đơn xin học bổng, cậy mấy ông giúp lời. Đám cuới cô Túy Nga vừa rồi thì chàng cũng được giấy của quan trên cấp cho chàng học bổng mỗi năm sáu ngàn quan, đặng chàng qua pháp mà học.
Hải Đường từ giã cha mẹ mà đi, tuy thất tình, song đắc chí.
Một bữa chúa nhựt, lối mười một giờ trưa, có một cái xe hơi cũ, nước sơn đã dợt (21), máy chạy không êm, chạy chậm chậm trong châu thành Sài Gòn, bóp kèn inh ỏi; bọn xe kéo ngó nhau mà cười và nói: "Xe lục tỉnh coi dơ dáy quá, mà bóp kèn làm chi không biết"!
Cái xe nầy chạy qua đường Lagrandière rồi ngừng ngay một căn phố lầu, ở phía sau chợ mới Bến Thành. Một cô mỹ nữ trên xe bước xuống, hình dung tuấn tú, tướng mạo nghiêm chỉnh, y phục đúng theo thời trang, mình mặc áo màu bông phấn, quần hàng trắng, đầu choàng khăn ê sạt (22), chơn mang giày thêu Hạ Châu. Cô đi ngay vô căn phố lầu, thấy cửa đóng, thì vỗ cửa kêu lớn rằng: "Anh Cánh à, anh Cánh, mở cửa coi nào. Làm giống gì chừng nầy mà đóng cửa kín mít vậy?"
Một người đàn ông, chừng ba mươi tuổi, ra mở cửa rồi chấp tay xá cô.
Cô hỏi:
- Thầy đi đâu?
- Bẩm, thầy đi chơi.
- Đi hồi nào?
- Bẩm, hồi chiều hôm qua, thầy đi làm việc về, thầy thay áo quần mới rồi thầy
lấy xe hơi đi luôn cho tới bây giờ, không có về.
Cô châu mày suy nghĩ một chút, rồi lột khăn ra biểu người mở cửa đó rằng: "Thôi, anh ra ngoài xe vác vali với bao gạo vô".
Cô nầy là cô Túy Nga, còn nhà nầy là nhà của thầy Đăng Cao. Số là khi Đăng Cao cưới cô Túy Nga được ít tháng, ông Thiện muốn cho con có chức có phận với người ta, nên lo đem cậu vô làm Ký lục tại Kho bạc chánh, lương mỗi ngày một đồng bốn cắc, trừ chúa nhựt nghỉ thì không ăn tiền. Kiếm được chỗ làm rồi bà Thiện mới lên sắm đồ dọn nhà cho vợ chồng Đăng Cao ở. Ông Bình muốn làm cho xứng đáng mặt cha vợ, nên ông cũng lên mua cho con rể ít món đồ, lại mua cho một cái xe hơi nhỏ hai chỗ ngồi đặng cho con rể đi chơi.
Vợ chồng Đăng Cao ở Sài Gòn đã hơn một năm rồi, lương thì ít, mà xài thì nhiều, bởi vậy mỗi tháng thường xúi vợ về xin tiền. Cách năm ngày trước cô Túy Nga đi xe đò về Mê Phốp rồi bữa nay ông Bình cho xe nhà đưa cô trở lên đó, cũng là tại Đăng Cao xúi cô về xin tiền nên cô mới đi.
Anh Cánh là người ở vừa làm bồi, vừa nấu ăn, xách vali và vác bao gạo vô nhà rồi, cô Túy Nga mới kêu anh sớp phơ mà đưa sáu đồng bạc và nói rằng: "Anh lấy tiền đây ra đổ ba đồng bạc xăng, anh cất hai đồng đặng bận về trả tiền đò, còn lại một đồng anh ra chợ mà ăn cơm cho no rồi về. Anh ăn cơm, nghỉ một chút rồi về cho sớm, kẻo ở nhà thầy tôi có đi đâu không xe mà đi".
Cô thay áo rửa mặt rồi nằm trên ghế xích đu mà nghỉ.
Anh Cánh bước lại nói rằng: "Thưa, cô cho tiền đặng tôi ra chợ mua đồ về nấu cơm dọn cho cô ăn".
Túy Nga ngồi dậy, miệng chúm chím cười và hỏi rằng:
- Vậy chớ hồi sớm mai nầy anh không có đi chợ hay sao?
- Thưa, hồi chiều hôm qua thầy không có đưa tiền. Tôi tưởng thầy đi chơi rồi sáng thầy về như mấy bữa trước, nên tôi không dám hỏi.
- Hổm nay tôi đi khỏi, thầy ở nhà đêm nào thầy cũng đi chơi tới sáng thầy mới
về hay sao?
Anh Cánh tự hối về sự mình nói không dè dặt, nên anh ta bối rối đứng lặng thinh.
Cô Túy Nga hiểu ý, cô không nài phải trả lời về việc ấy, mà cô lại hỏi câu khác rằng:
- Thầy không có nói với anh bữa nay tôi về hay sao?
- Thưa, không. Phải thầy nói thì tôi lo cơm nước sẵn rồi.
- Thôi, anh khỏi lo nấu cơm. Tôi ăn cơm dưới nhà tôi mới đi, nên tôi chưa đói.
Anh Cánh vô nhà bếp. Cô Túy Nga đi lên lầu. Cô mở cửa sổ, vẹt tấm màn ren mà ngó xuống đường. Nam thanh nữ tú qua lại dập dìu, xe kéo xe hơi tới lui không dứt.
Cô ở giữa chốn phiền ba đô hội (23) mà cô coi cũng như ở nơi cùng cốc thâm sơn, cô ngó thiên hạ cô không biết vui, cô thấy ngựa xe cô càng áo não.
Cô bước lại một cái bàn nhỏ, mặt lót đá cẩm thạch, để phía trên đầu giường ngủ, rồi cô rót một ly nuớc lạnh mà uống. Cô ngó quanh quất trong nhà, nào giường đồng, mùng lưới, nào tủ gõ kiến dầy, nào ván cẩm lai để nằm chơi, nào đèn bao lụa cho khỏe mắt. Cô ngó đồ dạc thì trong lòng cô lại càng buồn hơn nữa, đồ tốt mà lòng không vui thì đồ ấy không ích gì. Bấy lâu nay cô đọc trong sách, hoặc cô nghe nguời ta nói: "muốn hưởng hạnh phúc không cần phải lo cho được giàu sang, mà nhứt là cần phải cho được thỏa lòng mãn ý, bởi vì nhiều khi giàu mà mình cứ buồn rầu, còn nhiều khi nghèo hèn mà mình lại vui vẻ." Bây giờ cô mới biết câu luận thuyết ấy không phải là câu của mấy nhà đạo đức bày ra để dạy đời, mà chánh là câu hạp với thế sự lắm vậy.
Cô Túy Nga bèn mở tủ lấy đồ may ra rồi cô ngồi trên bộ ván cẩm lai mà thêu. Phần ngồi xe lâu mệt mỏi, phần gió thổi hiu hiu, nên cô thêu tới ba giờ chiều rồi cô buồn ngủ, cô mới lấy gối nằm tại bộ ván ấy mà ngủ quên hết thế sự, quên cả gia đình.
Đến tối, tiếng giầy lên thang lầu rầm rầm làm cho cô Túy Nga giựt mình mở mắt ra, cô thấy dưới đường đèn khí cháy sáng, còn trong nhà thì vẫn lờ mờ.
Cô lồm cồm ngồi dậy, thì đèn trên lầu bựt lên sáng lòa, Đăng Cao quần áo bàu nhàu, tóc tay chôm bôm, chàng quăng cái kết (24) lên bàn và hỏi rằng: "Lên hồi nào đó"?
Túy Nga Đáp: "Tôi lên hồi trưa", rồi cô đi rửa mặt. Đăng Cao thay đồ đi tắm.
Chừng chàng tắm rồi, thì Túy Nga sai anh Cánh mua đồ dọn cơm tối cũng gần xong. Túy Nga mời chồng ăn cơm. Đăng Cao bước lại dòm bàn ăn, rồi trề môi nói rằng: "đồ bậy bạ ai ăn cho được. Hồi chiều ở dưới Cấp về có mua đồ bỏ theo xe ăn no rồi. Thôi, ăn đi. Tôi không ăn nữa đâu".
Lời nói xẳng xớm như vậy, mà Túy Nga không lộ sắc phiền giận chút nào hết, cô hòa huỡn đáp rằng:
- Ăn trên xe bất quá mình ăn bánh mì sơ sài. Phải ăn thêm một chén cơm cho chắc bụng chớ.
- Không. Tôi đi chơi mệt lắm, ăn không được. Hồi chiều ăn bánh mì, mà ăn nhiều rồi.
Đăng Cao nói dứt lời rồi bỏ đi lên lầu, không hỏi thăm vợ coi đi đường thế nào, ở dưới nhà mạnh giỏi hay không.
Túy Nga ngồi ăn cơm một mình, tuy ăn không biết ngon, song cũng rán ăn hết một chén. Ăn cơm rồi cô đi ra đi vô, dẹp cái nầy, quét chỗ kia, vì cô đi khỏi mấy bữa, đồ đạc để lộn xộn, có nhiều món bụi bặm đóng dơ dáy. Thình lình Đăng Cao ở trên lầu kêu lớn rằng: "Ăn cơm rồi chưa? Lên đây đặng hỏi thăm một chút coi".
Túy Nga men men lên lầu. Đăng Cao nằm trong giường, vừa thấy mặt vợ thì hỏi rằng: "Về dưới kiếm tiền được hay không?"
Túy Nga nghe hỏi việc ấy thì miệng chúm chím cười, song mắt không dám ngó chồng, mà sắc coi cũng không vui chút nào hết. Cô đáp nhỏ nhỏ rằng:
- Được.
- Đủ năm trăm đồng bạc hay không?
- ... Không đủ.
- Không đủ sao được. Ta biểu xin cho đủ năm trăm đồng bạc đặng trả cho dứt
nợ chớ.
- Dưới nhà thầy với má túng tiền quá.
- Hứ! Dữ hôn! Tưởng đâu dăm bảy ngàn hay sao! Thứ có năm trăm đồng bạc, nhiều nhõi gì đó mà than túng.
- Mình không hiểu, chớ thầy má túng lung lắm.
- Than túng, mà rồi cho bao nhiêu?
Túy Nga lặng thinh, bước lại bộ ván mà ngồi, rồi đáp nhỏ rằng: "Thầy nói không phải thầy tiếc với mình, ngặt vì lúc nầy thầy túng nên không thể cho số bạc nhiều như vậy được. Hồi sáng tôi đi, má mót trong tủ còn có bảy chục đồng bạc, má đưa cho tôi năm chục đồng bạc tôi đi đây".
Đăng Cao khoát mùng bước ra, châu mày trợn mắt, nói lớn rằng:
- Năm chục mà làm cái gì được! Thôi, đem về dưới mà trả lại đi. Không thèm
đâu.
- Mình đừng có nói như vậy. Của cha mẹ cho, dầu nhiều hay là ít mình cũng phải lấy, có lẽ nào mình dám trả lại.
- Tôi biết mà. Thầy với má để dành tiền mà đút cho anh Hai. Tôi là rể, cho một
đồng bạc coi bộ tiếc lắm.
- Mình nói sao vậy? Anh Hai ảnh lo làm ruộng cho thầy với má, chớ ảnh không làm tư làm riêng gì. Ảnh dầm mưa dãi nắng cực khổ hết sức, mà cũng không ăn xài chi hết. Theo tôi biết thì từ hồi nào cho tới bây giờ, vợ chồng ảnh làm lợi cho thầy với má, chớ không có làm tốn hao như người ta. Còn mình đây, từ ngày mình dọn nhà ở trên nầy làm việc, chưa đầy hai năm mà thầy má tốn hao với mình gần năm ngàn đồng bạc, chớ phải ít hay sao. Mình còn phân bì với anh Hai nỗi gì.
- Bây giờ mình kể mà đòi tôi hả?
- Nói chuyện mà nghe chớ kể giống gì.
- Dữ hôn! Thứ cho trong hai năm mà kể có mấy ngàn đồng bạc, tưởng đâu nhiều lắm đa! Mà cho đó có một mình tôi ăn hay sao?
- Thì thầy má cho một trăm, khi hai trăm, vợ chồng mình xài chung với nhau, chớ tôi có nói một mình mình xài đâu mà mình sân si.
- Thầy má cho tiền bây giờ mình kể với tôi, vậy chớ tôi mướn phố lầu cho mình
ở, tôi để cho mình may quần nầy áo kia, mua giày Hạ châu, sắm dù Nhựt bổn, khi dắt đi Long Hải, khi dắt đi Vũng Tàu, mấy cái đó sao mình không kể. Được, muốn kể với tôi, thôi để tôi về xin tiền ba tôi rồi tôi trả lại cho. Thằng nầy không phải mạt như họ, đưa đồng bạc ra thì chắc lưỡi hít hà như họ vậy đâu.
Túy Nga nghe chồng nói những lời nặng bề cay đắng ấy, chẳng khác nào như chồng cầm búa mà đập vô đầu; cô đau đớn tức tối hết sức, ngặt vì ý nghĩa những lời ấy không hạp với gia phong của cô, bởi vậy cô không thể đối đáp được, cô chỉ rưng rưng nước mắt ngồi lặng thinh mà chịu.
Đăng Cao thọc hai tay vào túi áo pyjama (25) đi lên đi xuống một hồi, rồi nói nữa rằng: "Hứ! Khoe mười lăm hai chục ngàn giạ lúa, mà biểu xin năm trăm đồng bạc nói không có! Vậy mà khoe giàu giống gì?"
Túy Nga lau nước mắt mà đáp rằng:
- Tôi có khoe hồi nào đâu? Thầy tôi góp lúa ruộng nhiều, song cũng phải xài nhiều việc, chớ phải góp bán rồi cất bạc được hay sao.
- Bây giờ tôi mới biết tôi lầm!
- Mình lầm cách nào?
- Lầm đủ cách hết thảy.
- Hồi trước có phải tôi năn nỉ xin mình cưới dùm tôi đâu.
- Phải, mình không có năn nỉ, mà họ nói nghe đúng lắm, nên tôi mới lầm chớ.
- Mình nói tới câu đó thì không còn nghĩa vợ chồng gì nữa hết. Đã biết làm thân nhi nữ may rủi một chồng mà thôi. Nhưng mà bây giờ mình nói mình cưới tôi đó là mình lầm, nên mình ăn năn, vậy thì mình muốn bỏ tôi cũng được, tôi chẳng dám đeo theo làm bận chân xốn mắt mình đâu mà mình ngại. Bởi ba má trên nhà đứng nói với thầy má tôi mà cưới tôi cho mình. Bây giờ mình không bằng lòng thì mình thưa với ba má xuống nói một tiếng với thầy má tôi thì tôi về liền.
- Mình thách đố tôi hả?
- Tôi nói thiệt, chớ có nói thách đâu.
- Được. Thách tôi thì tôi sẽ làm cho mà coi.
Đăng Cao chun vô mùng mà nằm lại. Túy Nga nằm chèo queo ngoài bộ ván, nước mắt tuôn dầm dề.

-----------

1 kho chứa lúa
2 khu Đất
3 loại gỗ quý
4 100 cân ta = 60 kg
5 cơ quan hành chánh
6 giữ
7 kho lúa
8 trau giồi cho đen, chãi tóc công phu
9 chậm rải và khoan thai
10 thành phố lớn
11 (medaille), huy chương
12 người Tàu ở Việt Nam. Còn gọi là «Các chú »
13 xông= chái. Hai căn xông= hai căn một chái
14 cân xứng, vừa nhau
15 sân trồng rau cải
16 (manchon), Đèn dầu Đốt theo nguyên tắc đèn khí, tim đèn là một cái lưới bằng carbon.
17 không nói, không có ý kiến
18 phô bày sự ác độc của con người
19 tiếng kêu của con thằn lằn
20 ngăn nắp và đầy đủ
21 vợt, phai màu
22 (écharpe), khăn quàng vai hay băng choàng vai của người có địa vị ( vua, hoa hậu...)
23 phồn hoa Đô hội, nơi tụ tập của nhiều tinh hoa ánh sáng
24 (casquette), nón có rìa phía trước
25 áo ngủ may theo lối Nhựt Bổn
<< Lùi - Tiếp theo

HOMECHAT
1 | 1 | 203
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com