Chỉ mục bài viết |
---|
Mowgli - Người Sói |
Trang 2 |
Trang 3 |
Trang 4 |
Trang 5 |
Trang 6 |
Trang 7 |
Trang 8 |
Trang 9 |
Trang 10 |
Trang 11 |
Trang 12 |
Trang 13 |
Trang 14 |
Tất cả các trang |
Chồng bà Messua đang bò lổm ngổm bới đất trong một góc nhà.
- Đó là số tiền mọn của ông ấy – bà Messua nói – Chúng ta không thể mang theo được cái gì khác.
- À phải rồi! Cái vật chuyền từ tay người này sang tay người khác mà chẳng bao giờ ấm lên được. Ở chỗ khác người ta cũng cần đến nó à? – Mowgli hỏi.
Người đàn ông chằm chằm nhìn chú bằng một ánh mắt tức tối
- Một thằng ngốc chứ quỉ quái gì nó – Ông ta lẩm bẩm – Có tiền, ta có thể mua được một con ngựa. Chúng ta ê ẩm hết người rồi, không thể đi bộ quá xa, và dân làng sẽ đuổi kịp chúng ta trong vòng một tiếng đồng hồ.
- Con cam đoan với bố mẹ rằng họ sẽ không đi theo bố mẹ, cho đến khi nào con thích. Nhưng nghĩ đến chuyện ngựa cũng có cái hay, vì mẹ Messua đang mệt.
Người chồng đứng dậy và buộc những đồng rupi cuối cùng vào thắt lưng. Mowgli giúp bà Messua trèo qua cửa sổ, và không khí mát mẻ ban đêm khiến bà phấn chấn lại một chút. Nhưng dưới ánh sao, Rừng hình như vừa tăm tối vừa hung hiểm.
- Bố mẹ biết đường đến Khanhiwara chứ?
Họ ra dấu là biết.
- Tốt rồi. Giờ thì bố mẹ nhớ là không có gì phải sợ cả. Cũng chẳng cần phải vội vã. Chỉ có điều, chỉ có điều bố mẹ có thể nghe thấy một khúc ca nho nhỏ trong Rừng, ở phía trước và phía sau bố mẹ.
- Mi có tin là thoát cái nợ thiêu sống, chúng ta lại liều mình trong Rừng lúc đêm hôm không? Nhưng thà bị thú dữ giết còn hơn bị người giết – Ông chồng bà Messua nói.
Còn bà Messua thì nhìn Mowgli và mỉm cười.
- Con bảo – Mowgli nói tiếp với cái giọng của Baloo khi con Gấu nhắc đến lần thứ một trăm cái Luật Rừng xưa xửa xừa xưa cho chú bé lơ đễnh – con bảo rằng không có kẻ nào trong Rừng nhe một chiếc răng hay giơ một bàn chân ra chặn đường bố mẹ, cho đến khi bố mẹ nhìn thấy Khanhiwara trước mặt. Người ta sẽ canh chừng xung quanh bố mẹ.
Chú sôi nổi quay về phía bà Messua:
- Bố ấy, bố không tin con, nhưng mẹ thì mẹ tin, phải không nào?
- Phải, chắc chắn rồi, con ạ. Con là Người, là Ma Quỉ hay Sói Rừng, ta cũng tin con.
- Bố ấy, bố sẽ sợ khi nghe anh em con hát. Mẹ thì biết và mẹ hiểu. Giờ thì bố mẹ đi đi, và đi từ từ thôi, vì hối hả vô ích: cổng làng đã bị vây kín.
Bà Messua nức nở gieo mình xuống trước chân Mowgli, nhưng chú run run xốc mạnh bà dậy. Thế là bà bíu lấy cổ chú, gọi chú bằng tất cả những cái tên trìu mến và tốt lành nhất mà bà tìm được, trong khi chồng bà nhìn khắp một lượt tất cả những ruộng đất của mình với ánh mắt thèm khát.
Họ đi xa dần về phía Rừng, và Sói Mẹ chồm ra khỏi chỗ nấp.
- Mẹ đi theo họ đi! – Mowgli nói – và hãy canh chừng sao cho tất cả Rừng biết là phải để cho hai người đi qua yên lành. Con muốn gọi Bagheera.
Một tiếng hú dài và trang trọng cất lên, rồi hạ xuống. Mowgli thấy ông chồng bà Messua chần chừ quay lại chực chạy trở về nhà.
- Đi đi! – Mowgli vui vẻ kêu lên – Con đã nói có thể sẽ có âm nhạc mà. Tiếng gọi ấy sẽ theo bố mẹ đến Khanhiwara. Đó là Ân huệ của Rừng.
Bà Messua cổ vũ ông chồng bước lên phía trước, và bóng tối khép lại phía sau hai người với Sói Mẹ. Lúc ấy Bagheera đứng dậy, gần như ngay dưới chân Mowgli, toàn thân run lên vì khoái cảm lúc đêm về, cái màn đêm làm cư dân của Rừng phát cuồng.
- Ta hổ thẹn vì anh em nhà chú – Nó vừa nói vừa chạy.
- Sao cơ? Chúng hát hỏng không ra sao à? – Mowgli hỏi.
- Ồ, hay quá đi chứ! Chúng đã khiến chính bản thân ta phải quên đi niềm kiêu hãnh, và, thề có Ổ Khoá Vỡ đã giải phóng cho ta, ta vừa đi vừa hát qua Rừng như đang đuổi theo tình ái ngày xuân! Chú không nghe thấy tiếng chúng ta à?
- Tôi còn có con mồi khác ở trước mặt. Hãy hỏi Buldeo xem bài hát có vừa ý lão không. Nhưng bộ bốn đâu rồi? Tôi không muốn cho kẻ nào trong Bầy Người ra khỏi rào đêm nay.
- Vậy thì cần gì bộ bốn? – Bagheera vừa nói vừa giơ lên lần lượt từng bàn chân, mắt rực lửa, cái giọng ro ro rung cao chưa từng có – Ta có thể giữ họ lại, chú em.
Rốt cuộc là có giết chóc chứ? Những bài hát, những thằng người leo cây, tất cả đã kích thích khẩu vị của ta. Ta là Bagheera! Bagheera! Bagheera!
Con Báo to nhảy lên như một con mèo tơ nhảy để vồ một chiếc lá úa đang quay tít trên đầu, nó đập phải đập trái vào chỗ trống, không khí bị quất mạnh réo lên, và nó rơi bốn chân xuống không một tiếng động, để rồi lại nhảy lên dữ dội hơn, tất cả các động tác ấy kèm theo một âm thanh nửa gừ gừ nửa gầm gầm, âm lượng phình ra như tiếng hơi phì trong nồi xúp-de.
- Ta là Bagheera, trong Rừng, trong đêm tối, và ta cảm thấy sức lực của ta. Ai là kẻ chặn đà ta lao tới? Chú Giống Người ạ, một cái vả của ta là một cái đầu nát bấy, bẹp dí như con ếch chết giữa ngày hè!
- Vậy hãy thử coi nào! – Mowgli nói, lần này bằng thổ ngữ của dân làng chứ không bằng ngôn ngữ của Rừng.
Tiếng nói của Giống Người làm cho Bagheera sững hẳn lại, đôi hông run rẩy oằn xuống dưới sức nặng của thân mình. Đầu nó cao đúng tầm đầu Mowgli. Một lần nữa Mowgli nhìn chằm chằm, như chú đã nhìn lũ sói non nổi loạn, vào chính giữa cái đáy mắt màu xanh lục ngọc, cho đến khi cái ánh sáng đỏ lộ qua tròng mắt xanh biếc tắt đi như ánh sáng một chiếc đèn pha mờ khuất qua hai mươi dặm biển, cho đến khi đôi mắt kia cụp xuống cùng với tất cả cái đầu to kềnh hạ thấp, thấp nữa, thấp nữa, và một cái lưỡi đỏ lòm đến chà chà vào cổ chân Mowgli.
- Anh, Anh, Anh! – Chú bé vừa lẩm bẩm vừa mơn trớn nhè nhẹ, nhịp nhàng suốt dọc tấm lưng đang cong lên – Yên nào, yên nào! Đó là lỗi tại màn đêm, không phải lỗi anh.
- Đó là do cái mùi của ban đêm – Bagheera nói với giọng ăn năn – Tất cả bầu không khí này cao giọng nói với tôi. Nhưng chú, làm sao chú biết nhỉ?
Không khí xung quanh một cái làng Ấn Độ dĩ nhiên là đầy những mùi hỗn tạp, và đối với những sinh vật chỉ tư duy bằng mũi, thì mùi làm chúng phát cuồng lên cũng giống như âm nhạc và rượu bia đối với con người. Mowgli vuốt ve Bagheera thêm mấy phút nữa, con thú nằm trên mặt đất, hệt như một con mèo trước bếp lửa, chân xếp lại trước ngực và mắt lim dim.
- Chú thuộc về Rừng, và cũng không thuộc về Rừng – Cuối cùng Bagheera nói – Còn ta, ta chỉ là con Báo Đen. Nhưng ta yêu chú, chú em!
- Họ để thì giờ trò chuyện dưới gốc cây – Mowgli nói, không chú ý đến những lời cuối cùng của con Báo – Buldeo chắc phải kể cho họ nghe không chỉ một chuyện. Chẳng bao lâu họ sẽ đến lôi người đàn bà và chồng bà ra khỏi bẫy và ném vào Hoa Đỏ. Họ sẽ thấy bẫy mở toang. Ôi chao! Ôi chao!
- Càng tốt, nghe này! – Bagheera nói – Máu ta giờ đã dịu lại, ta không còn lên cơn sốt nữa đâu. Hãy để họ nhìn thấy ta trong đó. Sau đấy sẽ chẳng còn ai ra khỏi nhà. Đâu phải lần đầu ta ở trong lồng, và ta không nghĩ rằng ta đây lại bị họ lấy thừng trói.
- Vậy anh hãy ngoan nhé – Mowgli vừa nói vừa cười.
Và chú cũng bắt đầu cảm thấy mình cũng táo gan như Con Báo đang chui vào nhà.
- Puaa! – Bagheera thở phào – Cái này làm cho Con Người ở đây sống hôi hám cả! Nhưng cái giường này hoàn toàn giống cái họ cho ta ngủ trong cái lồng thú của nhà vua ở OOdeypore. Nào, hãy kềnh một cái nào.
Mowgli nghe tiếng những chiếc đai giường răng rắc dưới sức nặng của con vật đồ sộ.
- Thề có Ổ Khoá Vỡ đã giải phóng cho ta! Họ sẽ tưởng là vớ được con mồi bẫm. Đến đây ngồi cạnh ta, chú em, để có cả hai người chúc họ đi săn may mắn!
- Không, tôi đang có một ý nghĩ khác trong đầu. Bầy Người sẽ không biết tôi đóng vai trò gì trong cái trò này. Anh cứ việc đùa bỡn một mình. Tôi không muốn nhìn thấy họ.
- Thì tuỳ ý chú – Bagheera nói – Kìa, họ đến kìa!
Ở đầu bên kia làng, dưới gốc cây vả, cuộc hội họp đã trở nên mỗi lúc một ồn ào. Cuộc họp bế mạc giữa những tiếng hú man dại và một dòng thác đàn ông đàn bà cuồn cuộn trong phố, tay vung gậy gộc, tre nứa, liềm dao. Buldeo và Thầy Bà-la-môn bước đi đầu, đám đông kèm sát bên họ, la ó:
- Lão phù thuỷ và mụ phù thuỷ kia! Xem thử những đồng tiền nung đỏ có bắt chúng thú nhận không! Đốt cái lều trên đầu chúng đi! Chúng ta sẽ dạy cho chúng biết che chở cho những con Sói Tinh! Không, cho một trận nhừ tử cái đã! Đuốc đâu! Đuốc nữa đây! Buldeo, hơ nóng nòng súng đi!
Đến trước cái then cửa thì một khó khăn nổi lên: người ta đã đóng tịt nó lại một cách chắc chắn. Nhưng đám đông giật tung cả then ra, và ánh sáng những bó đuốc tràn ngập cả căn phòng; trong đó, nằm thẳng cẳng trên giường, hai chân vắt vẻo hững hờ thõng xuống một đầu giường, đen như đêm thẳm, kinh khủng như một con quỉ, Bagheera đang đợi.
Có đến nửa phút lặng yên tuyệt vọng, trong khi những hàng đầu tiên của đám đông, gần ngưỡng cửa, cào xé để vạch một đường rút lui. Trong giây phút ấy, Bagheera ngẩng đầu lên và ngáp – một cách chậm rãi, cầu kỳ và phô trương – như nó vẫn quen làm để hạ nhục một số kẻ bằng vai. Những riềm môi của nó vén lên và doãng ra, cái lưỡi đỏ quăn lại, hàm dưới hạ xuống, hạ xuống đến mức người ta có thể nhìn thấy đến tận nửa cái họng bốc khói, và những chiếc răng nanh khủng khiếp nhe ra, phô đến tận chân lợi trước khi khép lại, răng trên cụng vào răng dưới một tiếng kêu kim loại của những mỏ thép đóng vào ổ khoá bên lề két sắt. Loáng một cái, phố vắng tanh. Bagheera chồm một phát qua cửa sổ ra ngoài và đứng cạnh Mowgli trong khi dòng thác người hét lên, hú lên, trèo lên lưng nhau, đạp lên người nhau trong cơn hối hả và hãi hùng ai về nhà nấy.
- Họ sẽ không nhúc nhích cho đến tận sáng – Bagheera bình thản nói.
Còn bây giờ? Hình như sự lặng yên của giấc ngủ trưa đột ngột trùm xuống làng. Nhưng lắng tai, người ta có thể nghe thấy tiếng những thùng thóc kéo lê trên nền đất trong các ngôi nhà, chủ nhà đẩy chúng ra chặn cửa. Bagheera đã nói đúng: cho đến sáng, cả làng sẽ không nhúc nhích.
Mowgli vẫn ngồi im lìm nghĩ ngợi và gương mặt chú cứ mỗi lúc mỗi thêm u ám.
- Ta đã làm điều gì không phải chăng? – Cuối cùng Bagheera vừa hỏi vừa gại gại vào người chú.
- Rất tốt thôi chứ có gì đâu. Bây giờ hãy canh họ cho đến sáng. Còn tôi, tôi đi ngủ đây.
Mowgli chạy như bay về Rừng, ngả mình vắt ngang một phiến đá, ngủ suốt ngày và cả đêm tiếp theo.
Khi chú thức dậy thì Bagheera đang ở bên cạnh, và một con mang vừa mới giết còn nóng hổi nằm dưới chân chú. Con Báo quan sát chú một cách tò mò suốt thời gian chú sử dụng con dao, ăn và uống, cho đến lúc chú quay trở lại, hai tay ôm cằm.
- Người đàn ông và người đàn bà đã đi đến trước mặt Khanhiwara yên lành – Bagheera nói – Mẹ chú đã nhờ Tril báo tin như thế. Họ đã kiếm được một con ngựa trước lúc nửa đêm, cái đêm chú giải thoát cho họ, và đã đi rất nhanh. Như thế không đúng ư?
- Tốt! – Mowgli nói.
- Và cái Bầy Người trong làng của chú đã không nhúc nhích cho đến tận lúc mặt trời lên cao sáng hôm nay. Khi đó họ ăn uống và hối hả trở về nhà.
- Họ có thấy anh không, có thể do tình cờ?
- Có thể. Ta đã lăn mình trong bụi bặm đằng trước rào chắn vào lúc tảng sáng, và có thể bất chợt ta cũng hát lên cho riêng ta một khúc ca nho nhỏ nào đó. Bây giờ, chú em, không còn việc gì làm nữa. Hãy đi săn với ta và Baloo, bác ấy có những tổ ong mới muốn khoe với chú, và cả hai ta đều thích thấy chú trở về với chúng ta như ngày trước. Hãy thôi cái ánh mắt làm chính ta cũng phát sợ ấy đi. Người đàn ông và người đàn bà sẽ không bị ném vào Hoa Đỏ, và trong Rừng mọi việc đều suôn sẻ. Chẳng đúng thế sao? Ta hãy quên Bầy Người đi…
- Người ta sẽ quên họ… Chỉ một lúc nữa thôi. Đêm nay Hathi ăn ở đâu?
- Nó thích đâu thì ăn đấy. Ai mà trả lời thay cho Con Voi Lặng Lẽ được? Nhưng việc gì Hathi có thể làm mà chúng ta không thể làm được?
- Hãy mời lão cùng cả ba đứa con đến gặp tôi ở đây.
- Nhưng, thẳng thắn và thành thật, chú em ạ, bảo Hathi “đến” hay “đi” là không phải cách – không phải cách. Chú nên nhớ rằng lão là Chúa Rừng và lão đã dạy chú một Khẩu quyết của Rừng trước khi Bầy Người làm thay đổi ánh mắt chú.
- Cái đó không là gì hết. Tôi biết một Khẩu quyết đối với chính bản thân Hathi. Hãy nói lão đến tìm Mowgli – Con Ếch và nếu lão không nghe ngay, thì mời lão đến vì chuyện Cuộc Triệt Hạ ở khu đồng Burhpore.
- Cuộc Triệt Hạ ở khu đồng Burhpore – Bagheera nhắc đi nhắc lại ba lần cho chắc ăn – Ta đi đây. Đặt giả thiết xấu nhất, Hathi có thể tỏ ra khó chịu, khi ấy ta sẽ chịu bỏ săn một con trăng để thấy một Khẩu quyết khiến Con Voi Lặng Lẽ phải vâng theo.
Nó lên đường, để lại Mowgli đang chém xuống mặt đất những nhát dao giận dữ.
Trong đời chú, Mowgli chưa từng trông thấy máu người, cho đến lúc chú vừa thấy đây, và điều còn tác động mạnh hơn đối với chú – ngửi thấy máu bà Messua trên những sợi dây người ta trói bà. Mà bà Messua đối với chú tốt như thế, và trong chừng mực biết về Tình Yêu thì chú yêu bà Messua cũng sâu sắc như chú ghét tất cả phần còn lại của Giống Người. Nhưng dù chú ghê tởm Giống Người, ghê tởm sự ba hoa, nhát gan và tàn bạo của họ đến đâu, chú cũng không thể, để đổi lấy những gì Rừng có thể dâng hiến cho chú, nghĩ đến việc lấy đi một mạng người và lại cảm thấy mùi máu rùng rợn ấy xộc lên mũi. Kế hoạch của chú vẽ ra giản dị hơn, nhưng rộng lớn hơn, và chú bật cười khi nghĩ rằng chính một trong những câu chuyện mà lão già Buldeo kể tối hôm ấy dưới gốc cây vả đã gợi ý cho chú.
- Đúng là một Khẩu quyết – Bagheera thì thào vào tai chú – Chúng đang gặm cỏ ven bờ sông, và chúng đã vâng lời như một con bò. Nhìn kìa, chúng đã đến đây rồi.
Hathi và ba đứa con xuất hiện một cách lặng lẽ như thói quen của chúng. Hông, sườn chúng còn ẩm ướt bùn sông và Hathi tư lự nhá một cây chuối xanh non mà nó vừa dùng ngà nhổ lên. Nhưng mỗi đường nét trên tấm thân to rộng của nó cho Bagheera, kẻ chỉ ghé mắt một cái là nhìn ngay ra mọi sự, thấy rằng đây không còn là vị Chúa Rừng nói với một thằng Người Con, mà là một sinh vật run sợ vì phải trình diện một sinh vật khác không hề biết sợ.
Ba con voi chen vai chạy đằng sau cha chúng.
Mowgli chỉ hơi ngẩng đầu khi Hathi chúc chú “Đi săn may mắn”. Chú để cho nó đung đưa, rập rình, nhấc hết chân nọ đến chân kia một lúc lâu, trước khi chú cất lời và khi chú mở miệng là để nói với Bagheera chứ không phải với con voi.
- Tôi sắp kể một câu chuyện nghe được từ miệng người thợ săn mà hôm nay anh đã săn đuổi – Mowgli nói – Chuyện về một con voi rất già và rất khôn ngoan bị rơi vào một cái bẫy và bị cái chông nhọn chôn dưới đáy hố đâm toạc từ ngón chân hay là ở gần chỗ đó đến tận bả vai. Giờ vẫn còn một vết sẹo trắng.
Mowgli giơ tay ra, và vì Hathi bước tới, nên dưới ánh trăng, một vết sẹo dài màu trắng hiện rõ trên mạn sườn màu xám đá của nó, như dấu tích một làn roi thép nung đỏ.
- Người ta kéo nó ra khỏi bẫy để đưa nó đi – Mowgli nói tiếp – nhưng nó dứt đứt dây trói và bỏ đi và nó rất khoẻ. Cho đến khi lành vết thương, nó mới trở lại khu đồng của người thợ săn kia, vào ban đêm, đầy phẫn nộ. Và bây giờ tôi mới nhớ là nó có ba con. Tất cả những chuyện ấy xảy ra từ rất nhiều, rất nhiều mùa mưa trước, và ở rất xa đây, trong khu đồng Burhpore. Đến mùa gặt thì xảy ra chuyện gì hở Hathi?
- Ta và ba con của ta đã gặt cánh đồng ấy.
- Còn vụ cày tiếp theo vụ gặt?
- Không có vụ cày.
- Thế những người sống ở gần đám ruộng xanh tươi?
- Họ bán xới đi nơi khác.
- Và những túp nhà của họ?
- Mái nhà thì chúng ta đập tan, còn Rừng chôn vùi tường vách.
- Còn gì nữa?
- Ngần nào đất đai màu mỡ mà ta có thể chạy qua từ Đông sang Tây trong hai đêm và trong ba đêm từ Bắc xuống Nam, cả ngần ấy làm mồi cho Rừng. Chúng ta kéo Rừng xuống năm làng. Trong những làng ấy, và trên các vùng đất đai của họ, đồng cỏ và ruộng cày, đến nay chẳng còn lấy một người sống nhờ đất. Đó là Cuộc Triệt Hạ ở khu đồng Burhpore mà ta và ba con ta đã tiến hành. Còn bây giờ, chú Người Con, ta hỏi chú, làm sao cái tin ấy lại đến tai chú?
- Tôi nghe từ miệng một người, và bây giờ thì tôi thấy, ngay cả Buldeo đôi khi cũng nói thật. Việc đó làm rất hay, hỡi Hathi có vết sẹo trắng, nhưng lần thứ hai sẽ còn hay hơn vì sẽ có một con người chỉ huy. Bác biết cái làng của Bầy Người đã xua đuổi tôi chứ? Dân làng ấy lười biếng, phi lý và tàn bạo, họ chỉ biết bày trò chơi với lỗ miệng và họ giết những kẻ yếu nhất trong bọn họ không phải vì miếng ăn mà để giết thì giờ. Khi đã nhồi căng họng, họ sẽ ném ngay con cái họ vào Hoa Đỏ. Việc ấy tôi đã trông thấy. Để họ tiếp tục sống ở đây là không thích đáng chút nào. Tôi ghét họ.
- Thế thì giết đi – con nhỏ nhất trong ba con voi vừa nói vừa lấy đầu vòi dứt một lùm cỏ, đập vào hai chân trước để giũ đất cát rồi lẳng ra xa, trong khi đôi mắt đỏ của nó cứ liếc sang bên cạnh.
- Xương trắng! Để làm gì? – Mowgli giận dữ hỏi lại – Ta đâu phải là một con sói để nô rỡn với một cái đầu lâu dưới nắng? Ta đã giết Shere Khan và tấm da nó đã thối rữa trên Phiến Đá Hội Đồng, nhưng… nhưng không biết Shere Khan đi đâu, và ta vẫn luôn khao khát trả thù. Bây giờ ta muốn nhìn tận mặt bắt tận tay… Hãy thả Rừng vào làng, Hathi!
Bagheera run lên và nằm bẹp xuống đất. Nó có thể quan niệm được một cuộc xung phong bất ngờ vào con phố trong làng, những đòn đánh bên phải đập bên trái giữa đám đông, nếu như mọi việc đi đến chỗ tệ hại, hoặc dùng mưu mẹo hạ người trên luống cày vào lúc hoàng hôn, nhưng cái dự định xoá sạch một ngôi làng khỏi con mắt người và vật, một cách bình tĩnh, khiến nó kinh hoàng. Giờ thì nó hiểu tại sao Mowgli đã phái nó đi tìm Hathi. Ngoài Con Voi Lặng Lẽ từng trải bao nhiêu năm sống đó ra, không kẻ nào có tầm cỡ để tổ chức và hoàn thành một cuộc chiến tranh như thế.
- Cho họ chạy trốn như những kẻ đồng loại của họ ở Burhpore, cho nơi họ cày xới chỉ còn mưa cày xới, cho tiếng mưa rơi trên lá thay thế tiếng thoi đưa – Bagheera và tôi muốn đến ở trong nhà Thầy Bà-la-môn – và cho con Mang đến uống nước ở ngôi đền. Hãy thả Rừng ra, Hathi!
- Nhưng tôi… chúng ta đâu có xích mích với họ, và phải thịnh nộ điên cuồng vì một nỗi đau lớn lao mới đi tàn phá chỗ ở của con người – Hathi vừa nói vừa đu đưa người với vẻ do dự.
- Phải chăng các người là những kẻ Ăn Cỏ duy nhất trong Rừng? Hãy đưa đến tất cả bà con của các người. Để cho loài Hươu, loài Lợn lòi và loài Nilghai đảm đương. Thả Rừng ra, Hathi!
- Không có giết chóc chứ? Hai ngà ta đã đỏ lòm trong Cuộc Triệt Hạ ở khu đồng Burhpore, và ta không muốn đánh thức cái mùi đó dậy.
- Chẳng hơn gì tôi. Tôi không muốn xương họ làm nhơ mặt đất của chúng ta. Để họ đi tìm một chỗ ở mới. Họ không thể ở lại đây. Tôi đã nhìn thấy, đã ngửi thấy mùi máu của người đàn bà đã cho tôi ăn, không có tôi bà ấy sẽ bị họ giết. Chỉ có mùi cỏ mới trên ngưỡng cửa nhà họ mới xua được cái mùi ấy. Mùi ấy đốt cháy miệng tôi. Thả Rừng ra, Hathi!
- Chà chà! – Hathi nói – Vậy là giống như cái vết chông bỏng da bỏng thịt ta cho đến tận ngày chúng ta nhìn thấy làng mạc họ chết hẳn dưới mầm cỏ mùa xuân. Giờ thì ta hiểu. Cuộc chiến tranh của chú sẽ là cuộc chiến tranh của chúng ta. Chúng ta sẽ thả Rừng ra.
Mowgli vừa mới kịp lấy lại hơi – chú run bắn từ đầu tới chân vì căm giận – thì chỗ đàn voi vừa đứng đã trống trơn. Bagheera ngắm nhìn chú một cách kinh hãi:
- Thề có Ổ Khoá Vỡ đã giải phóng cho ta – cuối cùng con Báo Đen nói – chú có đúng là thằng bé con trần truồng ngày xưa ta đã lên tiếng bảo trợ ở Hội Đồng, ngày mọi người vẫn còn trẻ trung đó không? Hỡi Chúa Rừng, khi nào sức lực rời bỏ ta, Người hãy vì ta mà lên tiếng, vì Baloo, vì tất cả chúng ta mà lên tiếng nhé! Trước mặt chú, chúng ta giống như những đứa con nít! Những cọng cây răng rắc dưới chân! Những con nai mất mẹ!
Mowgli hoàn toàn bị chấn động vì ý tưởng Bagheera trong vai một con nai lạc mẹ. Chú bật cười, lấy lại hơi, rồi lại vừa cười vừa khóc, đến nỗi chú phải nhảy xuống cái ao cho tắt cơn. Thế là chú bắt đầu bơi vòng tròn, ngụp xuống trong ánh trăng để rồi ngoi lên trong bóng tối, y như Con Ếch mà chú mang tên.
Trong thời gian ấy, Hathi và ba đứa con chia nhau đi về bốn hướng. Đi khỏi đó mười dặm, chúng lặng lẽ bước từng bước dài xuống thung lũng. Chúng bước đi, bước đi hai ngày ròng rã – như thế là được những sáu mươi dặm đường rừng; và trong cuộc đi ấy, mỗi bước chân, mỗi nhịp vòi đung đưa của chúng đều được quan sát, ghi nhớ và bình luận bởi Mang, Tril, giòng họ Khỉ và tất cả chim muông. Rồi chúng bắt đầu gặm cỏ, và chúng thản nhiên gặm cỏ trong gần một tuần lễ, Hathi và các con của nó cũng như Kaa, Con Trăn Đá; chúng không bao giờ hấp tấp, cho tới khi nào đến lúc.
Sau thời gian ấy, tiếng đồn lan đi khắp Rừng – và không ai biết tiếng đồn ấy xuất phát từ đâu – rằng người ta tìm thấy thức ăn và nước uống tốt hơn nhiều trong thung lũng ấy thung lũng nọ. Lũ Lợn Lòi khởi động trước tiên – bọn này đi đến cùng trời cuối đất vì một bữa ăn ngon là lẽ đương nhiên. Chúng đi từng đàn, xô đẩy nhau trên những tảng đá; Hươu Nai theo gót, cùng với những con Cáo Rừng nhỏ bé sống bằng những con vật chết và sắp chết mà các bầy thú rải dọc đường; những con Nilghai béo lùn rùng rùng chuyển động từng hàng song song với lũ Hươu Nai và những con Trâu Rừng ở đầm lầy đi sau chót. Chỉ một sự cố nhỏ nhất cũng đủ làm chệch đường những đàn thú rải rác, chúng sẵn sàng đi theo vô số những kẻ lề mề cứ gặm cỏ, lêu lổng, uống nước rồi lại gặm cỏ. Nhưng chỉ lộ ra một thoáng lo âu là xuất hiện ngay một người trấn an. Một bận, đó là Sahi, con Nhím, mang theo đầy những tin tức về bao nhiêu thức ăn ngon ở xa hơn một chút nữa thôi; một lần khác, người ta thấy Mang đập cánh với những tiếng kêu khích lệ sà xuống một chỗ rừng trống để chỉ con đường quang; hoặc Baloo, mồm đầy rễ cây, khập khiễng đi dọc hàng thú do dự và nửa doạ dẫm, nửa đùa cợt, Con Gấu vụng về đưa chúng trở về chính đạo. Một số lớn thú vật quay gót, hay chạy trốn, hay không chịu đi tiếp, nhưng cũng còn rất nhiều con tiến về phía trước. Khoảng mười ngày sau, tình hình như thế này: lũ Hươu Nai, Lợn Lòi và Nilghai quay lại gặm cỏ trên một vòng bán kính từ tám đến mười dặm, trong khi ở vành ngoài bọn Ăn Thịt tranh giành cắn xé nhau. Và tâm của vòng tròn là ngôi làng với những hoa màu đang mùa hái gặt ở xung quanh và giữa đám hoa màu là người ngồi trên những cái chòi để đuổi chim chóc và những tên ăn trộm khác. Thế là lũ Hươu Nai chẳng còn dè dặt gì nữa, bọn Ăn Thịt siết chặt lại, buộc chúng phải tiến lên mãi về phía trung tâm.
Đúng vào một đêm đen, Hathi và ba đứa con của lão trườn ra khỏi Rừng, dùng vòi bẻ gãy chân những chiếc chòi.
Những chân chòi gãy lập tức và rơi xuống như những cọng độc cần đang ra hoa bị gãy, trong khi những người lao vội xuống đất nghe thấy ngay bên tai họ tiếng kêu òng ọc đùng đục của lũ voi. Thế là tiền quân của các đạo Hươu Nai kinh hoảng tan vỡ, toả vào tràn ngập những đồng cỏ và ruộng màu của làng; loài Lợn Lòi móng guốc sắc lẻm chuyên đào xới đi kèm với chúng và những gì Hươu Nai chưa làm đổ thì lũ Lợn kết liễu. Lúc lúc một tiếng hú báo động của những con sói lại làm rung chuyển các đàn thú, khiến chúng tuyệt vọng chạy xô khắp tứ phía, đạp lên lúa mạch mới mọc, san bằng bờ đất của những con kênh tưới nước. Trước lúc rạng đông thì sức ép trên mặt vòng vây yếu đi ở một điểm. Bọn Ăn Thịt rút lui, để ngỏ một con đường ở phía Nam, theo đó từng đàn, từng đàn Hươu Nai chạy trốn. Những con khác táo bạo hơn, ở lại trong những cánh rừng rậm rạp trên cao để kết thúc bữa ăn vào đêm hôm sau.
Nhưng công việc đã hoàn thành về cơ bản. Sáng ngày ra, dân làng nhìn thấy hoa màu của họ mất trắng. Đó là cái chết đối với họ nếu họ không ra đi, vi sẽ đến lúc họ sống kề bên cái Đói cũng như Rừng kề bên họ. Khi người ta lùa trâu đi ăn cỏ, những con vật đói khát này thấy đồng cỏ nhẵn nhụi sau khi Hươu Nai tràn qua, đã lang thang vào Rừng và dạt theo các bạn bè hoang dại; và khi hoàng hôn buông xuống, ba bốn chú ngựa lùn của làng nằm chết trong chuồng, đầu bị dập nát. Chỉ một mình Bagheera có khả năng hạ đòn như thế, và chỉ có Bagheera là dám xấc xược kéo lê cái xác cuối cùng ra khỏi phố như thế.
Dân chúng không còn bụng dạ nào mà đốt lửa ngoài đồng đêm hôm ấy.
Thế là Hathi và ba đứa con đi mót nốt những gì còn lại, và chỗ nào Hathi đã mót thì rà lại vô ích. Người ta quyết định sống cho đến Mùa Mưa bằng số thóc để dành làm giống và sẵn sàng đi tìm công việc ở đợ cho thiên hạ trước khi nghĩ đến chuyện gỡ gạc lại năm mất mùa này, nhưng khi người bán thóc nghĩ đến những giỏ đầy lúa mì của lão và phỏng tính giá tiền lão có thể đòi, thì đôi ngà nhọn hoắt của Hathi khởi sự phá đầu hồi ngôi nhà đất của lão và làm tan ra từng mảnh cái hòm gian bằng mây trét phân bò đựng thứ lúa mì quí giá.
Khi người ta phát hiện sự tổn thất sau cùng này, đến lượt Thầy Bà-la-môn lên tiếng. Ông đã khấn khứa Chư Thần của ông mà không nhận được hồi âm. Ông nghĩ làng có thể đã vô tình xúc phạm một trong các vị Thần Rừng, vì không nghi ngờ gì nữa, Rừng đang chống lại họ. Thế là họ phái người đi tìm vị tù trưởng của bộ lạc người Gon du mục gần nhất – đó là những thợ săn khôn ngoan vóc người nhỏ bé, da đen nhẻm, sống giữa Rừng, mà tổ tiên thuộc dòng giống lâu đời nhất ở Ấn Độ - những cư dân thuở trước của vùng này. Họ tiếp đãi người Gon bằng hết khả năng của họ, với tất cả những gì còn lại. Người này đứng co một chân, tay cầm cung, hai ba mũi tên tẩm độc giắt vào lùm tóc trên đỉnh đầu, vẻ kinh hãi pha lẫn khinh miệt trước đám dân làng lo âu và những cánh đồng bị tàn phá. Họ muốn biết có phải các vị Thần đời xưa tức giận họ hay không, và phải dâng lên các vị những tế vật gì cho thích hợp. Người Gon không nói năng gì cả nhưng ông nhặt lên một cành Kerala, thứ dây leo có quả đắng chát trông như quả bí dại, đặt nó nằm rối tung ngang cửa đền, ngay trước mặt vị thần Ấn giáo sơn đỏ mở trừng hai mắt. Khỏi cần phải hỏi cử chỉ của ông muốn nói gì. Dây rừng sẽ mọc lên ở chỗ họ thờ thần linh. Họ chỉ còn nước trốn đi, và càng sớm càng tốt.
Nhưng một cái làng dễ gì mà dứt được những dây nhằng mối nhợ của nó. Họ còn ở lại chừng nào còn sót vài thứ thực phẩm mùa hè; họ thử đi nhặt hạt dẻ trong rừng nhưng có những con mắt đỏ gay rình rập họ, những bóng đen chuyển dịch ngay trước mắt họ giữa ban trưa, và khi họ khiếp vía bỏ chạy về nhà, thì trên những thân cây họ mới đi ngang chưa đầy năm phút trước, lòng thòng vỏ cây bị móng vuốt của một bàn chân rất khoẻ nào đó xé rách tướp. Mặt khác, họ càng quanh quẩn trong làng, thì những con thú hoang càng táo bạo, chúng chạy tung tăng và rống lên trên những đồng cỏ bên bờ Waingunga. Họ chẳng còn bụng dạ nào mà dựng lại hay trát lại bức tường ngoài trông ra Rừng của những chuồng bỏ rỗng tuếch, lũ Lợn Lòi liền phá cho chúng đổ nát tan tành; những dây leo rễ có nhiều đốt lao ngay theo, ném những khuỷu tay háo hức của chúng lên mảnh đất vừa chinh phục được, và sau những dây leo là cỏ rậm sinh sôi.
Những người không có vợ con chạy trốn trước tiên, loan khắp gần xa cái tin làng đã cùng đường. Họ bảo, ai kháng cự nổi Rừng hay các vị Thần Rừng, khi chính con Rắn Mang Bành của làng cũng đã bỏ cái lỗ của nó dưới chiếc sân dưới gốc cây vả!
Sự giao tiếp của họ với thế giới bên ngoài càng giảm dần mãi cho đến khi xoá hẳn những lối mòn nhẵn thín đi qua khoảng rừng thưa. Cuối cùng Hathi và ba đứa con thôi không quấy động họ ban đêm với những tiếng kèn của chúng: chúng chẳng còn gì để làm ở đây nữa. Hạt thóc nằm dưới đất và hoa màu trên mặt đất đều biến mất cả. Những cánh đồng xa nhất đã mất cả hình dạng… Đã đến lúc phải ra đi.
Theo thói quen của người bản xứ, họ cứ hoãn đi hoãn lại mãi ngày lên đường. Chẳng bao lâu những trận mưa bắt đầu đổ xuống, và những mái nhà bỏ hoang ngỏ lối cho nước vào. Trên những cánh đồng cỏ, nước ngập đến mắt cá chân, và mọi loài cây cỏ ào ào xô tới sau những ngày hè nóng nực. Lúc đó họ ra khỏi làng trong bùn lội; đàn ông, đàn bà, trẻ con băng qua làn mưa buổi sớm mịt mù; và bằng một động tác tự nhiên, họ quay lại ném một cái nhìn vĩnh biệt về phía những mái nhà thân yêu.
Lúc gia đình cuối cùng lê bước dưới những đồ đạc nặng nề, đi qua rào chắn, người ta nghe thấy từ phía sau những bức tường tiếng răng rắc của những xà gỗ và mái tranh đổ sụp. Khoảnh khắc sau, vươn lên như một con bò sát đen sì, một cái vòi nhẵn thín hiện ra rải tung tranh rạ nát nhừ; và cái vòi lặn xuống và người ta lại nghe thấy một tiếng răng rắc đi sau một tiếng thét dữ tợn. Hathi vừa mới giật tung những mái nhà như người ta hái một khóm hoa súng dưới nước.
Nhưng một cái rầm nhà văng lên đâm phải nó. Nó chỉ đợi có thế để xổ ra hết sức lực, vì trong tất cả thú rừng, voi rừng nổi giận là con vật tàn phá điên khùng nhất. Nó xô đổ nhào một bức tường đất sét, bức tường nát vụn ngay lập tức và tan thành bùn vàng dưới trận mưa như thác đổ. Tiếp đó, nó vừa rống lên vừa quay người, lao vào những con phố hẹp, áp người vào những chiếc nhà bên phải và bên trái, lay những cái cửa long xòng xọc và những mái hiên lật ngược, trong khi ba đứa con lồng lộn ở phía sau, giống như ngày nào trong Cuộc Triệt Hạ ở khu đồng Burhpore.
- Rừng sẽ chôn vùi những chiếc vỏ hến ấy – Một giọng nói bình thản cất lên giữa đống vụn nát – Chính những bức tường vây quanh làng mới cần phải ném xuống đất.
Và Mowgli, mưa chảy xối trên hai vai và hai cánh tay trần, giống như một con trâu mệt đừ, từ một bức tường nhảy xuống, lấy lại thăng bằng.
- Việc nào cũng có lúc của nó! – Hathi thở phào – Ra tường vây, các con! Cúi đầu xuống! Đều một lượt! Dô ta, này!
Cả bốn đứng sát nhau cùng đẩy; bức tường vây đổ xuống, vỡ ra, tan vụn. Và những người dân làng kinh hãi đến lặng người, trông thấy trong khoảng tường vỡ hiện ra những cái đầu hung dữ lấm lem đất sét của những kẻ phá hoại. Thế là họ chạy trốn, không nơi trú ẩn, không gạo không muối, về phía đáy thung lũng, trong khi ngôi làng của họ bị băm vụn, nghiền tan, dẫm nát, biến mất ở phía sau lưng.
Một tháng sau, chỉ còn một gò đất mấp mô phủ một lớp áo xanh non cây cỏ là dấu vết ngôi làng; và đến cuối mùa mưa, tiếng sấm mênh mang của Rừng dữ dội gầm trên mảnh đất ấy, mảnh đất chưa đầy sáu tháng trước đã được lưỡi cày lật lên.