Bính Tí, năm thứ 3 (1036). (Tống, năm Cảnh Hựu thứ 3). Tháng giêng, mùa xuân. Tượng Phật làm xong. Đại xá. Pho tượng Phật Đại nguyện đã tô xong, mở hội ăn mừng ở sân rồng; đại xá cho cả nước. Tháng 4, mùa hạ. Đổi Hoan Châu làm Nghệ An châu trại. Nhà Tùy đặt là Hoan Châu; nhà Đinh, nhà Lê vẫn theo như trước. Đến đây, vì đặt hành doanh, nên đổi tên như vậy. Lại đặt ra những kho như Tư Thành, Lợi Nhân và Vĩnh Phong tất cả 50 sở. Lời chua - Hoan Châu: Xem Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 -23. Đinh Sửu, năm thứ 4 (1037). (Tống, năm Cảnh Hựu thứ 4). Tháng 2, mùa xuân. Nhà vua thân đi đánh Lâm Tây, dẹp yên được. Tháng 3, trở về cung. Trước đây, đạo Lâm Tây cùng với các châu Đô Kim, Thường Tân và Bình Nguyên làm phản, xâm lấn châu Tư Lăng nhà Tống, cướp lấy trâu ngựa của dân sở tại đem về. Đến đây, nhà vua sai Phụng Kiền vương Nhật Trung coi giữ kinh đô, cho Khai Hoàng vương Nhật Tôn làm đại nguyên soái, đi đánh các châu Đô Kim, Thường Tân và Bình Nguyên, nhà vua thì tự đem quân đến đạo Lâm Tây đánh phá được địch rồi kéo quân về.
Lời chua - Lâm Tây: Thuộc tỉnh Hưng Hóa, nhà Lý gọi là đạo Lâm Tây, nhà Trần gọi là đạo Đà Giang, khi thuộc Minh gọi là châu Gia Hưng; nhà Lê đổi là phủ Gia Hưng, tức là phủ Gia Hưng bây giờ. Hai châu Đô Kim, Bình Nguyên: Xem Lý Thái Tổ, năm Thuận Thiên thứ 6 (Chb. II, 18). Tư Lăng: Theo Thanh Nhất thống chí , châu Tư Lăng thuộc phủ Thái Bình, tỉnh Quảng Tây. Tháng 7, mùa thu. Xem bơi trải. Nhà vua ngự điện Hàm Quang, xem bơi thuyền thi. Từ đó năm nào cũng đặt làm lệ thường. Có nạn thủy tai lớn. Mậu Dần, năm thứ 5 (1038). (Tống, năm Bảo Nguyên thứ 1). Tháng 2, mùa xuân. Nhà vua thân đi cày ruộng tịch điền. Nhà vua đi ra cửa Bố Hải, sai quan tư đắp đàn tế Thần nông, chính mình tự tay cầm cày, làm lễ cung canh355 . Những người ở tả hữu ngăn rằng: "Đó là việc của nông phu, bệ hạ cần chi phải làm?". Nhà vua nói: "Trẫm mà không chính mình cày ruộng thì lấy đâu có gạo làm tế phẩm để thờ cúng nhà tông miếu và lấy gì để nêu gương cho thiên hạ?". Bấy giờ nhà vua mới cày ba luống rồi thôi. Lời chua - Cửa Bố Hạ: Xem ngang với Tống, Thái Tổ, năm Kiến Đức thứ 4 (Tb. V, 29). Tháng 11, mùa đông. Làm kho ngự khố. Tháng 12. Thủ lĩnh châu Thảng Do là Nùng Tồn Phúc làm phản. Trước đây, Tồn Phúc làm thủ lĩnh châu Thảng Do, cùng với em là Tồn Lộc, thủ lĩnh châu Vạn Nhai, và em vợ là Đương Đạo, thủ lĩnh châu Vũ Lặc, đều thuộc châu Quảng Nguyên, hằng năm vẫn nộp đồ tiến cống bằng sản vật địa phương. Sau, Tồn Phúc giết Tồn Lộc và Đương Đạo, chiếm lấy cả đất của họ, tiếm xưng hoàng đế, lập vợ làm hoàng hậu, phong tước vương cho con, đổi châu Thảng Do làm nước Trường Sinh, sửa đồ giáp binh, xây đắp thành trì, làm kế tự thủ; từ bấy giờ không tiến cống nữa. Lời chua - Tồn Phúc: Người làng Tượng Cần, châu Thạch An. Châu Vạn Nhai: Thuộc tỉnh Thái Nguyên. Xưa gọi là châu Vạn Nhai (nhai là sườn núi); nhà Lý gọi là Vạn Nhai (nhai là bến nước); khi thuộc Minh gọi là Vũ Lễ; nhà Lê gọi là Vũ Nhai, tức là châu Vũ Nhai ngày nay. Quảng Nguyên: Thuộc tỉnh Cao Bằng. Nhà Lý gọi là Quảng Nguyên; khi thuộc Minh gọi là Uyên huyện; nhà Lê gọi là Lộng Nguyên, tức là châu Quảng Uyên bây giờ. Thảng Do: Theo sách Độc sử phương dư kỷ yếu của Cố Tổ Vũ, châu Thảng Do giáp giới với châu Quảng Nguyên. Vũ Lặc: Theo Đường thư Địa lý chí nhà Đường đặt ra Lung Châu, quản lĩnh huyện Vũ Lặc. Thế thì Thảng Do và Vũ Lặc có lẽ ở vào địa hạt tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn; các triều đại phân chia ra sao và cho lệ thuộc thế nào, không khảo được. Sứ nhà Tống sang. Gia phong nhà vua làm Nam Bình vương. Kỷ Mão, năm Kiền phù hữu đạo thứ 1 (1039). (Tống, năm Bảo Nguyên thứ 2). Tháng 2, mùa xuân. Nhà vua thân đi đánh dẹp và giết chết Tồn Phúc. Hà Văn Trinh, thủ lĩnh châu Tây Nông, đem tình trạng làm phản của Tồn Phúc tâu lên. Nhà vua giao cho Khai Hoàng vương Nhật Tôn trông coi việc nước, chính mình tự làm tướng, đi đánh dẹp. Khi quân kéo đến châu Quảng Nguyên, Tồn Phúc đem cả bộ lạc trốn, nhà vua tung quân ra đuổi, bắt được Tồn Phúc và con hắn là bọn Trí Thông 5 người. Còn vợ Tồn Phúc là Ả Nùng và con hắn là Trí Cao đều chạy thoát được. Nhà vua sai san phẳng cả thành trì của Tồn Phúc, chiêu an vỗ về nhân dân; đóng cũi bọn Tồn Phúc điệu về kinh đô, xuống chiếu rằng: "Trẫm có thiên hạ, khắp trên đất, đâu đấy đều là tôi con, các phiên thần đều dâng lễ cống. Thế mà Tồn Phúc ở châu Thảng Do dám tự tôn tự đại, dựng nước riêng, tiếm xưng tôn hiệu, khuấy rối dân lành ở nơi biên giới. Trẫm nay kính vâng mạng Trời, phải đi đánh dẹp. Khi kéo quân đến Quảng Nguyên, bắt được bọn Tồn Phúc 5 người, dẹp yên đất ấy". Rồi đem chém cả ở chợ trong kinh đô. Lời chua - Tây Nông: Thuộc tỉnh Thái Nguyên, tức là huyện Tư Nông bây giờ. Tháng 6, mùa hạ. Bầy tôi dâng tôn hiệu. Bấy giờ giặc Nùng đã yên, 5 người nước Chiêm Thành lại quy phụ; động Vũ Kiến dâng một khối vàng sống nặng 112 lạng; châu Lộng Thạch và châu Đinh Biên đều nói ở hai châu ấy có hiện ra khí sắc trắng như bạc. Bầy tôi đặt tôn hiệu gồm 8 chữ dâng lên nhà vua: "Kim dũng, ngân sinh, Nùng bình, Phiên phục"356 . Nhân đó xin đổi lại niên hiệu. Nhà vua nói: "Về đời Đường357 Ngu358 chỉ vẽ ra hình tượng mà người không dám trái359 , không cần đánh dẹp mà binh lính người ngoài phải khuất phục; đời bấy giờ nhà nào cũng lương thiện đáng khen, nhân dân tận nơi góc biển đâu cũng vui theo. Có hiện tượng mây lành, sao đẹp; có chim phượng hoàng đến múa chầu. Người làm vua chỉ rũ áo chắp tay, không cần bày vẽ gì mà thiên hạ cũng rất bình trị. Nếu không phải là bậc có đạo đức cao lắm thì sao được như thế? Trẫm là người ít đức, đứng đầu thần dân, vẫn nơm nớp lo sợ, chỉ e không gánh nổi việc nước, đâu dám mong như Nghiêu Thuấn xưa? Ngày nay, giặc Mán đã yên, vàng bạc nảy ra, đó là trời đất tựa cho chăng? Hay là răn dạy đấy chăng? Trẫm lấy làm sợ hãi lắm, chứ đâu dám đương nổi danh hiệu đẹp đẽ ấy?". Bầy tôi cố nài mãi, nhà vua mới nghe theo. Lời phê - Đối với những đám giặc cỏ ở trong nước, có gì đáng khoe là "bình" thế mà vội tự tôn, tự đại xằng! Bầy tôi thì dâng lời bợ đỡ, nhà vua thì giả đò khiêm nhường, trên dưới đều trái cả! Lời chua - Chiêm Thành: Tức Lâm Ấp. Xem thuộc Tấn, Mục đế, năm Vĩnh Hòa thứ 9 -21. Động Vũ Kiến: Thuộc châu Quảng Nguyên, bây giờ đổi lại là gì, không rõ. Lộng Thạch: Theo sách Thiên hạ quận quốc lợi bệnh toàn thư , châu Lộng Thạch thuộc tỉnh Lạng Sơn. Bây giờ phân chia và lệ thuộc ra sao, không khảo được. Định Biên: Theo Đại Thanh nhất thống chí , An Nam cổ tích , châu Định Biên có tên nữa là Minh Tế. Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi, Định Biên thuộc tỉnh Cao Bằng. Bây giờ đổi lại là gì, chưa rõ. Tháng 8, mùa thu. Sai sứ sang nhà Tống. Sai đại liêu ban là Sư Dụng Hòa và thân vương ban là Đỗ Hưng đem sản vật địa phương sang biếu nhà Tống. Lời chua - Đại liêu ban: Xem Lý Thái Tông, năm Thiên Thành thứ 3 (Chb. II, 35). Thân vương ban: Sử của Ngô [Thì] Sĩ chua là tên một tước phong. Sư Dụng Hòa: Châu mục châu Vĩnh An, vừa mới được phong tước này. Tháng 10, mùa đông, sửa lại miếu Lý Thái Tổ. Miếu này làm từ năm Thiên Thành thứ 1 (1028), đến đây sửa lại. Tháng 12. Nước Chân Lạp sai sứ đến triều cống. Năm Thiên Thành thứ 6 (1033), Chân Lạp đã sai cống đến đây lại sang cống nữa. Người Chiêm Thành giữ trại Bố Chính là bọn Bố Lệnh, Bố Kha, Lan Đà Tinh đem bộ thuộc hơn trăm người sang theo ta. Lời chua - Nước Chân Lạp: Xem thuộc Đường, Tuyên Tông, năm Đại Trung thứ 12 (Tb. IV, 39). Bố Chính: Xem Lý Thánh Tông, năm Thần Vũ thứ 1 (Chb. III, 29).
Chú thích:
305 Chức quan trông coi binh lính trực ban ở trước điện nhà vua. 306 Nghĩa đen từng chữ: Rễ cây thăm thăm, Ngọn cây xanh xanh, "Hòa đao" (hòa = lúa; đao = đao) tàn rụng. 307 Chữ "lý" có nghĩa là cây mận. 308 Chức quan hầu cận bên vua, có nhiệm vụ truyền lệnh và dẫn người vào ra. 309 Chỉ Lý Công Uẩn. 310 Chỉ Lý Công Uẩn. 311 Chức quan hầu cận bên vua, có nhiệm vụ truyền lệnh và dẫn người vào ra. 312 Chức quan hầu cận bên vua, có nhiệm vụ truyền lệnh và dẫn người vào ra. 313 Chỉ Lý Công Uẩn. 314 Ý nói ơn đức vua mới nhuần thấm đến cả chim muông. 315 Chỉ việc Lý thay Lê. 316 Chỉ việc đặt tên hiệu cho Lý Thái Tổ. 317 Về lục nghệ có hai thuyết: 1. Lễ, nhạc, xạ (bắn), ngự (cầm cương ngựa), thư (viết), số (tính); 2. Cũng gọi là Lục kinh: Dịch, Lễ, Nhạc, Thi, Thư và Xuân thu. 318 Tức là binh thư Tam Lược và Lục thao , Tam lược có sách, theo như cũ đã đề, do Hoàng Thạch Công soạn - Lục thao là sách của Thái Công, gồm có Văn thao, Vũ thao, Long thao, Hổ thao, Báo thao, Khuyển thao. 319 Lúc ấy Lý Công Uẩn giữ chức điện tiền chỉ huy sứ triều Lê. 320 Chữ "Thăng Long" đời Lý là "Rồng lên" khác với nghĩa chức "Thăng Long" thời Giao Long là "Thịnh vượng". 321 Niên hiệu Lê Ngọa Triều -1. 322 Sáu việc mà Thành Thang nêu ra để xét mình khi trong nước bị đại hạn luôn bảy năm: 1) Chính sự không có chừng mực chăng? 2) Dân chúng không có nghề nghiệp làm ăn chăng? 3) Cung thất đồ sộ chăng? 4) Nữ sắc quá nhiều chăng? 5) Có tệ hối lộ và dân bị oan uổng nhiều chăng? 6) Hay nghe lời nịnh hót, làm mất lẽ công bằng chăng? ( Tăng bình lịch sử cương giám bổ , quyển 1, tờ 12a). 323 Nay thuộc tỉnh Hà Tây. 324 Phố sá, chợ búa. 325 Huyện Đông Ngàn nay không còn. Đất huyện Đông Ngàn cũ nay thuộc các huyện Tiên Sơn (Bắc Ninh) và Đông Anh, Sóc Sơn, Gia Lâm (Hà Nội). 326 Lời của Khuất Đãng nói với Tấn Cảnh Tông (Xuân thu đại toàn, quyển 4). Ở đây ý nói vua sáng nghiệp nhà Lý dựng chùa Chân Giáo, đến vua cuối cùng nhà Lý lại kết quả bằng việc thắt cổ ở chùa này (xem thêm Chb. VI, 3 chép việc Trần Thủ Độ giết Lý Huệ Tông). 327 Gia phả của họ nhà vua. 328 Chức quan được đặt từ thời Lý. Thường dùng để đi sứ, ngoại giao. 329 Chức quan chỉ huy quân đội đứng đầu một vệ ở thời Lý, khoảng 2000 người. 330 Tên là Đán, em Chu Vũ vương, giúp Chu Thành vương, giết Vũ Canh, con chúa Trụ, là kẻ đã cùng Quản Thúc và Thái Thúc nổi dậy làm phản nhà Chu. 331 Quản Thúc Tiên và Thái Thúc Độ đều là em Chu Vũ vương, nhưng dựa vào thế Vũ Canh, con chúa Trụ, phản lại nhà Chu. Chu Công Đán phải đi đánh dẹp, diệt Vũ Canh, giết Quản Thúc, bỏ tù Thái Thúc; loạn mới yên. 332 -nt- 333 Tên gọi Thế Dân, là con thứ Đường Cao Tổ và là em Kiến Thành và Nguyên Cát; trị vì từ năm 627 đến năm 649. 334 Kiến Thành và Nguyên Cát đều là anh Thế Dân (Đường Thái Tông). Cả hai đều mưu giết em vì lòng ghen ghét; nhưng lại bị Trưởng Tôn Vô Kỵ và Uất Trì Kinh Đức là bộ hạ của Thế Dân giết chết ( Tăng bình lịch sử cương giám bổ , quyển 19, tờ 6). 335 -nt- 336 Chỉ Lý Thái Tông. 337 -nt- 338 Uất Trì Kính Đức giết được Nguyên Cát để cứu cho chủ là Thế Dân (Đường Thái Tông) 339 Chỉ lời bình luận của sử thần Lê Văn Hưu, đại ý thế này: chế độ nhà Lý, con vợ cả phong tước vương, con vợ thứ đều phong là Hoàng Tử, mà không định rõ danh vị của hoàng thái tử, đến lúc vua cha ốm nặng, mới chọn một người trong hàng các con đứng 340 Cửa Tây kinh thành Thăng Long. 341 Tức làng Đông, vùng các làng Bưởi, nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. 342 Chức quan chỉ huy quân đội ở các đạo, vệ thời Đinh, Lý, Trần. Từ thời Lê trở đi chỉ còn là danh hiệu, phẩm hàm. 343 Quân bảo vệ thành nội ở kinh đô. Được đặt từ thời Lý. Mỗi quân có 30 đô, mỗi đô 80 người. 344 Do chữ "long hưng" (rồng lên) trong bài phú của Ban Cố: chỉ bóng về việc khởi nghiệp của đế vương xưa. 345 Dụng cụ cổ dùng để ghi thì giờ. 346 Chỉ việc rồng hiện ở nền điện Kiền Nguyên. 347 Một bức viết và vẽ bằng nét trắng, có phù chú, chứng nhận một đạo sĩ đã được vào giới tu đạo. 348 Xem chú giải ở Chb. I, 22-23. 349 Nay gồm đất các huyện Sông Thao, Thanh Hòa, Phong Châu, Tam Thanh tỉnh Phú Thọ. 350 Chữ "bệ", nghĩa đen là cái thềm. Thiên tử bao giờ cũng có thân thần cầm binh khí đứng dưới thềm, để phòng sự bất trắc. Bầy tôi tâu bày sự việc lên thiên tử, không dám nói thẳng, nên dùng danh từ "bệ hạ" ý nói do người thấp đề đạt lên người cao. Nguyên văn sử Cương mục chép là "do tôn đạt ti" thì không đúng, nên ở đây chúng tôi theo trong Từ Hải chép là "do ti đạt tôn" mà dịch nghĩa là do người thấp đề đạt lên người cao cho đúng nghĩa chữ "bệ hạ". 351 Chữ "thặng", nghĩa đen là binh xa. Dùng chữ "vạn thặng" để xưng hô vua, ý nói vua có hàng vạn cổ binh xa. 352 Chất còn lại của xương cốt người ta ở trong tro tàn sau khi thiêu xác. 353 Bảy thứ quý giá. Theo sách nhà Phật, "thất bảo" có đến bốn thuyết hơi khác nhau, nhưng thuyết nào cũng trình bày đủ bảy thứ và đều là những thứ sáng sủa, cứng rắn, như vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, hổ phách, san hô hoặc pha lê, trân châu,... 354 Lễ lập một người vợ vua lên làm hoàng hậu. 355 Chính mình cày ruộng. 356 Vàng phun lên, bạc nảy ra, giặc Nùng yên, người Phiên phục. 357 Khoảng năm 2357 đến năm 2256 trước công nguyên. 358 Khoảng năm 2255 đến năm 2206 trước công nguyên. 359 Câu này trích trong tờ chiếu của Vũ đế nhà Tây Hán cầu người hiền lương. Nguyên văn: "Đường Ngu hoạch tượng nhi dân bất phạm". Có hai thuyết giải nghĩa: 1. Nghiêu, Thuấn chỉ vẽ màu sắc và kích thước của áo mũ, mà không ai dám chế áo trái với hình dáng đã vẽ (Ung Thiệu); 2. Đồ mặc có vẽ hình dạng năm thứ hình phạt (Nhan Sư Cổ).