Trong các ngọn núi cao của Đại Việt, núi Tản Viên và núi Yên Tử được coi là những núi thiêng. Riêng núi Yên Tử được coi là đất tổ Phật giáo của Đại Việt. Núi cao trên ba ngàn thước (thước ta = 1069 mét) ngọn núi chót vót cao nhất vùng Đông Bắc, sừng sững nằm nhìn ra vịnh Bái Tử Long, quanh năm mây phủ nên cũng gọi là Núi Mây Trắng (Bạch Vân Sơn). Người Việt tin rằng, ở những ngọn núi thiêng, khí âm trong lòng đất nhờ chóp núi cao, nên đổ dồn về tụ hợp tại đó, và khí dương trên trời thấy khí âm tụ hội, cũng nương theo những đám mây trắng bay tới, để giao hoà. Sự thái hoà nhờ đó mà được xác lập tốt lành. Cũng vì lý do đó, đạo Phật đạo Lão đều tìm cách xây chùa, quán trên các ngọn núi. Thậm chí ở Trung Hoa đạo Phật đạo Lão xẩy ra chiến tranh để tranh chiếm núi thiêng. Ở Đại Việt, đạo Lão không phải quốc giáo nên may mẩn không xẩy ra chuyện đó. Và ở Đại Việt, cũng vì lý do đó, nên các ngôi chùa nổi tiếng phần lớn đều được dựng ở các danh sơn, ví dụ chùa Thầy ở lộ Quốc Oai, chùa Phật Tích ở Lộ Bắc Giang, chùa Quỳnh Lâm và chùa Yên Tử ở vùng Đông Bắc... Theo Sử ký của Tư Mã Thiên, đoạn viết về Nhạc Nghị có nói khi nước Tần thâu tóm toàn bộ Trung Nguyên, có Hà Thượng Trượng Nhân là một người rất giỏi đạo Hoàng Lão, là bậc chân nhân của một thời. Thời Nhà Tần các bậc chân nhân rất giỏi việc luyện đan, làm thuốc. Hà Thượng Trượng Nhân có học trò giỏi là An Kỳ Sinh. Sang thời nhà Hán, lúc đó nước ta còn bị nội thuộc nước Tầu, An Kỳ Sinh sang Nam Việt đến núi Mây Trắng, thấy núi nhiều linh khí đã lên đỉnh núi dựng am cỏ, ở lại luyện đan, chữa bệnh cho dân, từ đó núi có tên Yên Tử Sơn. Đến thời nội thuộc nhà Đường, Tôn Quang Đình viết bài ký “Động thiên phúc đại” có nói” Núi Yên Tử là một trong 72 phúc địa của nước Việt”. Nhưng, danh dự to lớn nhất đến với núi Yên Tử, phải kể từ khi vua Trần Nhân Tông của Đại Việt sau hai lần đánh tan giặc Nguyên, đã rời bỏ ngôi báu, mặc áo nâu sồng. đi chân đất lên núi thiêng tu Phật và thành lập thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Đạo Phật nhà Trần phát triển rực rỡ, góp phần tạo dựng nên văn hoá hài hoà Đại Việt. Hơn một chục ngôi chùa được dựng ngay trên đất Yên Tử. Núi thiêng đã toả khí lành từ bi lên khắp đất nước. Yên Tử đã trở thành tổ đình Phật giáo là một danh sơn bậc nhất nước ta...
Sau khi Phạm Sinh quay trở về Thăng Long tìm cha, sư Vô Trụ cũng quay trở về núi thiêng Yên Tử. Vị du tăng đã lang thang cả một đời, đi đến đâu cũng tìm hết cách xoa dịu nỗi đau khổ của người dân khốn cùng. Ông thấy mình đã già rồi, đã thấm mệt, tuổi già không cho phép ông tiếp tục để du phương khuyến thiện, hành phật sự. Ông quay lại suối rừng để làm việc cuối cùng, niệm phật, suy ngẫm tìm về với cái chân tâm vắng lặng của mình. Về cuối đời thiền sư Huệ Quang đệ tam tổ Trúc Lâm đã gần 80, già lắm rồi, ông tu tại chùa Hun, Côn Sơn. Lúc đó Vô Trụ là một chú sa di chừng mười tuổi, suốt ngày đêm hầu hạ tổ. Lúc nào chú cũng khoanh tay trước ngực rất lễ phép, chẳng lúc nào sao nhãng công việc Hoà thượng già rất thương chú, thường gọi đùa là “Chú bé khoanh tay”. Hỏi đến chữ nghĩa kinh kệ, chú trả lời rất thông. Thiền sư Huệ Quang ngạc nhiên: - Ai dậy con học vậy? - Thưa tổ, các sư huynh dậy mặt chữ. - Thời giờ đâu con học? Thưa tổ, ban trưa, ban tối, lúc tổ mệt ngủ thiếp đi, con lấy que viết chữ lên đất. Viết mãi nên lu lu như in. - Con thử dọc một bài kệ nào cho ông nghe Chú bé lập tức đọc vanh vách: Tâm vương không tướng cũng không hình Mặt tựa ly châu vẫn chẳng minh Muốn biết đâu là “khuôn mặt thực” Ha ha! giữa trưa là nửa đêm. - Bài đó của ai? - Của ngài Tuệ Trung thượng sĩ. - Con hiểu thế nào? - Dạ, con không hiểu, nhưng con biết “Tâm” là điều quan trọng nhất của đức Phật. - Ai dậy con bài kệ? - Bẩm sư tổ, không ai dậy... Con suốt ngày đứng hầu tổ Con nghe tổ nói chuyện với khách, và con nhập tâm. Tổ Huyền Quang lấy làm lạ. Từ đó, tổ dậy cho chú bé học hành cẩn thận. Được một năm, sư Huyền Quang ốm nặng. Chú tiểu đêm ngày liền kề bên thầy. Có bận, nửa đêm sư tỉnh dậy, chợt nghe thấy bên giường có tiếng khóc sụt sùi. Nhìn ra mới biết tiếng khóc của chú tiểu. Sư nắm lấy tay chú bé bảo: - Con nín đi! Người tu hành đừng để cho tình cảm sai khiến. - Thưa tổ, con biết, nhưng tự nhiên nước mắt cứ chảy ra. - Dạo trước, ta đã giảng cho con bài “Sinh tử nhàn nhi dĩ”. (Sống chết, nhàn mà thôi) của ngài Tuệ Trung, con không nhớ sao? - Dạ, con còn nhớ. - Con nghe dây. Sau khi ta ra đi, con hãy đến học đạo với thiền sư Lãm Sơn. Ông ta là một ẩn tăng, ít nói, nhưng là bậc đắc đạo trong rừng thiền... Chú sa di mấy tháng sau, tìm đến núi Lãm Sơn lộ Bắc Giang. Thiền sư Lãm Sơn theo thuyết “vô ngôn chi giáo”. Hôm chú bé đến, sư bảo: - Tổ Huyền Quang là thầy ta. Ta nghe tổ nói ngươi đứng hầu mà thuộc lòng bài Tâm Vương, vậy đã có chút duyên với Phật rồi đó. Nhưng ta sẽ không giảng giải gì hết. Tự nhà ngươi phải tìm ra cái “bản lai diện mục” của mình. Sách đấy, kinh đấy, lục đấy, ngươi hãy tự đọc Đạo Phật có hàng ngàn cuốn sách, nhưng mỗi người ngộ đạo có khi chỉ nhờ vào một câu. Hãy suy ngẫm đêm ngày, cho đến lúc nào hết suy ngẫm và bừng sáng. Những lời của chư tổ thật ngược ngạo, bí hiểm, nhưng thực ra chẳng có gì bí hiểm. Chẳng qua chư tổ dùng lời khó khăn để chọn lựa người. Con đường đi đến chân giác thành Phật vốn xa lắc và đầy gian nguy, nên chi không thể thiếu chí khí và không được hèn nhát. Phải nhảy qua núi cao, thõng tay đi trên vực thẳm mới đến được bờ giác... Từ đó, chú bé chăm chỉ làm việc, đọc kinh và suy ngẫm. Chỉ có những giờ thiền định, chú mới được ngồi lặng lẽ bên thầy. Thiền sư Lãm Sơn chẳng nói gì, nhưng chú cảm thấy ánh mắt hiền từ ấm áp của thầy như luôn luôn ở bên chú, hộ niệm cho chú. Chú sa di cứ tự vật lộn một mình như vậy trong thời gian dài, cho đến khi thành niên, được thụ giới cụ túc (chính thức trở thành sư). Một bận, thấy đang đọc kinh, thiền sư Lãm Sơn hỏi:
- Này Vô Trụ, nhà ngươi đang đọc gì vậy? Bẩm hoà thượng, con đang đọc Phật Pháp. - Đức Phật tổ há chẳng nói, bốn mươi chín năm ta thuyết pháp song chẳng hề nói một lời nào cả... Vô Trụ sửng người, chưa biết trả lời ra sao. Hoà thượng liền nói. - Nhà ngươi đang mê. Thôi! Bỏ sách đấy. Hãy đến Yên Tử gặp thiền sư Vô Trước, ở đấy ít bữa, may ra đầu óc ngươi có sáng ra chút nào. Vô Trụ vâng lời thầy, khăn gói lặn lội mấy ngày đến chùa Vân Yên trên núi thiêng. Người thủ toạ bảo thiền sư Vô Trước ở am cỏ, trên đỉnh núi. Vô Trụ phải leo những bậc đá cheo leo, nửa buổi mới tới đỉnh mây mù, tới am cỏ. Trời mù gió. Mây trắng khắp chốn, như sữa trôi ngang núi. Rừng cỏ lau trắng xoá cong mình nhận cơn gió lạnh từ ngoài biển đông thốc vào. Sư Vô Trước đang tĩnh toạ trong lều cỏ hẹp. Vô Trụ không dám làm kinh động hoà thượng, người thầy tu trẻ quỳ trước cửa lều chờ cho đến lúc xong buổi ngồi thiền. Vô Trụ đã quỳ lâu lắm. Sương mù đỉnh núi làm quần áo ướt đẫm. kéo cái lạnh vào đến xương tuỷ, song người thày chùa vẫn kiên trì quỳ đợi. Gần sẩm tối, thiền sư Vô Trước mới bừng mở mắt, và hỏi. - Nhà ngươi từ đâu đến? Bẩm hoà thượng, thầy con là Lãm Sơn sai con đến. - à! Nhà ngươi đến làm gì? - Con đi tìm Phật Pháp. - Có đói khát lắm không? - Bạch hoà thượng. Con vô cùng đói khát. - Nhà có giầu có lắm không?... Có nhiều châu báu lắm không? - Bạch hoà thượng... Vô Trụ ngỡ ngàng như còn suy nghĩ. Thiền sư liền hất tay. - Về đi về đi! Nhà ngươi mê rồi. Nhà đầy châu báu còn đi tận đâu đâu... Về đi? Về đi? Sư Vô Trụ chợt bừng tỉnh. Người thầy tu trẻ ngay đêm hôm đó xuống núi. quay trở về Lãm Sơn. Thấy học trò bái lạy, hoà thượng Lãm Sơn hỏi: - Ngươi bái lạy ta cái gì? - Con biết ơn thầy vì thầy không giảng giải cho con. - Ngươi đã ngộ được cái gì? - Thưa thầy, con đã trở về nhà. Hoà thượng Lãm Sơn gật đầu. Ít lâu sau, Vô Trụ cuốn giẻ tẩm dầu lạc vào một ngón tay đốt cho cháy thành than mà vẫn ngồi thiền điềm nhiên. Sư nguyện tu theo hạnh đầu dà, môi ngày chỉ ăn một bữa, và di du tăng khắp miền đất nước. Sư gặp gỡ các vị thiền đức để học hỏi thêm về đạo. Sư muốn giúp đỡ nhiều cho mọi người, nên đã học thêm cả võ đạo, y đạo. Gặp năm mất mùa đói khát, giặc cướp nổi lên như ong, dịch bệnh truyền lan, người chết như ngả rạ, sư đi hành cước đến một ngôi chùa làng ở lộ Quốc Oai, đã dừng chân, ngày đêm xả thân chữa bệnh cứu đói cho dân làng, chữa khỏi bệnh cho nhiều người. Xong việc, ông định ra đi, dân làng chạy theo đồng thanh xin ông ở lại. Ông bèn dừng chân ở ngôi chùa quê nhỏ bé, hẻo lánh, cạnh cái đầm lớn tên gọi đầm Thiên nhiên. Chính tại ngôi chùa làng nhỏ bé bên bờ đầm ấy, sư cụ đã ra tay cứu giúp chú bé vô thừa nhận Phạm Sư Ôn. Nhưng kỳ lạ thay? Chú bé lại không đi theo con đường mà hoà thượng vạch ra. Thiên Nhiên tăng đã đi theo con đường nổi loạn. Sư Vô Trụ lúc đó chợt hiểu thế giới này họp bởi triệu ức những cơ duyên, có những duyên hợp để làm công việc huỷ bỏ, lại có những duyên hợp khác để làm việc xây dựng; dù ta có ý muốn làm thay đổi cũng chẳng được. Tuy nghĩ thế. nhưng khi gặp mẹ con Phạm Sinh hoà thượng lại ra tay cứu giúp cái thế hệ tiếp theo của những con người vô thừa nhận. Rồi Phạm Sinh lại cưỡng lại những thiện ý của sư cụ. Sư thở dài nghĩ: “Con đường của các bồ tát dạy ta là thế, dù có phải làm đi làm lại nhiều lần”. Thời gian thiền sư hành cước đến Thăng Long, ông đã kết thân với Sử Văn Hoa và cụ lang Phạm. Ở kinh đô sư mới hiểu đất nước đang biến chuyển với tốc độ thiên lý. Nhất là, gần gũi cụ lang Phạm, ông biết được nhiều chuyện cung. Ông bảo cụ lang: - Cư sĩ ạ. Chúng ta sinh ra vào thời mạt pháp. Mà lúc này, có lẽ đang vào thời hắc ám. Về thôi! Ta về với núi rừng thôi. - Chúng ta đã già rồi. Và có lẽ tôi cũng muốn về núi để viết một cuốn sách thuốc. Thế là hai ông già dắt díu nhau trở về núi thiêng Yên Tử.