watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
02:27:0631/07/2025
Kho tàng truyện > Truyện Dài > Nhất Linh > Xóm Cầu Mới - Trang 28
Chỉ mục bài viết
Xóm Cầu Mới
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Trang 24
Trang 25
Trang 26
Trang 27
Trang 28
Tất cả các trang
Trang 28 trong tổng số 28
Phần thứ hai: (Cầu gẫy)

Phụ lục


Về lần tái bản năm 2002
Cuốn truyện dài Xóm Cầu Mới của Nhất Linh, thân phụ tôi, đã được ấn hành lần đầu tiên ở Sài Gòn năm 1973 bởi nhà xuất bản Phượng Giang do tôi chủ trương.
Sau biến cố tháng Tư năm 1975, khi ở trong nước sách của Nhất Linh không được phép lưu hành thì ở hải ngoại hầu hết các tác phẩm của ông đã được một số các nhà xuất bản cho in lại ở Hoa Kỳ.
Những năm gần đây, sách của Nhất Linh cũng như của các nhà văn khác thuộc nhóm Tự Lực Văn Đoàn lại thấy dần dà xuất hiện ở trong nước. Tuy nhiên, chỉ những sáng tác của Nhất Linh ra đời trước năm 1945 mới được ấn hành; còn những tác phẩm về sau của ông thì không những không thấy in lại mà ngay cả trong các sách bình luận văn học xuất bản ở trong nước cũng không thấy đề cập tới.
Đó là lý do tôi dự định cho tái bản hai tác phẩm cuối đời của ông, hai tác phẩm mà tôi may mắn còn giữ nguyên được bản thảo. Đó là hai cuốn Xóm Cầu Mới và Giòng sông Thanh Thuỷ.
Để cho quyển sách này được trung thực với nguyên tác, không phạm những lầm lỗi về ấn loát như trong lần xuất bản trước, tôi không tái bản bằng cách cho sao in lại từ ấn phẩm cũ, mà là khởi công đánh máy lại từ đầu dựa hoàn toàn vào nguyên gốc bản thảo.
Đánh máy non năm sáu trăm trang sách với khả năng đánh "mổ cò" của tôi, việc này vừa chậm vừa tốn công. Nhưng tôi thấy việc tự tay mình đánh máy lấy là cần thiết, vả lại cũng vui thích nữa.

Thứ nhất là rất khó tìm được một chuyên viên đánh máy nào có thể vừa đọc vừa đoán những hàng chữ nhỏ li ti trong bản thảo mà không sai ý tác giả. Tôi nói nhiều chữ phải đoán ý vì bản thảo được viết cách đây đã trên một nửa thế kỷ, nhiều nét mực đã mờ đi theo với thời gian [1] .
Thứ hai là trong suốt mấy tháng cặm cụi trước bàn máy vi tính, cận kề với những trang chữ bản thảo, gõ cọc cạch từng chữ từng chữ, tôi thực sự đã sống với ông nhiều nhất kể từ ngày ông ra đi cách đây đã non bốn mươi năm. Nhìn những hàng chữ viết tay của ông, những hàng chữ gẫy vụn, nhỏ nhí, vùi dập, những ký chú bên lề riêng tây, thân mật, tôi thấy rõ là khi đọc từ bản thảo tôi gần gũi tiếp cận với tác giả nhiều hơn là đọc qua ấn phẩm. Vừa đọc, vừa đánh máy vừa thưởng ngoạn tác phẩm này, khi thì tôi tách ra bình tâm đọc văn ông như một độc giả, khi thì tôi nhập vào bồi hồi nhớ tới hình dáng một người cha thân yêu và tưởng tượng ông ra sao khi ông viết tác phẩm này, ông vui ông buồn nổi trôi theo những nhân vật và tôi vui tôi buồn theo ông qua những hàng chữ.
Tôi hình dung một Nhất Linh vui. Hay ít ra cũng nhiều vui hơn buồn khi ông viết cái tác phẩm mà đã có lần ông định đặt tên là Vui buồn này. Các nhân vật cứ đua nhau mà mỉm cười (tôi tẩn mẩn đếm được cả thảy 269 chữ mỉm cười trong toàn tác phẩm). Và tác giả mỉm cười cũng nhiều lần không kém. Hẳn thế.
Rồi tôi cũng mỉm cười liên tưởng tới một sự kiện trớ trêu: 52 năm trước ông ngồi viết những hàng chữ bản thảo này ở Hồng Kông (Trung Hoa), 52 năm sau tôi đọc những hàng chữ đó ở Seattle (Hoa Kỳ). Đều là hoàn cảnh lưu lạc cả. Nhưng tâm trí của cả người viết lẫn người đọc đều qui về một cái huyện nhỏ ở quê nhà nằm bên con đường sắt Hà Nội - Hải Phòng thuộc tỉnh Hải Dương. Huyện Cẩm Giàng. Nơi ông đã tiểu thuyết hoá thành Xóm Cầu Mới [2] . Nơi tôi đã sống những ngày ấu thơ [3] .
Về hình thức trình bầy cuốn sách tôi cũng tận dụng bản thảo. Trước hết là cái bìa sách. Tôi để nguyên không sửa đổi nguyên trang đầu của bản thảo mà Nhất Linh đã tự phác cái bìa cho cuốn truyện tương lai của mình. Sau đó các hình vẽ của Nhất Linh trong bản thảo tôi cũng cho in đầy đủ.
Sau cùng, để cho cuốn sách thêm phần phong phú, tôi có nhờ hai nhà văn Nguyễn Thị Vinh và Võ Phiến viết bài đặc biệt để đăng trong lần tái bản cuốn Xóm Cầu Mới này. Nhân đây xin nhị vị nhận cho lòng biết ơn của chúng tôi.

*
Nguyễn Thị Vinh
Nhà văn Nhất Linh & Xóm Cầu Mới
Lẽ ra, tôi nghĩ phải viết cái tựa trên, như thế này mới đúng: "Nhớ về anh Tam & Xóm Cầu Mới". Có nghĩa là tôi nhớ lại tác phẩm XCM đã được nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam bắt đầu viết lại toàn bộ ở Hương Cảng trong hai năm 1948 và 1949, rồi sau đó lại viết lại và viết tiếp ở Sài Gòn, Đà Lạt cho tới 1957. Đồng thời, tôi cũng xin nhấn mạnh: Nhà cách mạng Nguyễn Tường Tam và nhà văn Nhất Linh là một. Văn học và chính trị, nơi ông, không hề tách biệt hay đối nghịch: Văn học hướng đến một nền chính trị độc lập, dân chủ; và chính trị nhắm tới một nền văn học tự do, nhân bản và khai phóng. Đặc biệt: Nhất Linh, người mà lúc sinh thời vẫn thích bằng hữu và các "đàn em", trong đó có tôi, gọi là "anh Tam", đã vui buồn ra sao khi viết tiểu thuyết XCM?
Kể từ dòng này trở xuống, tôi xin dùng chữ "anh Tam, chị Tam", với tất cả tấm lòng tưởng niệm đầy tôn kính.

Nỗi nhớ thường có điều quên và "nhớ lại" cũng không thể đồng nghĩa với "lại nhớ" được hết mọi chuyện. Nên hy vọng rằng ở "Nhà văn Nhất Linh & Xóm Cầu Mới", nếu có gì thiếu sót, xin quý anh và quý bạn chiến đấu thời lưu lạc ở Hương Cảng niệm tình mà thứ lỗi cho tôi. Trong không khí "văn nghệ" của bài viết, tôi tự giới hạn nhiều chi tiết liên quan đến một số nhà cách mạng, hoạt động chính trị, cùng các quan điểm đa dạng của quý vị ấy, bao gồm thân thế, sự nghiệp, đi đúng đường hay lạc hướng. Tôi chỉ viết dưới dạng Tâm Cảm, coi như một bài "bạt" gửi nhà xuất bản Văn Mới, nhân dịp gia đình họ Nguyễn Tường tái bản lần thứ nhất cuốn Xóm Cầu Mới:
Năm 1948, tôi sang Hương Cảng, nơi tôi ở là một căn nhà... không, phải gọi là một túp lều mới ổn. Túp lều của chúng tôi nằm trên một, trong nhiều các ngọn núi đá thấp. Vách ghép bằng các mảnh ván thùng, mái lợp cao su dầy, màu đen. Bên trong ngăn ra làm hai buồng nhỏ, buồng nào cũng có cửa sổ không lớn, nhưng đủ thoáng mát. Bếp ở phía sau lều, vách dựng sơ sài bằng các mảnh thùng sắt tây cũ . Nhu cầu nước, đã có con suối gần nhà, được những mỏm đá thiên nhiên bao bọc rất kín đáo, chúng tôi có thể ra tắm ở đây. Ông Woòng, người chủ của hai túp lều cho chúng tôi thuê, đã có sáng kiến lấy một ống cao su dẫn nước từ suối, cho chảy vào khu nhà bếp, nên việc nấu ăn, rửa bát của chúng tôi rất tiện.
Đời tôi từ bấy đến nay, thời gian qua đi già nửa thế kỷ; đã từng được ở những nơi nhà cửa cao rộng, đầy đủ tiện nghi, mà sao tôi vẫn không thể nào quên được túp lều (trên núi) của chúng tôi. Chao ơi, mỗi khi tắm, tôi chưa thấy có một vòi "hoa sen" nước nào có thể so sánh được với dòng suối ngày ấy. Tiếng suối reo, ào ạt suốt ngày đêm, hoà với tiếng u. u... u... của gió núi, khi thổi lùa qua những hốc đá, đã trở thành "bản nhạc núi" tuyệt vời. Nơi đây, không có hoa lá và ngay cỏ dại cũng chẳng mọc nhiều; dân cư ở xa, nên không cả mùi khói bếp. Không, không có mùi gì hết, tại sao tôi vẫn cảm nhận được mùi thanh khiết của núi đá, của nước. Không khí nhẹ nhàng quá. Phải chăng, tôi chỉ ngửi được bằng hai lá phổi, chứ không bằng mũi...
Tôi biết kể sao cho hết nỗi vui thích của tôi, mỗi khi ra suối tắm. Mặt trời đụng vào dòng nước đang chảy, vỡ tung, thành muôn vàn mảnh ánh sáng nhỏ lấp lánh đủ màu, loang loáng chảy ào ạt lên người tôi. Tôi tưởng như mình đang ở một xứ thần tiên, trong truyện cổ tích nào đó, tôi đã được đọc từ thuở còn bé!.
"Nhà của chúng tôi", nếu tính từ trung tâm thành phố Hương Cảng về, phải ngồi xe điện mất gần một tiếng. Đến trạm chót, còn phải đi bộ một thôi dài, tới đường Happy Valley gần khu Phảo-mã-tỷ (trường đua ngựa) đến chân núi. Khốn nỗi, lại mất khoảng hai mươi phút từ chân núi, leo ngược con dốc đá thoai thoải, mới lên đến "nhà" lều. Con đường này, mùa hè cũng như mùa đông, mới sáng tinh mơ đã có rất nhiều người dân lao động đến ngồi ven núi, đập đá thuê. (Thời ấy, có một số nhà cách mạng Việt Nam, từng bôn ba sang Tàu; qua Thượng Hải, Quảng Châu v.v.V Rồi trôi dạtt đến Hương Cảng, khi kẹt cũng phải mưu sinh tạm bằng nghề đập đá thuê ở đây).
Sở dĩ tôi phải kể dài dòng cảnh "trên núi" như trên, là vì: Trên bản thảo XCM, còn có tên là Bèo giạt, anh Tam đã ghi lại: "Hương Cảng, trên núi, lúc 01giờ 30 trưa, ngày 16 tháng 10 năm 1949". Bản thảo XCM, được viết lại lần đầu, ở Hương Cảng và Sường Châu. Sường Châu, hay Sheng Chou là một hòn đảo nhỏ, cách Hương Cảng một hay hai giờ tầu thuỷ, tuỳ theo chuyến chạy nhanh hay chậm. Nơi có gia đình ông Woòng, đã mấy đời, làm nghề cho các thuyền đánh cá trên đảo thuê bến bãi đậu thuyền. Nhà ông Woòng ở sát bờ biển, phong cảnh đẹp, không khí khoáng mát pha mùi nước biển. Gia đình ông, ai cũng hiếu khách, rất quý trọng các nhà chính trị, chí sĩ hay nghệ sĩ lưu vong. Ông Woòng để riêng hẳn một phòng cho khách ngụ, dù ở bao lâu cũng được. Nhưng, ai muốn ở chơi lâu, đều đề nghị với chủ nhà cho ăn riêng, tự nấu lấy bằng cái bếp dầu tây, bằng đồng. Vì thế người Việt Nam tại Hương Cảng thường hay ra Sheng Chou chơi (trong số này thời đó có anh chị hoạ sĩ Võ Lăng cùng con gái nhỏ, tên Hương Anh, cũng đã tới đảo Sheng Chou một thời gian để vẽ; anh Lăng là em ruột anh Võ Hải, bí thư của tổng thống Ngô Đình Diệm, thập niên 1960).
Anh Tam cũng từng vẽ phong cảnh Sường Châu. Giờ đây, mỗi khi có dịp nhìn lại những tấm bìa cũ, các tựa sách do anh Tam phác hoạ, làm mẫu cho nhà in "typo" của nhà xuất bản Đời Nay hay Phượng Giang, nằm trong bộ tài liệu sưu tập của Nguyễn Tường Thiết, con trai anh Tam, lòng tôi lại nhen lên một ánh lửa hồi ức, của que diêm kỷ niệm văn nghệ tưởng như đã tàn. Mẫu bìa XCM, anh Tam vẽ, tuần tự từ trên xuống dưới: "Nhất Linh, Trong Tự Lực Văn Đoàn, Truyện dài, Chữ ký của Nhất Linh 13.01.1950, Huy hiệu và tên nhà xuất bản Đời Nay, 1950". Các nhà phê bình văn học viết về nội dung, bố cục và bút pháp của XCM; còn riêng tôi, lại nhớ những ngày tháng được nhìn thấy nét "chữ con kiến bò" của anh Tam. Nhỏ, nhưng không tới nỗi quá khó đọc, chạy trên mấy trăm trang giấy bản thảo. Bản thảo đầu tiên của XCM, anh Tam thai nghén từ năm 1940 tại nhà riêng phố Hàng Bè Hà Nội đã mất hết trong chiến tranh, và tới năm 1948 mới được anh viết lại ở Hương Cảng...
Như đã kể, năm 1948, khi đến Hương Cảng, tại túp lều kể trên, tôi được gặp anh Tam lần đầu. Tôi không biết anh là nhà văn Nhất Linh. Khoảng một tuần sau, trong bữa cơm, "cả nhà" ngồi quanh cái bàn dài bằng gỗ ván thùng, do các anh đóng lấy. Nhân một câu chuyện tình cờ, khi biết anh là nhà văn Nhất Linh, tôi đặt bát cơm ăn dở xuống bàn, vội vàng, đến gần như vô lễ, tôi nhìn anh, lắp bắp hỏi: "Anh, anh là ông... Nhất Linh đấy hả?" Anh mỉm cười gật đầu, còn các anh cùng bàn thì bật cười thành tiếng. Tôi lại hỏi tiếp: "Thế anh... chính anh, viết cái cuốn Đoạn tuyệt đấy hả?" Lần này thì anh khẽ cười thành tiếng và trả lời "vâng!"
Hàng ngày, tôi ít dám nói chuyện với anh, bởi vì trên gương mặt anh toát ra một vẻ nghiêm khắc, trầm lắng, rất buồn bã. Ánh mắt luôn luôn như nhìn về một cõi xa xăm..., mọng lên nỗi chứa chất u sầu. Tới nỗi tôi có cảm tưởng, nếu có một tiếng động dù nhỏ, bất chợt vang lên, cũng đủ làm cho những màng nước trong mắt anh oà vỡ! Cặp môi anh có lúc rung rung, như đang nói chuyện với ai đó, vô hình, đôi khi lại thoáng nét nhẹ, thật nhẹ, như mỉm cười!
Không chỉ mình anh Tam, mà tất cả anh em trong nhà đều buồn; vì chúng tôi đang có một cái tang chung! Một chiến sĩ, chí sĩ, một nhà cách mạng hay một nhà văn và cũng là Bạn Chiến Đấu của chúng tôi. Người mới từ giã cõi đời, anh Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long, là em ruột anh Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Anh Long từ Quảng Châu về Hương Cảng, dự một phiên họp, nghenóibuổihọpnàygồm"đủmặt"từmấyphía,cócảvuaBảoĐại...Ôi!Buổihọpcuốicùngcủatácgiả"Mườiđiềutâmniệm"và"Trướcvànhmóngngựa"...!Họpxong,anhLongvộirờiHươngCảngđiQuảngChâu,chẳngmayđãmấtởtrênchuyếntầuhoảđó.Năm1948.
Thêm vào đó, "cảnh trên núi" nhà chúng tôi lúc ấy lại vắng đi mấy người, anh Đỗ Đình Đạo, anh Trần Văn Tuyên v.v., vì công việc chung cũng như việc riêng, đã trở về nước. Các anh khác đều bận việc, anh Bảo Sơn làm cho hãng hàng hải của Hoà Lan, tuốt dưới phố; anh Lễ làm cho nhà "băng", sáng đi, chiều về. May lúc ấy, nhờ Kim Anh, con gái tôi, năm 1948 mới được hai tuổi; chưa biết vui buồn là gì, thường luẩn quẩn bên anh Tam. Nơi nào có trẻ con, không khí sinh động, vui hẳn lên. Đôi lúc anh Tam bế Kim Anh, sửa lại giọng ngọng nghịu, bi bô tập nói của cháu; và thường đùa vui bằng cách sai vặt, thí dụ: "Kim Anh, đưa cho bác cái bật lửa!" Nếu cháu hiểu ra, làm được theo đúng ý anh, anh cười thành tiếng v.v. Như các anh khác, tôi cũng mừng, tiếng cười của người này, thường làm cho người khác vui lây, quên đi phần nào cảnh anh em, bạn bè chia lìa nhiều ngả, mất mát.
Sau khi được tin anh Nguyễn Tường Long mất, chị Long cùng với người con gái lớn của anh chị, là Minh Thư, vội sang Hương Cảng. Anh em đi đón chị Long và Minh Thư từ phi trường, lên thẳng trên núi. Hai ngày sau, mẹ con chị Long đáp tầu hoả đi Quảng Châu. Chắc để lo việc thu nhận di cốt của anh Long. Tôi không nhớ rõ.
Dù không gần gụi, nhưng mọi người thân của anh Tam ở quê nhà, cũng đoán được, chắc chắn anh Tam sẽ đau buồn về chuyện mất anh Long; anh sẽ xuống tinh thần không ít! Vì vậy chẳng bao lâu, chị Tam từ Hà Nội đã sang Hương Cảng thăm anh. Có chị trên núi, không khí nơi đây như tươi lên được đôi chút. Chị Tam kín đáo săn sóc anh, luôn tìm cách nhắc lại về thời anh làm báo, viết sách. Chỉ những khi đó, như một phép lạ, nét mặt anh vui, ánh mắt tươi sáng. Kỳ diệu thay, sức mạnh của văn chương và nghệ thuật! Tôi biết, văn nghệ không làm cho anh quên việc đất nước, nhưng nó làm cho anh tạm yên, để từng bước một bình tĩnh, lo toan nhiều chuyện lớn.

Tôi đưa chị Tam đi chợ "Trung Vàn Cái Xỉ", là chợ lớn nhất Hương Cảng, giống như chợ Bến Thành ở Sài Gòn. Chúng tôi bị nhiều người lớn nhìn ngó, trẻ con bu coi; họ thấy lạ mắt vì chiếc áo dài Việt Nam chị mặc. Tôi phải đi mua mấy thước lụa Thượng Hải, rồi dẫn đến tiệm đo, may áo Tàu "sường sám" cho chị. Từ những lần sau, ra phố, chúng tôi cùng mặc "sường sám", nên việc đi lại được tự nhiên, thoải mái. Chị Tam nói riêng với tôi: "Anh Tam yêu văn chương lắm, nhẽ ra anh không nên "đụng" vào chính trị, chính em. Chỉ viết văn, làm báo không thôi, cũng đã đủ thứ bận bịu rồi!"
Tôi cãi: "Nhưng tình hình đất nước như thế này! Rất cần đến những người như anh Tam góp công, góp sức, làm lơ sao đành, hả chị?" Chị Tam nói: "Thì cứ viết những điều mình cho là đúng, là lý tưởng của mình vào sách, cũng tốt thế, chứ sao!"
Tôi nhìn chị Tam với lòng kính mến. Một người phụ nữ không làm văn hoá, văn nghệ, chính trị... Chị chỉ lo "buôn tần, bán tảo", chăm sóc họ hàng hai bên nội, ngoại, nhất là giúp đỡ chồng con. Việc buôn bán cau khô của chị, trước sau cũng chỉ mong sao kiếm lời, để chồng yên tâm gánh vác việc xã hội, khỏi bận lòng về chuyện nhà, nuôi nấng các con ăn học. Thế mà chuyện chính trị, chị lại bảo: "Cứ viết vào sách, cũng tốt thế, chứ sao!"
Lời nói dễ hiểu mà chí lý. Mặt khác, tôi nghĩ là chị Tam ngờ ngợ, "nhìn ra", thế "lưỡng đầu thọ địch" của anh Tam, một bên là thực dân, một bên là cộng sản. Sau hai cái tang Khái Hưng và Hoàng Đạo, dường như chị e ngại cho... Song trên thực tế, sự đóng góp tuy gián tiếp nhưng tận tình của chị vào sự nghiệp văn hoá, chính trị của anh, theo tôi biết, không phải là nhỏ.
Tính anh Tam quen tự do như gió trời. Rày đây, mai đó. Đến nơi ở, cũng không có chỗ nhất định; vỏn vẹn chỉ hai bộ quần áo, giặt bộ này mặc bộ kia, được thứ hàng không cần tới bàn là, càng tốt; nếu không, vải bị nhàu một chút cũng chẳng sao. Anh không có tủ sách riêng, khi cần, chạy ra thư viện mượn. Người như thế làm sao có thể "chu đáo", gần gụi với gia đình vợ con cho được!
Những ngày ở trên núi với chúng tôi, mỗi lần đi chợ về, chị tự tay nấu các món ăn cho cả nhà. Tôi chỉ phụ với chị rửa rau, thu dọn việc vặt. Khi nào mua thịt bò, chị nhờ anh Tam giúp làm món "beefsteak", chị Tam khoe anh còn biết nấu súp "bouillabaisse", (nấu với nhiều thứ hải sản: tôm, cua, cá, sò v.v. rất ngon.) Mà ngon thật, y như ăn ở hiệu cơm Tây nổi tiếng. Chị nói riêng với tôi: "Cứ để anh làm cho vui." Tôi cũng kể với chị: "Lúc chị chưa sang, dù buồn cách mấy, hễ sau bữa ăn trưa, anh Tam nhất định giành việc rửa bát." Anh Nguyễn Gia Trí cũng phải bảo nhỏ tôi: "Để anh làm cho vui." Sau này, tôi mới biết tính anh Tam, không chỉ lúc ở Hương Cảng, dù ở đâu anh cũng thích làm một vài món ăn, rửa bát, quét nhà. Anh bảo: "Đó là cách nghỉ ngơi, giải trí của tôi!" Thường buổi chiều, lúc chị không ở cùng, anh không ăn cơm, chỉ tự nấu lấy vắt mì khô, với ít tôm khô và rau cải. Anh ăn mì, uống ly bia xong, yên lặng nằm nghỉ, chẳng chuyện trò với ai, trừ khi có các anh em ở xa đến mở buổi họp, cần có anh.
Tôi thấy hình như anh thích ở những nơi đồi núi và thích nghe tiếng suối. Sau này, ở Sài Gòn, anh cũng thường hay lên Đà Lạt, để được sống bên suối Đa Mê...

Cách nhà bếp không xa, ngay phía trước dòng suối "không tên", có một hang đá; cửa hang rộng chừng sáu thước, cao gần hai thước, khá sâu, nhưng thoai thoải thấp dần, thấp dần. Từ ngoài cửa vào, khoảng bốn năm thước là đã bị đụng đầu, không đi tới thêm được. Nền đá phía dưới rộng, sạch sẽ và mát lạnh. Vào mùa hè, cả nhà thường vào đấy đọc sách báo, bàn chuyện chính trị. Nếu muốn có thể nằm lăn ra ngủ, nghỉ, chỉ tội, hơi đau mình một chút vì mặt đá lồi cồi, không trơn phẳng.
Phía trước hang, một khoảnh sân, lộ thiên; không biết bằng cách nào, mầm cỏ từ đâu lạc tới, đâm chồi trong các kẽ đá; mọc lên từng đám cỏ xanh non, tươi mát, lả lướt đùa rỡn trong nắng gió. Tôi thầm nghĩ: "Đây là một, trong các món quà tặng của Trời, đã cho muôn vàn sự sống nẩy sinh trên trái đất này!" Một thân cây không lớn lắm, nhưng già cỗi, mọc ghé bên bờ sân, nghiêng ra ngoài vực; vực không sâu, có thể đi men men xuống. Bên dưới, rất nhiều ốc sên, chẳng có gì đẹp, nên không ai buồn xuống đó. Anh Nguyễn Gia Trí thường đem giá gỗ, ngồi vẽ dưới gốc cây. Cũng ở nơi đây, tôi đã ngồi làm mẫu, để anh vẽ "portrait". Tấm tranh này, sau anh phải bán cho ông bà Lãnh sự Anh ở Hương Cảng, khoảng năm 1948 hay 1949.

Chị Tam mua một chiếc ghế vải, có thể ngồi hay nằm tựa và chiếc bàn nhỏ, kê ở trong hang đá, rồi gọi nơi đó là "nhà mát". Anh Tam đem vào nhà mát một chiếc cặp da đựng bản thảo XCM cùng với bình thuỷ nước sôi, cà phê, vài bao thuốc lá hiệu "Bastos xanh", một cái gạt tàn thuốc to gần bằng cái đĩa tây. Với ngần ấy thứ, anh có thể ngồi suốt ngày trong hang đá, viết, viết và viết... Cháu Kim Anh thích quanh quẩn chạy chơi loanh quanh chỗ bác Tam viết, rồi lại chạy ra chỗ bác Trí vẽ. Các anh chỉ vui thêm chứ không lấy thế làm phiền. Anh Trí còn bế cháu lên, cho cháu cầm cọ vẽ nghịch vài nét ngay trên tấm tranh đang vẽ dở của anh. Anh bảo: "Không hề gì, rồi sửa lại, được mà!"
Anh chị Tam, thường hay mời "cả nhà" đi ăn hiệu, (nhậm sà, uống trà), với đủ các thứ bánh trái, xíu mại, há cảo, bánh bao v.v., ăn xong lại cùng đi dạo cảnh Hương Cảng. Ai cũng biết đó là ý riêng của chị Tam bày vẽ ra thế, muốn để anh có dịp đi nơi này, nơi kia cho khuây khoả. Khi về, anh Tam bảo chị mua thêm vài thứ bánh, để làm quà cho một "bà già dưới chân núi". Căn nhà của bà, cũng vách ván thùng cũ, mái cao su đen. Cửa chính hướng về phía núi. Trước nhà có mảnh sân, trồng dăm luống rau cải, cà chua và một dàn mướp. Lại thêm cái chuồng gà nơi góc sân, nom hệt như mảnh vườn quê ở Việt Nam. Trông vào mà thấy ấm cả lòng! Ấm lòng hơn nữa, bà già chủ nhà lại là người Việt Nam, chừng bảy mươi, vóc dáng xem còn mạnh khoẻ. Bà thường xuyên mặc bộ quần áo Tàu rộng rinh, bằng vải dầy màu lam sẫm đã bạc phếch, vá vài ba chỗ. Mái tóc trắng xám, khô, xơ xác, cắt ngắn, lộ ra cái gáy đen đủi, nhăn nheo.

Vài năm trước đó, bà nhận ra chúng tôi là đồng hương, vì có một lần, anh Đạo và anh Sơn đã nói chuyện với nhau trong lúc đi ngang qua nhà bà. Bà chỉ nghe âm thanh của giọng mà nhận ra các anh là "Nàm dần", tức người An Nam. Hầu như bà đã quên hết tiếng mẹ đẻ; không còn nói và hiểu nổi ý nghĩa. Trừ mỗi một câu duy nhất, nói được mà lại phát âm lơ lớ bằng giọng Tàu: "Mìn dơ... i tó... ti dờ... dồ..." Nghĩa là "Mình ơi có đi Bờ Hồ...", một câu, trong bài hát vui, tếu. Đầu thế kỷ 20, bài này được giới bình dân ở Hà Nội và Hải Phòng ưa thích. "Mình ơi có đi bờ hồ. Cùng tôi chén kem kẹo dừa. Xin đừng, là đừng chê nhé. Trong túi tôi có mười đồng xu..."
Chồng bà, gốc dân Tàu nghèo, xưa kia từng lưu lạc sang làm phu mỏ ở Hòn Gai, Móng Cái. Gặp và lấy bà, rồi đưa nhau về Tàu. Chẳng may, ông mất trong thời chiến tranh Nhật Hoa. Bà chỉ có một người con trai. Năm gặp chúng tôi, anh ta khoảng trên bốn mươi, chưa vợ. Vóc người to cao, vạm vỡ. Hàng ngày phơi mình ngoài nắng gió, làn da bị bụi đá và mồ hôi bám két lại, sần lên, đen xám, như da của con voi con, tóc bờm xờm cứng đơ. Nhưng tính anh rất hiền, quá hiền đến gần như ngây ngô. Chúng tôi có hỏi han chuyện gì, anh ta cũng chỉ nhe hàm răng xỉn, cười cười, không trả lời. Mỗi buổi sớm, anh ta đi đập đá; mình bà mẹ ở nhà, vào ra trông coi, săn sóc vườn tược. Bà khéo trồng, nên rau, trái mọc xanh um; hoa màu dùng để nhà ăn và đem bán cho mấy người đập đá thuê, quanh nhà, cũng phụ thêm được tiền gạo chợ cho hai mẹ con. Thỉnh thoảng, bà già sai con trai đem lên núi cho chúng tôi, khi thì vài quả mướp, mấy quả cà chua, hay rau cải v.v. Một buổi xế trưa, chắc người con đi làm chưa về. Bà lọm khọm bưng lên núi một "thố", loại nồi đất có chiều cao, đựng canh chân giò, nấu với rau cải khô. Chẳng biết bà phải leo bao lâu, lúc đến trước cửa nhà chúng tôi, mới thoáng thấy anh Tam, bà đã quýnh quíu, vừa thở dốc vừa gọi: "Sần, sếng sáng, Sần... sếnh..." (Ông Trần, ông Trần ơ...) Anh Tam họ Nguyễn, nhưng hồi ở Tàu các anh em lại lấy họ Trần để gọi anh. Chưa dứt lời, bà vấp ngã, thố canh đổ vỡ tung toé. Anh Tam hốt hoảng, đỡ bà đứng lên, bà không chịu. Ngẩn người nhìn những miếng chân giò và rau rơi vãi trên nền đá, rồi cuống quít nhặt lên. Miệng không ngớt kêu rên bằng một tràng tiếng Tàu, chẳng vì đau cái đau mới ngã, mà hình như chỉ tiếc nồi canh. Anh Tam vội cúi xuống phụ bà nhặt, vừa vội vàng nói với bà: "Không sao, không sao đâu bà ơi, chỉ rửa đi, rồi đem nấu lại, vẫn ăn được mà. Vẫn ăn được mà...! Bà đứng lên đi, để tôi xem chân bà có đau lắm không...?"
Khi đã nhặt hết, không còn cọng rau và miếng thịt nào, bà mới chịu đứng lên, nhìn xuống; cũng may nhờ vải quần dầy, chỉ xước nơi đầu gối một chút. Bà đòi mang chỗ canh đổ về, để đổi phần canh của mẹ con bà lên biếu anh em. Ai ngăn sao bà vẫn cứ nhất định làm theo ý mình. Anh Tam nói: "Thì chúng ta cứ làm theo ý bà đi... Lòng thương nhớ đất nước của bà, bà gửi vào tình đồng hương đấy!" Anh H., một người bạn trẻ, hôm đó lại phải theo bà xuống núi để đổi lấy phần canh mới.
Đến "mùa hàng" cau khô, chị Tam phải trở về Hà Nội. Anh Tam, phần nào đã tạm ổn định tinh thần, viết văn lại và viết rất đều tay cuốn XCM, khiến chị yên tâm. Sau này, chị Tam còn sang Hương Cảng lần nữa. Ông Woòng mời anh chị qua Sường Châu ở chơi mấy tháng. Nơi đây anh đã nghe chị, người vợ và cũng là người bạn của anh,nhẹ nhàng, từ tốn khuyên giải. Anh viết tiếp, viết tiếp, viết cả văn chính luận, cho đến khi trở về Sài Gòn.
Buồn thay, trước tình hình đất nước dầu sôi, lửa bỏng vào những năm cuối đời viết văn của anh, "con người" cách mạng trong anh không tài nào chịu sống cách xa các anh em cũ, đã từng cùng anh kề vai, sát cánh đấu tranh, chia nhau từng nắm cơm, gói mì. Anh lại rời bàn viết. Tới ngày 07 tháng 07 năm 1963... Những ai có dịp sống gần, quen thân anh lâu, đều hiểu được tấm lòng anh: Anh mang chí hướng Tự Lực, như nhân sinh quan của vị anh hùng dân tộc Nguyễn Thái Học, lúc ngồi viết sách trên căn gác Nam Đồng thư xã ở Hà Nội: "Không thành công thì thành nhân!"
Nguyễn Tường Tam của tư tưởng và hành động Cách mạng Quốc dân, Nhất Linh của văn học, báo chí và Tự Lực Văn Đoàn, hoạ sĩ, nhà văn, nhạc sĩ v.v. Tất cả, trước sau, vẫn là anh Tam của XCM, nơi những người dân bao đời nghèo khó, lầm than trong cảnh "bùn lầy, nước đọng", như "gia đình bác Lê", rất cần đến tiếng nói chia sẻ, bênh vực họ từ phía: Nhất Linh Nguyễn Tường Tam.
Na Uy, Oslo tháng 4 năm 2002

*
Võ Phiến
Đọc bản thảo của Nhất Linh
Tên bài như trên chẳng qua là đặt cho gọn thôi. Nó mơ hồ, thiếu sót, có thể gây ngộ nhận. Tôi không từng "nghiên cứu", cũng chưa đọc được bao nhiêu bản thảo của Nhất Linh, để phát giác ra điều nào đáng kể trong sự nghiệp trước tác của ông.
Sự thực Nhất Linh đã viết nhiều sách, bản thảo những tác phẩm xuất bản trước 1954 không nghe nói có lưu giữ được không?, nhiều hay ít?, hiện tàng trữ ở đâu? Còn lại là cái phần được in ở Sài Gòn sau đó. Trong phần bản thảo ấy tôi cũng chỉ có dịp đọc qua một số ít - rất ít - mà thôi.
Dù vậy sự tiếp xúc với những trang chữ của bậc tiền bối lỗi lạc từng sống một đời đầy giông bão và kết thúc đau thương, sự tiếp xúc ấy gây xúc động và nghĩ ngợi. Ở đây chỉ là dăm ba ý nghĩ căn cứ vào một số trang bản thảo may mắn được xem qua thôi.

Niềm vui
Thoạt tiên người đọc để ý đến điều này: là Nhất Linh thường ghi thời điểm bắt đầu viết mỗi tác phẩm, thậm chí có khi mỗi phần trong tác phẩm:
    * Ở trang đầu bản thảo Giòng sông Thanh Thuỷ, có dòng chữ: "Khai bút ngày 26 tháng 11 năm 1960". Dưới đó, bằng nét chữ nhỏ hơn, màu mực khác hẳn, lại có câu: "Bắt đầu viết 28-11-60. Viết xong 28-1-61".

    * Ở bản thảo cuốn Viết và đọc tiểu thuyết, nơi trang ghi phác sơ lược thứ tự dàn dựng toàn tác phẩm - từ "Mấy lời nói đầu" đến "Kết luận" - ông đề ngày 21-4-52. Nơi trang 1 (Mấy lời nói đầu) ông đề ngày 10-5-52 [4] . Nơi trang 21 (Nói về các nhân vật) đề ngày 26-6 v.v.

Ghi ngày ghi tháng: Chưa đủ. Có những trường hợp Nhất Linh còn ghi kỹ cả giờ, cả phút nữa!
    * Ở trang đầu cuốn Xóm Cầu Mới (Bèo giạt) có hàng chữ: "Trên Núi, ngày 16 tháng 10 năm 1949, 1 g 30 trưa".

    * Ở trang phác hoạ bìa cuốn truyện dài Hai con mắt có dòng chữ: "Vụt nghĩ ra 26-4-1961 - 11 giờ (12 tháng 3 năm Tân Sửu)".

"Trên Núi" là một chỗ ở Hương Cảng. "Trên Núi", hai chữ ấy đưa ra thêm một chuyện nữa: Là, ngoài thời điểm, lắm khi Nhất Linh còn ghi địa điểm sáng tác:
    * Ở trang phác hoạ bìa cuốn truyện dài Vui buồn (trong bộ Xóm Cầu Mới) bản thảo viết lại lần thứ ba, có lời ghi: "Hàng Bè. 1951". Rồi ở trang đầu tiên cũng bản thảo này, bấy giờ lại mang tên Xóm Cầu Mới, có lời ghi: "Saigon - 1951. Viết lại lần thứ 4". Thì ra cùng trong một năm tác giả đã hăm hở viết lại đoạn sách này hai lần, ở hai nơi, và đã quyết định đổi cả nhan sách.

Bao nhiêu ghi chép ấy trên các bản thảo có ích lợi như thế nào? Ngày tháng, giờ giấc viết, nơi chốn đích xác mình từng ngồi viết ra câu nọ chuyện kia, những cái ấy một khi ghi nhớ rõ sẽ có đóng góp nào cho giá trị tác phẩm, cho công việc sáng tác? Tất nhiên những ký chú về hoàn cảnh biên soạn có ích lợi cho việc nghiên cứu văn học về sau; nhưng đối với chính tác giả thì tôi không có cơ hội nhận thức được cái ích lợi. Hoạ chăng có nhận thấy cái gì như thể một sự hài lòng, hứng chí, của tác giả khi bắt đầu và khi hoàn tất một tác phẩm.
Dù sao, những dòng chữ nói trên của Nhất Linh đã đưa tôi đến sự liên tưởng tới mấy sự kiện trong đời ông. Chẳng hạn:


    * Trước 1945 cứ mỗi lần Nhất Linh in xong một cuốn truyện mới, dù bà có bận rộn công việc đến mấy ông cũng yêu cầu bà bỏ hết mọi việc để cùng ông đi bãi biển Sầm Sơn, cùng sống với nhau riêng biệt một thời gian; trong cảnh sống của những ngày vui thú ấy ông tập cho bà hút thuốc, uống rượu, uống trà tàu [5] ;

    * äMột bức ảnh Nhất Linh nằm võng giữa rừng, chụp để "kỷ niệm ngày khai bút Xóm Cầu Mới bên dòng suối Đa Mê, ngày 13-10-57" [6] ;

    * Hôm 7-7-1963 ông tự tử. Việc làm đầu tiên trong cái ngày cuối cùng của mình là đích thân mang gói bản thảo tác phẩm chót đến nhà in Trường Sơn (do một người bạn văn chủ trương) để lo việc xuất bản [7] v.v.

Đọc những dòng chữ li ti ghi trên bản thảo của ông, rồi nghĩ lan man về chuyện nọ chuyện kia đã xẩy đến trong đời ông, tôi mường tượng ra hình ảnh ông Nhất-Linh-cầm-bút: một Nhất Linh hớn hở thấy rõ.
Việc vừa xuất bản được cuốn sách liền mang vợ (hay người yêu) đi Sầm Sơn, đi Đà Lạt, Vũng Tàu v.v. mấy hôm, việc ấy hồi còn trẻ chúng ta phần đông cũng có thể đã làm. Việc long trọng đề ngày "khai thần bút" viết tác phẩm đầu tay cũng vậy. Nhưng cái sôi nổi của tuổi trẻ qua rồi, công việc viết lách dần dần thành thói quen, có khi là thói quen nhạt nhẽo, buồn chán, có khi (tệ hơn) là lao tác nhọc nhằn (như mấy trang bắt buộc mỗi ngày phải nộp cho nhật báo); bấy giờ chắc không mấy ai còn hứng thú ghi nhớ đoạn văn này viết tại đâu, vào giờ nào phút nào. Chắc thế.
Nhất Linh khi phải rời toà báo ở 80 đường Quan Thánh Hà Nội ra đi, thì đã có hàng tá nhan sách ra đời, đã có hẳn một sự nghiệp văn học lẫy lừng. Thế mà gần như mỗi lần cầm cây bút lên ông đều hăm hở, đều lấy làm quan trọng. Ý này nẩy sinh trong đầu ông lúc mấy giờ, ngày nào, đoạn văn nọ viết ra vào hôm nào v.v. ông đều ghi nhớ. Ông mừng dòng chữ đầu tiên, ông mừng dòng chữ cuối cùng của mỗi tác phẩm. Trong xây dựng công trình kiến trúc thì đặt viên đá đầu tiên là chuyện long trọng, rồi vui mừng khánh thành càng long trọng. Trong xây dựng tác phẩm văn nghệ ở Nhất Linh, mỗi bước mỗi như thế.
Vừa rồi có nói đến những người thấy viết lách lâu ngày thành thói quen nhàm chán. Đó chẳng qua là một phương diện của thái độ tiêu cực. Lại có phương diện khác, ngược lại. Của các vị nhận thấy viết văn là việc cực quan trọng: là nhiệm vụ, là sứ mệnh, là cái nghiệp, là nghiệp vụ, nghiệp dĩ, nghiệp... chướng v.v. Một số các vị khác thấy trước tác là cái lớn lao, thiêng liêng, nhưng là việc cực nhọc, nguy hiểm (!), đòi hỏi sự hi sinh: trong văn có lửa trong thơ có thép có máu, cầm bút cũng như cầm gươm cầm súng...
Trước các bản thảo của Nhất Linh, không thể hình dung ra một con người uể oải chán ngán vì thói quen, cũng không thể nghĩ đến vẻ thê thảm của kẻ mang nghiệp chướng, và cũng không thấy ra hình ảnh một chiến sĩ lừ đừ... Tôi lại tưởng tượng ra một người đang khoái chí.
Khoái chí, tiếng ấy nghe có chỗ hỗn láo? Nó gợi một ý hồn nhiên của trẻ thơ, ít ra cũng một vẻ mừng rỡ trẻ trung. Đàng này, Nhất Linh bấy giờ đã thuộc lớp tuổi cao niên, trên đường văn nghiệp ông đã đến cái đỉnh của danh vọng. Thế nhưng mỗi lần viết ông còn náo nức. Ông viết mà sung sướng thấy rõ. Cảnh tượng ấy thật cảm động.
Vả lại trẻ trung hay trẻ thơ, náo nức hay sung sướng, thì có gì ngại phô bày? Ông Thánh Thán hể hả la lối om sòm khi gặp bất cứ niềm vui cỏn con nào, sao ta lại dè dặt vì niềm vui sáng tác? Năm 1950, ngày 13 tháng 3, Nhất Linh viết xong chương XII của bộ Xóm Cầu Mới. Bốn mươi hôm sau, ông ghi lên bản thảo mấy chữ: "Sáng 23-4 đọc lại: I am satisfied with me". Câu anh văn ấy, nếu dịch ra giọng Thánh Thán thì là: "Bất diệc lạc hồ". Cùng câu ấy, nếu đem ra diễn nôm theo giọng bình dân Nam bộ sẽ thành ra: "Tôi khoái tôi quá trời!" chứ còn gì nữa? Tự nhiên thôi.
Nhất Linh nhiều lần nói đến cái sung sướng ở kẻ khác. Cô Mùi là một trong mấy "cục cưng" của Nhất Linh. Ông thấu hiểu hết ruột gan của cô gái ấy. Lúc cô ta bắt gặp mấy chữ trong bức thư của Siêu bộc lộ tình yêu, Mùi bị một "cái sung sướng đột ngột nó như từ ở một nơi xa nào ùa vào tràn ngập cả tâm hồn". Nỗi sung sướng còn phát ra... mùi thơm! "Trong gió thoảng mùi lúa chín thơm và nỗi sung sướng của nàng, Mùi thấy cũng thơm như mùi lúa." [8]
Tôi tưởng tượng ngày 12 tháng 3 năm Tân Sửu lúc 11 giờ, khi cái ý về cuốn truyện Hai con mắt vụt thoáng qua trí Nhất Linh và ông cũng "vụt" ghi ngay lên giấy sự việc ấy; lại tưởng tượng lúc 1 giờ 30 phút trưa ngày 16 tháng 10 năm 1949 ở chỗ "trên núi" tại Hương Cảng khi ông ghi mấy lời vào trang đầu bản thảo Xóm Cầu Mới, thì hẳn là nỗi sung sướng trong lòng ông cũng đột ngột thơm lên chăng?
Ở đời lắm kẻ bảo mình có duyên tiền định đối với chữ nghĩa, không sao rời được văn thơ; tuy vậy gặp được một chứng cứ viết lách hào hứng mê say như Nhất Linh không dễ đâu.
Trong trường hợp ông, chứng cứ là bộ Xóm Cầu Mới. Khi bắt đầu đăng báo, tác giả viết "Mấy lời nói đầu", cho biết bộ trường giang tiểu thuyết ấy dài gần vạn trang, hiện đã thảo sáu cuốn, mong sẽ viết độ hai chục cuốn nữa, trong đó có truyện dày tới nghìn trang, có truyện hai ba trăm trang [9] . Dự định một vạn trang sách rồi không thực hiện được. Mười năm sau khi tác giả qua đời, bộ Xóm Cầu Mới được ấn hành làm hai cuốn, dày 713 trang.
Chừng ấy trang sách đâu phải thảo ra một hơi là xong. Xóm Cầu Mới lần đầu viết năm 1940 tại Hà Nội; lần thứ hai năm 1943 tại Quảng Châu (Trung Hoa), lần thứ ba năm 1949 tại Hương Cảng (Trung Hoa), lần thứ tư năm 1951 tại Hà Nội, lần thứ năm năm 1957 tại Fim Nôm (Đà Lạt) [10] .
Trong lịch sử văn học ở nước ta có được bao nhiêu câu chuyện viết văn làm thơ mà năm lần bẩy lượt như vậy? Đến lần thứ năm, cái việc viết vẫn còn đầy hứng thú. Cứ trông tấm hình kỷ niệm và dòng chữ bên dưới thì biết.
Đến đây có lẽ nên dừng lại chút xíu trước một chi tiết: Từ 1940 đến 1957 là 17 năm. Chừng ấy thời gian cho một pho truyện: lâu quá. Thật ra Xóm Cầu Mới là một chứng cớ mê say của Nhất Linh, không phải một chứng cớ viết chậm.
Chúng ta đã biết tác giả có ghi trên bản thảo Giòng sông Thanh Thuỷ rằng bộ truyện này bắt đầu ngày 28-11-60, viết xong ngày 28-1-61: Hai tháng. Bộ truyện gồm ba cuốn: cuốn đầu (Ba người bộ hành) dày 192 trang, cuốn sau (Chi bộ hai người) 135 trang, cuốn chót (Vọng quốc) 147 trang. Non năm trăm trang sách ấy viết trong một hoàn cảnh đặc biệt: Trước khi Nhất Linh bắt đầu bộ sách 17 hôm là ngày xảy ra chính biến 11-11-60. Truyền đơn Mặt trận Quốc Dân Đoàn Kết do ba nhân vật đứng tên: Phan Khắc Sửu, Nguyễn Xuân Chữ, Nguyễn Tường Tam. Mặt trận thất bại, Nhất Linh bỏ nhà trốn lánh, hơn một năm trời nay đây mai đó, gia đình không rõ tung tích.
Xóm Cầu Mới là sách viết chạy, Giòng sông Thanh Thuỷ là sách viết chui. Tình cảnh cùng gian truân cả. Cuốn sách viết nhanh lại là cuốn được tác giả thích ý. Ông ước mong sách được dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp. Trên trang đầu của bản thảo, ngoài bốn chữ Giòng sông Thanh Thuỷ ông còn tự mình dịch sẵn nhan sách ấy ra ba thứ tiếng khác: Thanh Thuỷ hà (chữ Hán), La rivière claire (Pháp) và Limpid water river hay Clear water river, hay Clear river (Anh).
Eudora Welty là một tiểu thuyết gia Hoa Kỳ đồng thời với Nhất Linh; bà vừa mới qua đời. Ngày nhỏ, bé Eudora chưa viết được truyện (dĩ nhiên!), chỉ ham nghe kể truyện, nghe mê mẩn. Lớn lên, khi được bảo cho biết rằng truyện là do có kẻ viết ra chứ không phải tự nhiên sinh ra như cỏ dại, bà kinh hãi và thất vọng quá chừng.
Bà Welty ấy nếu được biết luôn đến trường hợp viết truyện của Nhất Linh - viết đi viết lại, viết chụp giựt trong cảnh trốn lén - thì bà còn hồn vía còn bụng dạ nào dám viết tiểu thuyết nữa!

Nỗi khổ
Nhất Linh, hễ cứ viết là ông thấy vui sướng. Như vậy ông phải là kẻ sung sướng nhất đời, sung sướng không ai can nổi.
Đòi có nhà lầu xe hơi tiền muôn bạc triệu mới thấy sướng, đòi có quyền cao chức trọng mới thấy vui thì khó. Chứ đối với người chỉ cần một gian nhà nhỏ bên suối, với cơm ba bữa mỗi ngày, một cái võng, một ống tiêu, với một cây bút, thì hoạ chăng có ông Tần Thuỷ Hoàng sống dậy mới bắt người ấy khổ được thôi. Ngoài ra, ai bắt được?

Ấy vậy mà Nhất Linh rất khổ. Trong văn giới xưa nay hiếm ai khổ bằng ông.
Hoàng Xuân Hãn lần đầu biết Nguyễn Tường Tam vào dịp hai vị cùng tham dự vào phái đoàn Việt Nam trong cuộc họp với Pháp ở hội nghị Đà Lạt. Bấy giờ - năm 1946 - Nguyễn Tường Tam là bộ trưởng bộ Ngoại giao, chủ tịch phái đoàn Việt Nam (Võ Nguyên Giáp là phó trưởng đoàn). Nhận xét về phong độ Nguyễn Tường Tam, ông Hoàng Xuân Hãn viết: "Cử chỉ lễ độ, ăn nói chững chàng, trong buổi xã giao hội họp với kẻ chức trách, hoặc phái viên Pháp, ảnh đã có thái độ cử chỉ đoan nghiêm và đúng mức, không làm thẹn chức vụ bộ trưởng Ngoại Giao và chủ tịch phái đoàn Việt Nam" [11] . Về ngoại dạng, ông chú ý đến "đôi mắt to nhưng ra vẻ mệt nhọc hay chán chường".
Trong năm 1946 Nguyễn Tường Tam rời Việt Nam sang Trung Hoa ở cho đến 1951. Tình trạng tệ hơn. Ông Nguyễn Tường Bách nhận xét: "Anh Tam hồi ấy có lẽ vì mệt mỏi nên mắc bệnh suy nhược thần kinh. Mọi người chủ trương anh phải tịnh dưỡng một thời gian, không nên tham gia những hoạt động có thể đưa lại những kích thích quá mạnh" [12] .
Năm 1954, Nguyễn Ngu Í đến gặp Nhất Linh để thực hiện một cuộc phỏng vấn, ở Sài Gòn. Nhớ lại bức ảnh in trong một cuốn sách Đời Nay trước kia, so với ông Nhất Linh bây giờ trước mặt mình, Ngu Í "bùi ngùi vô hạn". "Anh dường như yếu nhiều, và chẳng những tay anh hơi run, mà phía dưới hai gò má anh cũng giựt lia, giọng anh liu líu, hơi nói chẳng được dài. Và cả người anh một cái gì mệt mỏi, chán chường" [13] . Run rẩy, giựt lia, liu líu v.v. Bùi ngùi vô hạn là phải.
Các vị trên đây dẫu sao chỉ ghi nhận cảm tưởng qua các cuộc gặp gỡ. Người con trai út của Nhất Linh - anh Nguyễn Tường Thiết - từng sống bên cạnh cha một thời gian dài sau 1951 đã biết thêm những điều thầm kín đau đớn. Tháng 4-1951, Nhất Linh với anh là Nguyễn Tường Thuỵ vào ở Sài Gòn. Anh em cùng ở một nhà. Nguyễn Tường Thiết kể: "Nhất Linh thường viết trong đêm khuya khoắt. Những khi giật mình thức giấc nửa đêm tôi thường thấy, qua khe cửa, đèn trong phòng ông còn bật sáng. Có đêm lũ chúng tôi lồm còm bò dậy vì có tiếng khóc trong phòng cha tôi. Tiếng khóc lúc đầu còn nhỏ sau lớn dần không kìm hãm được. Lũ chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau (...). Sau này tôi biết ông đã khóc âm thầm nhiều đêm vào những dịp khác. Không ai có thể đoán biết ông khóc cái gì, ngay cả mẹ tôi cũng không thể nào biết được. Nhưng sự khám phá này đã gieo vào tuổi thơ của tôi một ấn tượng mạnh mẽ, rằng cha tôi là một người cô đơn và đau khổ. Ngoài ra những giấc mơ kỳ lạ và kinh hãi cũng được tôi hình dung thấy qua giấc ngủ của ông, qua cách ông trằn trọc ú ớ trong đêm." [14]
Năm 1954 Nhất Linh sang Pháp chữa bệnh. Từ Pháp về, sống ở khu phố chợ An Đông ít lâu, rồi ông lên Đà Lạt ở luôn mấy năm. Vẫn theo lời Nguyễn Tường Thiết thì dạo này ông khoẻ mạnh.
Tuy vậy cái khóc của Nhất Linh thì vẫn còn.
Sau 1975, cùng sống với nhau ở tiểu bang Minnesota (Hoa Kỳ) vài năm, tôi được nghe ông Vũ Khắc Khoan nhắc đến một kỷ niệm về Nhất Linh: Một buổi chiều ở Sài Gòn ông Vũ có dịp ngồi nói chuyện với Nhất Linh, trong phòng chỉ có hai người. Bấy giờ là đầu thập niên 1960, Sài Gòn xôn xao không khí chính biến. Ông Vũ tỏ ý lo ngại tới sự an toàn của Nguyễn Tường Tam. Ông Nguyễn bảo rằng thực ra lúc này ông không trực tiếp hoạt động chính trị, chẳng qua bạn bè và đồng chí cũ có điều gì hỏi đến thì ông góp ý thôi. Ông Vũ nói mình biết có những người hoặc bị tù tội hoặc đã hi sinh tính mạng vì sự tin tưởng vào ông (Nguyễn) đấy. Không nghe đáp lại. Lát sau, ông Vũ quay nhìn, thấy ông Nguyễn đang khóc lặng lẽ.
Niềm đau khổ âm thầm của Nhất Linh, trước kia người thân trong gia đình không thấu hiểu nguyên do. Về sau, nguyên do tự hé lộ: gốc nguồn là từ những hoạt động chính trị.

Năm 1946 tại hội nghị Đà Lạt, một hôm Nhất Linh ốm, nằm trong phòng, Hoàng Xuân Hãn đến thăm, trò chuyện. Nhất Linh bảo: "Những việc chính trị, thôi để các anh làm. Còn tôi thì về với văn hoá mà thôi" [15] . Độ mười năm sau, khi sống tại Đà Lạt, có hôm bỗng nhiên ông buột miệng nói ra và Nguyễn Tường Thiết ghi nhớ: "Có một lần hiếm hoi ông đã tiết lộ với chúng tôi là thời gian khổ sở nhất trong cuộc đời của ông là lúc ông đảm nhận chức vụ bộ trưởng bộ Ngoại Giao trong chính phủ Liên Hiệp" [16] .
Với Hoàng Xuân Hãn, Nhất Linh bảo anh làm chính trị tôi làm văn hoá thôi. Sau đó, chính Hoàng Xuân Hãn về với văn hoá mà Nhất Linh lại dây dưa dính mãi vào chính trị. Với con, Nhất Linh bảo ông khổ nhất là lúc làm bộ trưởng. Sau đó cái khổ nhất lại đến với ông lúc ông đứng ngoài chính quyền, không còn giữ một chức vụ gì cả. Khổ nhất hẳn là việc tự huỷ mình.
Văn nghệ với chính trị là hai yếu tố chính trong đời Nhất Linh. Ngày 7-7-1963, vào khoảng 4 giờ chiều ông uống thuốc độc thì 11 giờ trưa trong lúc cha con trò chuyện lần sau cùng, Nguyễn Tường Thiết (không biết đến ý định quyết liệt của cha) đã gợi ý ông viết hồi ký; ông bảo chuyện ấy ông có nghĩ tới hồi 1958 ở Đà Lạt: "Cậu dự tính viết ba quyển: cuộc đời làm báo và viết văn của Nhất Linh, cuộc đời làm cách mạng của Nguyễn Tường Tam và quyển thứ ba cậu viết về hoa phong lan. Nhưng về đây cậu bận vì tờ Văn Hoá Ngày Nay nên chỉ viết được cuốn Viết và đọc tiểu thuyết, sau đó lại dính vào những rắc rối chính trị, không có tâm đâu mà viết. (...) Chuyện chính trị nhiều khi cái không khí nó bắt buộc mình phải tham gia, như cái tình trạng hồi Pháp thuộc, lúc đó, nếu cậu không đứng ra làm việc nước thì trong lòng áy náy chẳng làm được chuyện gì khác. Nhiều khi người ta bị đẩy tới guồng máy hoạt động một cách rất giản dị không ngờ, rồi như những bánh xe ăn khớp nhau, họ bị đẩy dần vào vòng trách nhiệm. Ngay cả hồi chơi hoa phong lan ở Đà Lạt, cậu vẫn thấy mình không thể đứng ngoài vòng trách nhiệm ấy, nên phải về hoạt động lại ở Sài Gòn. Chính vì thế làm chính trị lúc tiến thì dễ lúc rút thì khó" [17] .

Cách cái chết năm tiếng đồng hồ, Nhất Linh tóm tắt đời mình vào ba việc, trong đó phong lan là cái chơi, hai việc kia là cái làm: văn chương và chính trị. Một bên là niềm vui, một bên là nỗi khổ. Một bên muốn tiếp tục mà không được, một bên muốn rút lui lại không khỏi. Một bên đưa tới bộ Xóm Cầu Mới, một bên đưa tới bộ Giòng sông Thanh Thuỷ, hai tác phẩm cuối cùng của ông.
Xin trở lại mấy trang bản thảo.
Năm 1958, khi cho đăng Xóm Cầu Mới trên báo, tác giả viết "Mấy lời nói đầu", trong đó có câu: "Cứ đọc những truyện dài trên kia, các bạn cũng đã lĩnh hội được phần nào cái ý chính của toàn bộ, nghĩa là không có ý chính gì cả ngoài cái ý tả cuộc đời về đủ mọi mặt" [18] .
Sau đó, viết Giòng sông Thanh Thuỷ, Nhất Linh lại lấy làm quan trọng về cái ý truyện. "Sau đó", tức ba năm sau, ngày 10 tháng 1 năm 1961, hôm ấy ông đắn đo suy đi nghĩ lại, ông viết "ý truyện" một lần thứ nhất, rồi không vừa ý, ông gạch bỏ đi, lại viết "ý truyện" một lần thứ hai. Lúc ấy là 5 giờ sáng. Lần trước gạch bỏ bằng bút mực đen, xong lại gạch nữa bằng bút chì đỏ. Lần sau chỉ có nét gạch bằng bút chì đỏ thôi. Đến khi sách xuất bản, cả hai đoạn ý đều không được in ra.
"Ý truyện", viết đi viết lại nội dung gần như nhau. Xin lấy bản viết sau: "Mỗi người đều có một "kiếp" (karma); mọi hành động đều do những sức ngấm ngầm trong bản thân thúc đẩy. Cuộc đời mình đi vào con đường nào đều do sức thúc đẩy mà mình không tự biết ấy tuy mình vẫn tưởng là chính mình tự chọn. Khi đã đi vào con đường ấy, mình bị một "guồng máy vô hình" lôi cuốn, khó lòng thoát khỏi, chỉ việc noi theo, không nhận định được đâu là xấu đâu là tốt, đâu là sự thực đâu là sai lầm."
Mặc dù "ý truyện" không được in vào sách, ý truyện vẫn hiển lộ rõ ràng trong Giòng sông Thanh Thuỷ (Có lẽ chính vì sự hiển lộ quá rõ, quá đầy đủ trong truyện mà nó không cần được tách ra nêu ở đầu sách). Những ý tưởng (và cả từ ngữ) như kiếp, karma, xấu tốt đúng sai khó phân, guồng máy v.v. đều có mặt trong truyện nhiều lần. Chữ "guồng máy" được nhắc đến khoảng ba chục lần. Ở "ý truyện", guồng máy chỉ lôi cuốn thôi, trong pho truyện guồng máy còn hung tợn hơn: nó là guồng máy khốc liệt (trang 55, cuốn III), nó kẹp nát nhừ (trang 145, cuốn I), nó nghiền nát (trang 12, cuốn II) v.v.
Người đọc có cảm tưởng sau Xóm Cầu Mới Nhất Linh bị hoạ chính trị ám ảnh nặng. Nó uy hiếp cái viết của ông.
Sau vài chục năm viết truyện, Nhất Linh dần dần tìm ra, dựng nên, một lý thuyết về tiểu thuyết. Bướm trắng (1939) được viết theo một quan niệm mới, khác các cuốn trước. Đến năm 1942 ông bắt đầu viết hẳn ra một cuốn sách về các nguyên tắc hướng dẫn cách đọc và viết tiểu thuyết. Công trình sáng tác qui mô mà ông dự định bấy giờ được căn cứ trên những nguyên tắc ấy: Xóm Cầu Mới sẽ không có ý chính gì cả: trong hàng vạn trang sách sẽ chỉ có cuộc đời với nhân vật được mô tả cặn kẽ, thật đúng, thật sống động.
Dự định Xóm Cầu Mới vừa thực hiện non một phần mười thì ý truyện Giòng sông Thanh Thuỷ tràn tới, choáng hết tâm tư đầu óc ông. Ở đây có hẳn một ý chính, một quan niệm nhân sinh: mỗi người một kiếp, sức ngầm thúc đẩy, guồng máy lôi cuốn không thoát nổi, xấu tốt đúng sai không nhận định được...
Tư tưởng chỉ đạo ấy ám ảnh tác giả, khống chế tác phẩm. Giòng sông Thanh Thuỷ ba cuốn (Ba người bộ hành, Chi bộ hai người, Vọng quốc) vừa xong, ý truyện Hai con mắt lại vụt đến. Cuốn sau này chưa viết được bao nhiêu, nhưng ở mấy trang bản thảo đầu đã thấy Thanh và Ngọc: câu chuyện của các nhân vật Giòng sông Thanh Thuỷ được tiếp tục.

Cuốn Viết và đọc tiểu thuyết viết từ 1952 đến 1960, bộ Xóm Cầu Mới viết lại rồi cho in lên báo năm 1958. Đến giai đoạn này Nhất Linh vẫn giữ một quan niệm. Theo quan niệm ấy, tiểu thuyết muốn viết về gì cũng được: xã hội, luận đề, trinh thám, ái tình, luân lý, tình cảm, triết lý v.v. Được tất. Nhưng trước hết phải lo viết cho hay. Viết hay là tả đúng các trạng thái phức tạp của cuộc đời, đi thật sâu vào sự sống, tìm cho nhiều chi tiết về người và việc để tạo được những nhân vật sống động.
Sau giai đoạn nói trên, ở những tác phẩm viết sau 1960 người đọc có cảm tưởng luận đề nó xông vào ám ảnh tác giả, làm chủ tác phẩm. Người viết luôn nghĩ tới cái nghiệp của nhân vật này nhân vật nọ, cái guồng máy nó lôi cuốn anh này chị kia. Luận đề lại đóng vai trò lớn; biện giải, chứng minh, thành mối bận tâm lớn. Người làm chính trị khổ sở quay ra quấy phá người làm văn nghệ, quấy mạnh.
Nhất Linh gọi tên thủ phạm là cái guồng máy, tôi ngờ không hẳn vậy. Không chừng thủ phạm chính thị là... nạn nhân thôi. Ông vui sướng do tài năng, ông vừa viết vừa vui: đó là một phương diện của Nhất Linh. Về một phương diện khác, ông vừa làm vừa khổ, càng làm càng khổ: làm đây là làm chính trị, cái làm không thoát ra nổi.
Sự thực máy nó cuốn ông cách nào? Tôi nghĩ những lời ông thốt ra với con sát kề cái chết của mình là những lời tâm can, rất mực chân thành: "Như cái tình trạng hồi Pháp thuộc, lúc đó, nếu cậu không đứng ra làm việc nước thì trong lòng áy náy chẳng làm được chuyện gì khác." Rồi máy nó cuốn vào, vì sao mà ông không rút mình ra được? "Ngay cả hồi chơi hoa phong lan ở Đà Lạt, cậu vẫn thấy mình không thể đứng ngoài vòng trách nhiệm ấy, nên phải về hoạt động lại..." Nói cách khác, ấy cũng tại vì lòng ông lại "áy náy".

Trong đời Nhất Linh đã xẩy ra nhiều chuyện phù hợp với những lời thốt ra cuối đời ấy. Chẳng hạn chuyện ông thi vào trường Mỹ thuật, đậu đầu, mà học chẳng bao lâu lại bỏ học vẽ. Ba chục năm sau, Nguyễn Ngu Í hỏi lý do, Nhất Linh cho biết vì khi mang giá, cọ, màu về quê, thấy đời sống thôn quê khổ quá, tối tăm quá, cần phải làm gì giúp họ. Giá, cọ, mầu không giúp kiến hiệu bằng báo chí. Ấy là áy náy chứ còn gì nữa [19] .
Lại chẳng hạn những tiếng khóc đêm đêm trong phòng riêng tại nhà người anh, tiếng khóc một chiều trước mặt Vũ Khắc Khoan... Ấy cũng do áy náy thôi. Còn vượt xa hơn sự áy náy.
Nhất Linh không thể không làm cái này, không thể rút lui khỏi việc kia, là do lòng ông cả, do cái tâm của ông cả. E không vì máy móc nào. Trong hoàn cảnh Pháp thuộc ông không đành lòng vui với cái vẽ cái viết; nhưng đâu phải xung quanh ông ai nấy đều bị máy nó hút cả? Hoạt động đã suy nhược người ra, đã lâm bệnh, mà ông không thể tự tách ra ngoài vòng trách nhiệm; nhưng đâu phải bấy giờ thiếu kẻ trùm chăn kín mít "cao thượng" quá trời, hay lánh ra nước ngoài thần trí thảnh thơi quá cỡ.
Ở Nhất Linh, chẳng qua cái tâm nó gây luỵ cho cái tài. Chính ông hại ông, gỡ sao cho khỏi.
Một lần nọ tôi có dịp biết câu chuyện đã xảy ra cho anh Nguyễn Tường Thiết cách đây khoảng bốn mươi năm. Anh thi tú tài, vào khẩu vấn, môn Việt văn. Ông giáo sư xem thẻ học sinh, cho anh thí sinh họ Nguyễn Tường được chọn nói về tiểu sử một trong các nhà văn của Tự Lực Văn Đoàn. Bạn tôi chọn ngay Nhất Linh. Rồi anh tịt luôn, không nói được câu nào. Nói theo sách? Thì anh có học tiểu sử Nhất Linh trong sách giáo khoa bao giờ đâu? Còn kể lể về những kỷ niệm của đời sống gia đình thân mật giữa không khí cuộc vấn đáp ở trường thi thì kỳ cục quá.
Giả sử có cuộc khẩu vấn về tiểu sử mỗi người trước cửa thiên đình, chắc Nhất Linh - chính ông - lẫn lộn trong đám nhân vật lao nhao của mình, sẽ ấp úng than thở về nỗi kẹt máy liên miên, đến tàn đời. Các phán quan nhà Trời không thể không có cảm tình đối với một phát biểu khiêm tốn như thế. Nhưng chuyện ấy rối rắm, các ngài hẳn lấy làm khó tin.
Còn như bảo Nhất Linh chính bị mắc kẹt ngay vào cái tâm của mình, thì éo le quá. Nói vậy được sao?
Nói về Nhất Linh, bất giác nghĩ tới một tiểu thuyết gia khác, của Tây phương, hồi thế kỷ trước.
Mùa hè năm 1836 cậu bé Gustave Flaubert, bấy giờ 15 tuổi, tình cờ gặp bà Schlésinger. Hình ảnh người thiếu phụ ấy ám ảnh cậu ta mãi. Bà Arnoux - một nhân vật chính trong Giáo dục tình cảm (L’éducation sentimentale) - là biến dạng của bà Schlésinger. Năm 1843 Flaubert bắt đầu viết cuốn Giáo dục tình cảm, bản thứ nhất. Năm 1845, truyện viết xong, cất đấy. Nhưng G. Flaubert thì chưa thoát khỏi sự ám ảnh của đề tài này. Ông tiếp tục đào sâu, thu thập tài liệu, đọc sách dữ dội, tích tụ những quan sát, ghi chép hàng ngày. Tháng 9-1864 ông khởi công viết một cuốn Giáo dục tình cảm khác. Ngày 15 tháng 5 năm 1869, lúc 8 giờ sáng, ông ngồi vào bàn, viết luôn một mạch tới 5 giờ kém 4 phút sáng hôm sau, tức ngày 16-5-1869, thì xong tác phẩm. Sách được xuất bản ngay cuối năm ấy: kể từ ngày bắt đầu viết nó là năm năm, kể từ khi bắt đầu viết cuốn Giáo dục tình cảm thứ nhất (1843) là hăm sáu năm, kể từ ngày gặp Schlésinger phu nhân (1836) tức ngày đề tài được "thai nghén", ôm ấp, là ba mươi ba năm. (Bản viết xong năm 1845, tác giả bỏ qua luôn; mãi ba chục năm sau khi ông qua đời mới có người cho in). Cuốn Giáo dục tình cảm bản chính thức được ấn hành trong lúc sinh thời thì mỗi lần tái bản đều có sửa chữa thêm bớt liên miên. Ngay ở ấn bản cuối cùng trước khi G. Flaubert từ trần vẫn còn thấy nhiều ghi chú tu chỉnh của ông, chuẩn bị dành cho kỳ in tới: những chuẩn bị dở dang.
Từ nhân vật này nghĩ sang nhân vật nọ, không phải do một so sánh nào. Giả sử có thấy kẻ này xem ra say mê hơn người kia, tận tuỵ hơn, làm việc hết mình hơn v.v., thì cũng không thể kết luận giản dị và dứt khoát. Hoàn cảnh mỗi nơi mỗi khác, mỗi thời mỗi khác, tình hình xứ sở mỗi nước mỗi khác, người cầm bút đâu có thể cùng một cách thế như nhau được. Muốn so sánh, hoạ chăng chỉ có thể nhặt nhạnh nêu lên một số sự kiện cụ thể thôi.
Chẳng hạn về việc sửa chữa của G. Flaubert. Hồi truyện viết xong, tác giả có đưa bản thảo cho Maxime Du Camp xem. Ông bạn này nêu ra 251 chỗ góp ý. Đối chiếu với bản in, thấy có chỗ Flaubert nghe theo, có chỗ ông bỏ qua. Theo dõi từng phản ứng có thể nhận ra lắm điều lý thú trong thái độ, trong quan niệm viết của ông.
Ba mươi năm sau khi G. Flaubert qua đời, D. L. Dumorest kiểm điểm và thấy qua các bản in cuốn Giáo dục tình cảm có cả thảy 495 chỗ sửa chữa. Có người cho rằng con số ấy còn thiếu sót. Dầu sao cái quan trọng không ở số lượng sửa chữa mà ở nơi xu hướng sửa chữa: Flaubert thêm vào 11 chỗ, lại bớt đi 420 chỗ; ông bỏ đi 125 chữ mais (nhưng mà), 39 chữ alors (bấy giờ), 32 chữ et (và), 31 chữ puis (rồi thì) v.v. Suy nghĩ về những chỗ con con như thế, có thể nhận ra đặc điểm của một văn phong; rồi không chừng phân tích những thêm bớt, chọn lựa nọ có thể thấy chúng hàm chứa một xu hướng đưa tới các diễn biến mới trong quan niệm tiểu thuyết v.v. và v.v. Đây đó không phải có kẻ từng cho rằng G. Flaubert đã báo hiệu phong trào tiểu-thuyết-mới sao?
Nhất Linh ra đi đã bốn mươi năm.
Ở đây không có ý so sánh người này với người nọ, nhưng tránh sao khỏi sự nghĩ ngợi về thái độ của mỗi tập thể văn giới đối với mỗi văn nhân, về thái độ mỗi thể chế chính trị đối với văn nghệ. Sau bốn mươi năm, sách của Nhất Linh có lúc bị cấm đoán chê bai, có lúc được cho phép xuất hiện. Nhưng xuất hiện giới hạn, từng phần. (Hiện nay ở trong nước phần được in sau 1945 vẫn bị chôn).
Còn khối bản thảo của Nhất Linh mà bảo rằng đã được đọc, được nhận xét thì... Tôi thấy việc làm của mình chỉ là khều vào, chứ đã xem xét suy cứu gì đâu. Thật nhảm nhí, hài hước. Cho nên ở đầu bài viết đã có lời phân bua, đến cuối bài vẫn còn "áy náy", lại kè nhè. Tôi mơ ước: Giá có ai đọc kỹ, đọc thực sự...
Tháng 8. 2001


[1]Trưa ngày 29 tháng 4 năm 1975, tôi có đúng 15 phút để trở về lần sau cùng căn phố lầu chợ An Đông Sài Gòn, nơi thân phụ tôi đã sống những tháng ngày cuối, tính quơ hết những gì có thể mang theo được nhưng chỉ kịp gói hai tập bản thảo Xóm Cầu Mới và Giòng sông Thanh Thuỷ vào một bao nylon đem đi. Đến đảo Guam, soát lại tôi gần muốn khóc vì sau gần tháng trời trên biển, hơi nước mặn đã làm phai thêm nhiều nét mực.
[2]Tháng 5 năm 2001, nhân chuyến về nước để mang di cốt song thân chúng tôi về chôn cất nơi nguyên quán ở Hội An, chúng tôi có dịp đi thăm lại huyện Cẩm Giàng. Tôi có mang theo sơ đồ Xóm Cầu Mới do Nhất Linh phác hoạ trong bản thảo ra đối chiếu thì thấy chỉ con đường sắt, nhà ga, một dẫy phố Phủ là giống huyện Cẩm Giàng hiện tại, phần còn lại của sơ đồ có thể là hư cấu.
[3]Trong ký ức xa thẳm nhất của tôi về trại Cẩm Giàng là cái hàng hiên rộng và dài có rặng hoa ti-gôn rủ xuống và tiếng còi xe lửa rúc lên trong đêm khuya. Hai đoạn văn tả anh chàng Siêu thích sống ở căn nhà có hàng hiên và tiếng còi tàu ở Lăng Cụ Quận khiến tôi như sống lại những ngày rất xưa cũ.
[4]Hay ngày 20-5-52? Chúng tôi không đọc được (V.P.)
[5]Nguyễn Tường Thiết, Nhất Linh, cha tôi. Bài viết ở Sài Gòn, trước 1975, đăng lại trên tạp chí Văn Học Nghệ Thuật, California, Hoa Kỳ, bộ mới, số 3, tháng 7-1985.
[6]Tạp chí Văn Học Nghệ Thuật số đã dẫn. Sự thực về ngày chụp ảnh: đây không phải là ngày khai bút, mà là ngày bắt đầu viết lại lần thứ 5 cuốn Xóm Cầu Mới (Theo: Lời nhà xuất bản, Phượng Giang, ở cuối quyển II bộ sách này, trong bản in lần đầu ở Sài Gòn).
[7]Theo thư của bà Nguyễn Thị Vinh viết ngày 2-6-2001.
[8]Xóm Cầu Mới, Xuân Thu tái bản ở Hoa Kỳ, trang 17
[9]Tạp chí Văn Hoá Ngày Nay, Sài Gòn, số 1, ngày 17-6-1958
[10]Lời nhà xuất bản, trong bộ Xóm Cầu Mới, Phượng Giang xuất bản ở Sài Gòn
[11]Hoàng Xuân Hãn, Một vài kí vãng về Hội nghị Đà Lạt (Trích tập san Sử Địa số 23 và 24) Sài Gòn 1971. Tái bản tại Pháp do AVAC, năm 1987, trang 44
[12]Nguyễn Tường Bách, Việt Nam, những ngày lịch sử, 1981
[13]Nguyễn Ngu Í, Sống và viết, Ngèi xanh xuất bản, Sài Gòn, 1966
[14]Nguyễn Tường Thiết, Nhất Linh, cha tôi, trong Văn Học Nghệ Thuật , tạp chí xuất bản ở Hoa Kỳ, bộ mới số 3, tháng 7-1985.
[15]Hoàng Xuân Hãn, sách đã dẫn, trang 59.
[16]Tạp chí Văn Học Nghệ Thuật, số đã dẫn, trang 295.
[17]Nguyễn Tường Thiết, Nhất Linh, những giờ phút cuối, bài báo đăng lại trên tạp chí Ngày Nay, Texas, Hoa kỳ, số 28, tháng 6-1983.
[18]Tạp chí Văn Hoá Ngày Nay, tập I, ra ngày 17-6-1958, tại Sài Gòn.
[19]Nguyễn Ngu Í, sách đã dẫn

Nhất Linh

Xóm Cầu Mới

Phần thứ nhất: (Bình thản)

Chương 18

Cái thắt lưng


Bé khép cửa rồi đi vào buồng xép, lấy cái va li đặt trên ổ rơm. Sáng ngày nhờ bác Lê gái trông hàng hộ một lúc, Bé chạy vội sang bên phố Phủ để mua cái thắt lưng lụa mầu hoa thiên lý. Cái dây lưng ấy, từ khi Mùi chưa đi cân gạo, mỗi lần đi bán bánh cuốn qua cửa hàng bà Lục, Bé cũng không quên nhìn vào cho đỡ thèm. Cái dây lưng ấy đắt tiền quá và nhất là sang quá nên Bé không dám mua. Hôm qua Mùi vừa trả tiền công tháng và ngỏ lời từ tháng sau sẽ tăng lương vì chỗ Bé một mình phải thay Mùi bán hàng nên Bé vội chạy đi mua ngay; trong một lúc quá mừng rỡ nàng không cảm thấy việc mua chiếc dây lưng ấy là hoang phí và táo bạo. Nàng định đợi đến dịp Tết mới thắt đến nó, như vậy mẹ nàng không nỡ cự nàng hay làm đỏm.
Bé có tính sạch sẽ và săn sóc đến sự ăn mặc, trái ngược hẳn với mọi người trong nhà bác Lê, nhưng vì nàng ở làm thuê với Mùi cần phải thế nên ai cũng cho là tự nhiên, cũng như Tý từ ngày đi học cần phải ăn mặc tử tế và sạch sẽ. Mùi thỉnh thoảng cho Bé khăn yếm và áo cũ nên Bé ăn mặc lúc nào cũng có vẻ sang mà không tốn mấy tiền. Nhưng còn tự nhiên mua cái thắt lưng lụa màu thiên lý mà ngày nào cũng thắt nó, Bé thấy như thế là làm dáng quá và không khỏi bị mọi người chê bai.
Bé lấy chìa khoá mở va li rồi rút cái dây lưng ra lật khăn che mắt ngắm nghía, rồi đưa ra phía ánh sáng. Cái màu nó đẹp quá và đem về nhà nó lại đẹp hơn lúc còn treo ở hàng bà Lục. Bé thắt vào người và cúi xuống nhìn rồi thắt đi thắt lại đến năm sáu lần, mà lần nào trông cũng đẹp cả. Bé với cái gương soi. Cái gương bé quá, nàng phải dí mũi vào mặt gương, hơi thở làm mờ cả gương, và nàng phải xoa tay mấy lượt nhưng cũng không sao nhìn thấy cả mặt mình, cái yếm trắng và cái đầu thắt lưng ở trong gương cùng một lúc. Bé nghĩ ra một cách là đưa cái gương thật nhanh từ trên xuống dưới; nàng mỉm cười vì làm thế thì nhìn thấy rõ cả mặt, cái yếm và thắt lưng. Mỗi lần đưa cái gương xuống dưới thì nàng lại thấy mặt gương hơi sáng lên vì màu xanh của chiếc thắt lưng. Bé ngẫm nghĩ nếu Đỗi được trông thấy nàng với cái thắt lưng mới này thì chắc Đỗi cũng phải hoa cả mắt. Nàng hơi buồn là nếu chỉ có dịp Tết mới dám mặc mà Tết thì nàng lại phải về quê, Đỗi không được nhìn. Bé cởi dây lưng rồi ngồi xuống cạnh cái va li, gấp thắt lưng lại. Cái va li ấy cũng của Mùi cho; tuy là một cái va li cũ nhưng Bé cũng thấy nó sang lắm; cứ hôm nào trời hơi ẩm một tí mà có nắng mới là Bé lại đem cái va li và hết cả quần áo ra trước cửa hàng phơi để khoe với mọi người qua lại.
Trong cái va li, Bé để rất nhiều thứ và xếp đặt rất ngăn nắp. Tuy chẳng cần gì xếp lại, Bé cũng lấy hết cả các thứ trong va li ra để được cái thú xếp lại và ngắm nghía từng thứ một. Vả lại việc mới mua thêm cái thắt lưng và tìm chỗ xếp là cái cớ để nàng xếp lại cả va li. Nàng mở cái hộp bánh bích qui, lấy ra mấy tập vải mẫu của hãng Samaritaine. Bé cũng không biết đấy là các vải mẫu; đã lâu lắm sang bên ông Ký rượu ở phố Phủ thấy trẻ con đương nghịch và có nhiều lắm, nàng đã cướp được ba tập đem về cất trong hộp rồi thỉnh thoảng lại giở ra ngắm nghía. Bé thấy những miếng vải đó đẹp lắm song cũng chưa biết sẽ dùng vào việc gì. Dưới cùng hộp là cái tranh quảng cáo cho bánh bích qui. Nàng đã xin được cái hộp bánh của cậu Ấm Hải; lúc về nhà mở hộp, nàng thấy lẫn trong giấy bóng có cái tranh. Nàng thấy tranh vẽ một người Tây còn trẻ, tay khoác một cô đầm cũng còn trẻ, có hai con mắt to và hai gò má đỏ hồng, hai người ngồi cạnh cái bàn để rượu và bánh. Bé đoán hai người ấy là hai vợ chồng và lại thấy rõ là mới lấy nhau. Nàng nghĩ thế vì nàng cho là chỉ vợ chồng mới lấy nhau mới ôm cổ nhau. Mỗi lần Bé nhìn cái tranh, nàng lại thấy ngường ngượng, hơi thẹn; nàng lấy làm lạ là người Tây sao họ lại đem vẽ hai người đàn ông đàn bà ôm cổ nhau trước mặt mọi người như thế rồi lại cho cái tranh vào hộp bánh không sợ trẻ con nhìn thấy. Giá lúc cậu Ấm Hải cho nàng cái hộp, nàng nhìn thấy cái tranh vẽ thì không bao giờ nàng dám nhận, nhưng vì về nhà nàng mới biết nên nàng không vứt đi, đem để xuống đáy hộp và úp mặt vẽ xuống dưới. Thỉnh thoảng xếp lại va li, nàng lại lật tấm tranh lên ngắm nghía cái tay người đàn ông quàng qua cổ người đàn bà và thèn thẹn. Bé cho má người đàn bà sở dĩ đỏ như thế chắc cũng vì thẹn lắm. Lần này Bé ngắm nghía cái tranh lâu hơn và thấy thẹn hơn vì nghĩ đến một ngày kia cũng được Đỗi ôm lấy cổ như thế; cố nhiên là ôm vai nhau không có ai trông thấy(chứ không như hai người tây đầm kia); chỉ mới đặt chân lên nhau đã thấy thẹn chết người rồi, nếu Đỗi ôm lấy vai nàng thì không biết sẽ thẹn đến thế nào. Bé đặt úp cái tranh xuống đáy hộp, lấy cái tập mẫu vải phủ lên rồi thôi không nghĩ nữa.
Rồi Bé mở đến cái hộp đựng kim chỉ, mở cái túi tiền lấy ra năm đồng bạc còn mới nguyên là số tiền nàng đã để dành được mà cả bác Lê gái cả Mùi cũng không biết. Bé sợ nhất là Mùi biết, vì thế Bé không dám giắt ở trong người. Số tiền công hàng tháng, Bé phải đưa mẹ gần hết chỉ giữ lại một hai hào; trong số tiền năm đồng hơn một nửa là tiền nàng đã ăn bớt của Mùi. Mỗi ngày, nàng nhất định chỉ ăn bớt có một xu và ngày nào cũng ăn bớt. Có dịp may có thể ăn bớt được đến bốn năm xu nhưng Bé cũng chỉ ăn bớt có một xu thôi và còn mấy xu kia đưa cho Mùi. Mùi thấy Bé bán được hời giá mà cũng đưa cho mình nên càng tin là Bé thật thà và thường thường nàng cho lại cả Bé. Sự thực cũng không phải là Bé ăn bớt. Những lúc bán cho những nhà giầu và nhất là khi người mua là đàn ông thì nàng nói giá cao lên một xu hay có khi hai xu. Từ ngày Mùi đi cân gạo, nàng phải ngồi hàng nên không ăn bớt như thế được nữa.
Từ ngày Mùi đi cân, Bé phải săn sóc đủ các thứ; nàng đâm lo lắng như chính nàng là chủ cửa hàng và khó chịu lắm. Lắm hôm cửa hàng ế, nàng cũng thấy hơi buồn và ngượng với Mùi như chính vì lỗi tại mình nên cửa hàng ế. Trước kia, Mùi dặn bảo làm cái gì thì nàng làm cái ấy, chỉ việc nghe theo, yên tâm không phải nghĩ ngợi. Bây giờ bất cứ việc gì, việc cân nhắc làm bao nhiêu bánh, rán bao nhiêu chả, việc giao thiệp với khách hàng, mọi việc trách nhiệm đều ở cả một mình nàng. Việc làm Bé khổ sở nhất là việc bán các thứ thuốc; Bé đã cố nhớ lọ nào là lọ thuốc đau bụng, lọ nào là lọ thuốc sốt nhưng vẫn không dám chắc hẳn và khi bán xong cho ai một thứ thuốc gì, nàng lại bắt đầu lo sợ mình nhầm, người ốm uống nhầm thuốc bị trúng độc chết. Cách thức uống thế nào thì Bé học mãi mà không sao thuộc được. Thành thử thấy mỗi lần có người đến mua thuốc, Bé lấy làm sợ hãi vô cùng và chỉ mong người ấy đến mua thuốc giun vì thuốc giun dễ nhận nhất. Từ hôm nàng phải ngồi miết ở hàng, Bé nói với Mùi giao bác Lê gái việc đem bánh,chả đem bán bên phố Phủ, nhờ thế mẹ nàng cũng kiếm thêm được ít nhiều.
Bỗng nhiên Bé vơ lấy hết cả các thứ để bừa bãi chung quanh người ấn vào va li một cách hỗn độn, khoá lại chỉ trừ cái dây lưng là để ở ngoài. Bé đưa mắt nhìn ra ngoài trời và hơi lo là có cơn mưa. Nàng chải đầu, vấn khăn lấy chiếc khăn lụa hoa che mắt rồi cuộn cái dây lưng mới cho thật nhỏ, nhét vào túi áo trong. Bé vừa sực nghĩ ra là bỏ cái dây lưng vào túi áo lúc đến gần bến đò mới thắt, như thế Đỗi có thể nhìn nàng với chiếc thắt lưng mới mà người ở xóm không ai biết. Vì thế nàng định đi ngay sang bến Trò để khoe với Đỗi cái thắt lưng mới.
Bé khoá cửa ngoài, cơn mưa đã gần tới nhưng Bé không dám đi nhanh; gặp bác hai Liên, nàng đứng lại, nói chuyện một lát rồi lại chạy sang bên cụ Huế Hai. Bé làm như chạy sang chơi với các nhà ở xóm chứ không phải đi đâu. Rồi nàng rẽ ra chợ đi về phía nhà bác Bút. Nàng mừng thấy nhà bác Bút đóng cửa và đi quẹo ra phía con đường đi ra bến Trò.
Gần đến lăng cụ Quận, Bé dừng lại và lấy dây lưng ra thắt. Gió thổi mạnh và trời tối sầm lại, nhưng lúc đó Bé không sợ có cơn mưa nữa. Những đầu dây lưng bay phấp phới trong gió, nền trời tối lại càng làm cho sáng thêm màu hoa lý của chiếc thắt lưng. Gió mạnh thổi dán vải váy vào đùi làm Bé bước vương vướng. Gần đến lúc gặp Đỗi để khoe chiếc dây lưng mới, Bé lại thấy bắt đầu ngượng. Nàng lại mong lúc đó mưa ngay xuống để có thể đến với Đỗi được tự nhiên, lấy cớ là tạm lánh mưa. Nhất là lúc đó gió thổi từ phía sau người lại, các đầu dây lưng cứ bay toả ra trước mặt nàng, trông đẹp và sang một cách lộng lẫy quá.
Đỗi thấy đã chiều và trời sắp mưa, toan về thì trông thấy Bé. Chàng ngửa mặt sung sướng nhìn Bé đi xuống bờ sông. Người Bé in lên nền trời mây đen, nên cái khăn che mắt trắng hẳn lên. Cái khăn trắng rung rung trong gió và các đầu dây lưng phấp phới bay toả ra hai bên người nàng; Đỗi cũng để ý đến chiếc dây lưng mới và thấy Bé đẹp khác hẳn mọi ngày. Lòng chàng vui rối rít nhưng chàng lại bảo Bé:
"Có mau mau mà về, trời bão đến nơi rồi".
Bé bước chân xuống thuyền nói:
"Không mua bán gì hôm nay cả. Đi sang làng Thảo về đến lăng cụ Quận thấy trời sắp mưa phải rẽ vào đây mượn cái nón. Có nón không?"
Đỗi mỉm cười nhìn Bé rồi lại nhìn cái thắt lưng mới, ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
"Hôm nay quên đem nón. Ngồi đây một tí đợi tan cơn hãy về. Cơn này thì chắc không mưa đâu mà sợ".
Cả Đỗi và Bé không ai để ý đến chỗ vô lý trong câu nói: nếu cơn này không mưa thì cần gì phải ngồi đợi cho tan cơn. Bé ngồi xuống và thấy thích là lần này Đỗi không nhìn vào mắt nàng mà lại chỉ nhìn vào cái dây lưng mới. Đỗi cũng quên cả hỏi xem mắt nữa. Đỗi thì thấy không cần bảo Bé lật khăn vì đã có gió lật hộ, chốc chốc gió lại lật chiếc khăn lên một lúc và chàng lại được nhìn mắt Bé tha hồ. Đỗi lại nhìn cái thắt lưng rồi ngửng nhìn mắt Bé, cứ như thế đến hai ba lượt, rồi mỉm cười. Bé gắt:
"Cười cái gì! Sáu hào rưỡi đấy".
Đỗi nói:
"Đẹp nhỉ, nhưng tôi cười cái khác cơ".
"Cái khác là cái gì?"
Đỗi đáp vắn tắt:
"Đằng ấy biết rồi".
Rồi chàng giơ tay với một đầu dây lưng, xoa xoa trong tay ngắm nghía:
"Đằng ấy hoang nhỉ?"
"Hoang gì. Người ta mua về để mặc Tết. À mai kia, tôi phải về quê ăn Tết".
"Sao không ăn Tết ở đây cho vui".
Tuy là về quê ăn Tết chỉ độ dăm bẩy ngày, ngắn hơn quãng thời gian giữa hai lần gặp Đỗi, mà Bé cũng thấy buồn bã trong lòng và lần này đến có vẻ như từ biệt Đỗi để đi đâu xa và lâu lắm. Bé nói:
"Về quê ăn Tết thích lắm chứ. Này làm thế nào bây giờ, mưa đến nơi rồi kìa. Con khỉ, thế mà dám nói mẽ là trời không mưa".
Đỗi cười xoà:
"Mưa thì chui vào khoang".
Mưa nặng hạt, gió thổi mạnh mà cái khoang lại thấp và chật. Hai người phải ngồi thu mình ở tận phía trong nhưng cũng không tránh được ướt cả chân. Nước mưa rào rào trên khoang, bắn cả nước vào mặt Bé và Đỗi. Những hạt mưa to và mau đến nỗi làm đục cả mặt nước sông. Bé và Đỗi ngồi yên bị bao trùm bởi mưa rơi khắp quanh thuyền và tiếng rào rào trên mái khoang không ngớt; hai người thấy xa hẳn thế giới bên ngoài và tuy vừa rét vừa ướt cũng mong cứ mưa thế mãi. Đỗi nhìn Bé:
"À quên mất, cho người ta xem mắt nào".
Bé gắt:
"Mưa thế này thì xem gì".
Nói thế nhưng nàng cũng đưa tay lật khăn lên và giắt hẳn hai đầu khăn vào cho gió khỏi thổi hắt xuống. Đỗi vừa nhìn Bé vừa ngẫm nghĩ. Quả tim chàng đập mạnh. Chàng thấy không lúc nào tiện bằng lúc này để ngỏ tình yêu cho Bé biết.
"Hừ, mắt sao độ này đỡ hẳn ra".
Bé cũng nghĩ nếu Đỗi lúc này có đặt tay ôm lấy vai nàng như trong bức tranh ở hộp bích qui thì nàng cũng không ngượng lắm.
Khoang chật nên hai người phải ngồi sát gần chạm người vào nhau. Mưa to như thế kia, chắc không có ai ra bến đò làm gì. Bé thấy là một cơ hội ít khi có và lấy làm khó chịu rằng cả đến việc giẵmchân nàng Đỗi cũng không nghĩ tới nữa. Bé lại nhìn trời mưa, nói:
"Mưa này thì biết bao giờ cho tạnh".
Nàng lại ngồi sát vào người Đỗi một tí. Đỗi cũng nhìn trời mưa:
"Không khéo bão rớt mất".
Rồi Đỗi cũng nghiêng người cho vai chạm sát mạnh thêm một tí vào vai Bé. Chàng gật gù nói:
"Bão rớt thì đến mấy ngày mới tạnh. Mùa này mà có bão kể thì lạ thật".
Chàng lại gật gù nữa như có vẻ lấy làm lạ về điều đó nhưng chỉ cốt được thấy vai mình cọ vào vai Bé. Bé nói:
"Mưa ướt hết cả vai rồi. Sao đằng ấy lại quên không đem nón".
Đỗi giơ tay đặt lên vai Bé:
"Ừ, ướt cả vai rồi".
Đỗi cứ để yên tay mình trên vai Bé. Một lúc sau Đỗi dịu giọng hỏi:
"Đằng ấy có lạnh không".
Bé gắt:
"Lạnh gì, đương nóng ran cả người đây".
Nói thế rồi Bé nghiêng đầu đặt má vào vai Đỗi. Bỗng Bé giật mình đến thót một cái, làm Đỗi hốt hoảng vội vàng bỏ tay ra, ngồi thẳng lên:
"Chết tôi rồi, nó thôi".
"Cái gì thôi".
"Cái thắt lưng".
Đỗi cười:
"Ngỡ gì. Làm người ta hết cả hồn vía tưởng có ai đến".
Bé cau nét mặt, nhìn một mảng xanh loang trên yếm trắng:
"Chứ không hết hồn vía à? Giời đất ơi! Cái thắt lưng sáu hào rưỡi".
Bé vội vàng cởi thắt lưng, sợ nó loang hết cả cái yếm. Đỗi yên tâm và mạnh bạo hơn, lại giơ tay ôm lấy vai Bé và lần này ôm chặt hơn vào cổ Bé. Bé như không để ý đến Đỗi ôm cổ mình, đưa cái thắt lưng ra ngoài mưa cho ướt hết rồi vắt và thấy nước thôi ra xanh lè. Tuy trong người mê man vì sung sướng, Bé cũng thấy tức đầy ứ lên cổ. Nàng không tiếc gì số tiền mua nhưng nàng khó chịu vì đã ao ước mãi, mong đợi mãi mới dám mua cái thắt lưng mà lại bị cái thắt lưng hỏng, lại vì háo hức mua quá nên quên xem xét cẩn thận nên bị bà Lục đánh lừa. Đem trả lại bà Lục và mắng bà ta một trận, nàng không dám làm vì như thế sẽ xấu hổ chết để bà ta biết mình đã bị hớ vì háo hức. Đến Tết thắt nó sẽ bị mẹ mắng là mua bán cẩu thả. Đem cất vào va li thì mỗi lần giở ra nó lại nhắc nàng đến cái bẽ đã bị lừa vì hấp tấp. Đỗi nói:
"Sao mình không xem cẩn thận rồi hãy mua".
Lần đầu tiên Đỗi gọi Bé là mình nên phải nói một câu cự Bé cho đỡ bớt vẻ thân mật. Bé rứt mạnh cái thắt lưng mấy cái như muốn xé tan cái thắt lưng.
"Im đi. Người ta đã tức lắm rồi, lại còn nói đay nói nghiến cái gì. Này, thế này là xong".
Bé vừa nói vừa vứt mạnh cái thắt lưng xuống dòng sông và nhìn nó trôi đi. Khi cái thắt lưng trôi khuất vào trong mưa, Bé nhẹ hẳn người, hết cả tiếc tiền, hết cả ngượng như là không từng mua dây lưng bao giờ. Bé nhìn xuống yếm và thấy hãy còn cái vết xanh; cũng may vết xanh mới loang ra có một tí, giặt chắc sẽ hết ngay. Bé lại đặt đầu mình vào vai Đỗi. Đỗi cúi đầu nói, cố ý làm cho má mình chạm vào thái dương Bé:
"Tôi mua một cái thắt lưng khác biếu đằng ấy nhé. Một cái cũng mầu hoa thiên lý nhưng cái này nhưng không thôi".
"Tốn chết".
"Không, tôi có tiền mà. Đằng ấy nhận đi nào. Cười đi chứ, mặt phụng phịu thế này khó chịu chết".
Rồi Đỗi lấy tay lay người Bé mấy cái. Bé ngửa mặt thành ra má nàng chạm vào má Đỗi. Nàng gật gật và mỉm cười. Cũng như lần đầu tiên nhưng lần này rõ ràng hơn nhiều, Đỗi cảm thấy một thứ gì rất nồng nàn toả ở da thịt Bé ra và hợp với chàng lắm. Chàng thấy trước là khi lấy Bé làm vợ rồi, đầu gối tay ấp, đếm mấy chục năm cũng không sao chán được cái hơi nồng nàn của người Bé mà hơi ấy chàng chỉ thấy có riêng ở người Bé thôi. Đỗi nói:
"Thế ngày kia đến lấy thắt lưng nhé?"
Bé thẳng người lên, nói:
"Thế bây giờ đằng ấy cho em về nhé".
Khi nói đến tiếng "em", Bé lại thấy thẹn và sung sướng hơn cả khi má nàng chạm vào má Đỗi. Đỗi kéo tay mình về, nhìn trời mưa đã hơi ngớt, nói:
"Ừ thôi, mình về".
Chàng thò tay ra đằng sau khoang:
"Lấy cái nón này mà đi cho đỡ ướt".
Bé nhìn thấy Đỗi kéo ra một cái nón thật, không phải Đỗi nói đùa, Bé cốc mạnh một cái lên đầu Đỗi:
"Rõ thật, thế mà... Đồ nói dối".
Đỗi cúi đầu xuống, lấy tay xoa đầu rồi cười xoà:
"Thế đằng ấy có đi làng Thảo về không? Giời đánh đứa nào nói dối trước nhớ".
Bé ngượng nóng bừng cả mặt, tức Đỗi đã nhiếc mỉa mình và biết đích là mình chỉ cốt đến đẻ khoe cái dây lưng mới, nàng giơ tay toan cốc đầu Đỗi cái nữa, nhưng bị Đỗi nắm được lấy cổ tay vặn xuống. Đỗi nghiến răng bóp thật mạnh vào cổ tay Bé làm Bé đau nhói lên. Nàng cựa quậy cánh tay để gỡ ra. Đỗi nói:
"Thua chưa?"
"Thua thế nào được".
Rồi Bé giật mạnh tay thành ra kéo cả người Đỗi ngã về phía mình, nhưng Đỗi vẫn không buông tay lại bóp mạnh hơn làm Bé đau quá. Bé đâm cáu thật và giơ bàn tay kia mím môi véo một cái thật mạnh vào người Đỗi:
"Đồ vũ phu, có buông người ta ra không nào!"
Đỗi lại nắm chặt lấy cổ tay Bé và tay kia ôm ngang lưng Bé đặt người nàng ngả vào cạnh thuyền rồi Đỗi cúi đầu úp mặt vào ngực Bé, trên bầu vú. Tuy chàng đã thả lỏng cổ tay Bé mà Bé cũng không nghĩ đến kéo tay ra, yên lặng như thế một lúc rồi Bé đẩy nhẹ đầu Đỗi ra, ngồi thẳng lên, kéo cánh tay áo nhìn vào chỗ cổ tay bị một vệt lằn đỏ. Đỗi cũng nhìn vào vệt đỏ nhưng không nói gì. Cả hai người đều tránh nhìn mặt nhau. Sau cùng, Đỗi cầm cái nón đặt vào tay Bé. Bé cầm nón, chui đầu ra ngoài rồi đứng ở ván thuyền quay nhìn Đỗi. Đỗi cũng ngửng nhìn Bé. Hai người yên lặng nhìn nhau như thế một lúc lâu. Bé mỉm cười ngượng nghịumột cái rồi quay đi và Đỗi cũng mỉm cười ngượng nghịu cúi nhìn xuống ván thuyền.
Đi gần đến nhà bà Ký Ân cạnh chợ xóm, Bé mới sực nghĩ là mình quên chưa kéo cái khăn che mắt xuống.
Bé vừa đến cửa hàng thì có tiếng Nhỡ reo lên:
"Đây rồi!"
Bé giật mình nhìn sang hỏi:
"Gì thế anh?"
"Cô sang ăn cơm. Cả nhà đợi. Cô đi đâu về thế?"
Bé bất giác nhìn xuống chỗ thắt lưng, nói:
"Tôi có đi đâu đâu. Tôi chạy ra kia, bị mưa nên bây giờ mới về được".
Nhìn thấy mâm cơm có món giả cầy và đĩa thịt chân giò luộc, Bé ngạc nhiên. Bác Lê gái thấy vai áo Bé ướt đẫm nước, nói:
"Khổ con gái tôi chưa, ướt cả thế kia. Về bên nhà thay áo đã".
Bé dựa nón vào tường rồi ngồi ghé bên cạnh mâm:
"Con không sao, bu để mặc con. Sao bu độ này hoang thế?"
Nàng nói đến đĩa thịt để xoay câu chuyện sang việc khác để mọi người khỏi hỏi mãi về nàng. Bác Lê gái nói:
"Hoang đâu, thừa lộc quan Đốc đấy. Mua hai cái chân giò biếu quan Đốc một, quan giáo một thì quan Đốc lại vừa ra tàu về quê ăn Tết. Tao đem cả hai cái đem biếu quan giáo nhưng quan chỉ nhất định lấy có một cái".
Rồi bác lại nói khoe lại một lần nữa với Bé về việc ông giáo rất ân cần với bác, khen bác nhà nghèo mà cũng cố nuôi được con đi học và Tý, theo lời ông giáo nói, học thông minh lắm.
"Quan lại bảo nếu không đủ tiền thì cho Tý sang ở hầu hạ việc vặt, quan lại dậy thêm cho. Cũng may nhờ phúc Thần Đa nên được quan để ý đến nhà ta như thế này".
Sự thực ông giáo đã để ý đến bác Lê gái không phải vì nhờ phúc Thần Đa như bác tưởng. Hôm đầu tiên đi bán bánh cuốn thay Bé, thấy Bé nói nhà ông giáo cũng thỉnh thoảng mua bánh, bác đem bánh đến nhà ông giáo trước tiên. Lúc đương bốc bánh cho vào đĩa thì ông giáo tình cờ đi qua thấy bác rách rưới bẩn thỉu mà lại lấy tay bốc bánh không như cô bé bán hàng mọi ngày vừa sạch lại vừa có ý tứ lấy đũa gắp. Bán ở các nhà sang, Mùi đã dặn Bé phải lấy đũa gắp nhưng Bé quên không dặn lại mẹ. Nhìn thấy thế, ông giáo đứng lại:
"Hừ, sao bác lại..."
Bác Lê gái tưởng ông giáo đứng lại hỏi bác sao hôm nay lại đi bán hàng nên bác ngửng lên:
"Bẩm quan lớn, vâng, cô Mùi đi cân gạo, cháu bé bận ngồi hàng nên con phải đi bán thay. Bẩm quan lớn cả nhà phải làm ăn vất vả mới đủ tiền cho cháu Tý sang nhờ quan lớn dậy bảo cho".
Bác làm như việc Mùi đi cân gạo, việc nhà của bác, ông giáo đã biết cả rồi. Không mấy khi được ông giáo đứng lại hỏi đến nên bác sung sướng hỏi luôn ông giáo về việc Tý:
"Bẩm quan, quan xem cháu Tý nó có học được không ạ?"
"Hừ thằng Tý..."
Về thằng Tý thì ông giáo nhớ lắm vì đã nhiều người nói cho ông rõ về tình cảnh nhà nó. Thì ra người đàn bà rách rưới kia là mẹ thằng Tý:
"À, thằng Tý là con bác?"
Mắt bác Lê sáng hẳn lên:
"Bẩm quan lớn vâng ạ. Cháu có tám đứa con, nhưng chỉ có nó là... Cô Mùi, ông giáo Đông đều bảo nên cho nó đi học. Nhà cháu nghèo quan lớn xem cháu có học được không. Nếu nó..."
Ông giáo thấy bác tỏ vẻ rối rít vì cảm động; tay bác nhấc bánh lên lại bỏ xuống, mắt chớp nhanh và hình như hơi ướt.
"Thằng Tý nó học sáng dạ lắm. Nó học một ngày bằng đứa khác học ba ngày".
Bác Lê gái cúi mặt xuống, ứa nước mắt, lấy tay xỉ mũi hất một cái mạnh, làm ông giáo đứng lùi ngay lại. Bác Lê gái quệt tay một cái vào váy rồi bốc chiếc bánh cuốn cho vào đĩa. Ông giáo vào nhà bảo con gái ra chọn lấy chiếc bánh khác và ở dưới cùng nhưng sáng hôm ấy, riêng ông, ông không ăn bánh cuốn.
Hôm đưa chân giò đến biếu, ông giáo cũng nhắc lại đến chỗ Tý ngoan, chăm học và sáng dạ. Bác Lê gái vì thế sung sướng hơn cả ngày bán lợn. Bác đã có lúc nghĩ đến việc mua rượu cho chồng uống nhưng thấy chồng hình như không nghĩ gì đến rượu nên bác lại thôi. Bác Lê trai thì hôm ấy lại nghĩ đến việc uống rượu nhiều hơn là hôm bán lợn. Nhất là hôm nay trời cũng mưa to. Bác mới nghĩ ra được một cách mới và nếu cách ấy được thì cả đời không những bác không khổ sở vì rượu nữa mà lại sung sướng vì rượu. Cách ấy giản dị lắm và bác lấy làm lạ sao bây giờ mới nghĩ ra. Bác nghiệm ra rằng uống xong một chén đầu thì trong người bàng hoàng dễ chịu ăn ngon miệng, uống chén thứ hai thứ ba say đậm hơn và dễ chịu hơn nhưng lại phải cái say mê hẳn đi và đánh chửi vợ con. Bây giờ bác chỉ uống một chén thôi, tuy say không thú bằng khi uống hai ba chén nhưng cũng là say đủ để thú và ăn ngon miệng mà chiều nào cũng được uống. Bác nhớ lại một hôm Tết mấy năm trước, tình cờ đến nhà ông Hàn Điểm được ông cho uống một cốc rượu mùi. Bác không nhớ lại rõ cái thú say như thế nào nhưng có một điều chắc là ngày hôm ấy bác vẫn đi mừng tuổi các nhà, không xẩy ra chuyện gì. Nhưng lần khân mãi bác chưa dám nói ra với vợ. Đến lúc bắt đầu ăn thì hết không nói được nữa, lại phải đợi đến hôm Tết mới có dịp thử cách mới đó. Cũng may Bé lại đi đâu chưa về, phải đợi thêm một lúc nhưng bác cũng chưa dám nói. Bác bảo Bé:
"Đi về mà thay quần áo đi. Chúng tao đợi cũng chẳng sao. Mặc áo ướt rồi lại bị cảm sốt như hôm nào thằng Tý câu tôm ở bến Trò".
Bé sang bên cửa hàng. Bác Lê trai đưa mắt nhìn vợ một cái, mỉm cười. Bác toan nói. Bác Lê gái chợt nghĩ có lẽ chồng mình đã mua giấu được chai rượu nào chăng như hôm bán lợn.
"Này nếu đã mua trộm được rượu thì đem ra đây cả nhà uống".
Bác Lê trai mừng rỡ; bác mỉm cười một cái thật tươi:
"Làm gì có rượu. Này, bu này, tôi mới nghĩ ra được một cách".
Rồi bác thong thả nói rõ cho vợ biết và dò ý tứ vợ.
Bác Lê gái nhìn trừng trừng vào mặt chồng; hai con mắt phủ nhài quạt của chồng bác thấy như có dấu mưu mô đánh lừa bác. Biết đâu không là uống một tí lấy đà say để không sợ gì ai nữa và chạy đi mua thêm rượu về uống.
"Uống thì uống không sao".
Bác Lê gái nghĩ thế nhưng phải là do tự ý bác thuận mới được. Nhỡ nhìn cha thương hại và nói với mẹ:
"Hay bu cứ mua một ít về xem sao. Bu chỉ mua một chén thôi. Bu cũng uống một tí cho vui".
Tý cũng bênh cha nói chêm vào:
"Uống một tí không sao đâu bu ạ. Con cũng uống một tí".
Rồi Tý cười và cúi đầu xuống như để tránh cái cốc của mẹ. Thấy vợ có vẻ thuận, bác Lê trai mừng rỡ và nói đùa:
"Mua có một chén mà đứa nào cũng đòi uống một tí cho vui thì còn gì phần tao nữa".
Bác Lê gái cũng cười vui vẻ:
"Chúng mày đứa nào cũng về bè với bố. Tao cũng đến chết với bố con mày thôi. Thôi tao đi".
Nhỡ nói:
"Bu để con đi mua cho".
"Mày đi thì ai dám bán. Mày lại mua một chai to về thì đến chết tao".
Bé đi sang nhà thấy mẹ ở cửa đi ra tay cầm cái chai không, vội hỏi:
"Bu đi mua gì?"
"Tao đi mua rượu.
"Bu đi mua rượu?"
"Ừ tao đi mua rượu cho bố mày uống".
Bé lật khăn che mắt, nhìn mẹ mỉm cười. Bác Lê gái hỏi:
"Mày cũng muốn uống à?"
"Không, con uống vào đau mắt chết. Phải đấy hôm nay có chân giò, thầy uống một ít rượu cho vui".
"Lại mày nữa. Tao cũng đến chết. Thôi tao đi".
Bác đến thẳng nhà ông Năm Bụng. Thực ra hôm nay chính bác, bác cũng muốn uống rượu vì thế bác cần mua rượu lậu dễ uống hơn. Bà Năm Bụng đương ngồi thấy bác Lê đi vào, vội vàng đứng dậy, dắt hai đứa con vào buồng. Bà tưởng chồng mình đã bán rượu cho bác Lê trai và bây giờ bác Lê gái vác chai không đến làm tang chứng để mắng chồng mình. Ông Năm Bụng thì không sợ hãi gì, ông cất tiếng hỏi:
"Bác mua rượu để cúng?"
"Không tôi mua rượu cho thầy cháu uống".
Ông Năm Bụng hừ lên một tiếng nhưng nét mặt ông vẫn không tỏ vẻ ngạc nhiên. Bán xong, ông đứng ở cửa và những vết nhăn ở đuôi mắt ông giãn ra như mỉm cười.
Cụ Huế Hai đương ngồi ở bực cửa hát nghêu ngao. Cụ đã uống xong bữa rượu chiều nhưng vì cụ Huế Cả đi sang phố Phủ vắng nên cụ không sang sinh sự để cãi nhau được, cụ đành ngồi hát. Mọi người đều thấy rằng nếu không có cụ Huế Cả thì cơn say của cụ Huế Hai rất dễ chịu; cụ ngồi ở cửa hát đủ các giọng Huế và tiếng hát cụ nghe hay và buồn lắm. Gặp ai cụ chỉ nói đùa. Thấy bác Lê gái, cụ chạy ngay ra rồi kéo thắt lưng:
"Có rượu đấy à, cho lão này uống với".
Cụ nhắm mắt lại một lúc lâu rồi lại mở to ra gần như rách cả kẽ mắt, con ngươi cụ đưa đi đưa lại thật nhanh. Mắt cụ tròn xoe và long lanh như mắt mèo; cụ uốn éo người gần như ngã nhưng không ngã và cụ hất bàn tay một cái vào mặt bác Lê:
"Mua rượu cho chồng uống đấy à?"
Rồi cụ hát to vang cả phố theo giọng hát ru Huế:
"Ai kêu nheo nhéo bên sông, tôi còn mua rượu cho chồng tôi xơi".
Và cả phố ai cũng ngơ ngác nhìn bác Lê đi qua, tay cầm chai rượu. Về đến nhà, con cái ngồi ở mâm đều reo lên. Chỉ có bác Lê trai là ngồi im. Thấy các con đứa nào cũng vui mừng vì mình được uống rượu, bác cảm động. Trong mâm lại có đồ nhắm ngon. Giá nhà giầu, để chiều nào cũng có rượu ngon với thức ăn ngon như thế này, vợ con quây quần quanh mâm, vui vẻ như hôm nay, thì càng có nhiều con càng vui. Thoáng một lúc bác thấy nao nao nhớ Tuất đứa con trai của bác, năm sáu năm trước vì đói kém phải bán cho cụ đồ Vinh làm con nuôi; Tuất ở với cụ đồ Vinh được ăn no mặc ấm nhưng lúc này bác lại thấy thương Tuất. Bác đưa mắt nhìn vợ đương chăm chú rót rượu ra hai cái chén cho vừa đầy, trong chai còn thừa một ít đem hắt ngay xuống đất. Bác Lê gái bưng cốc đưa cho chồng.
"Mời thầy nó xơi".
Bác Lê trai đỡ lấy cốc đưa lên môi nhìn vợ nói:
"Bu mày..."
Bác Lê gái cũng nâng chén nhìn lại chồng mời:
"Thầy mày..."
Bác Lê trai nhắp một ngụm nhỏ và thấy ngon như người khát được uống nước suối. Bác gái cũng uống một hụm và cay chảy cả nước mắt. Bác Lê trai toan nói:
"Giá lúc này mà có cả thằng Tuất..."
Nhưng bác không dám nói ra sợ vợ buồn. Bác lại cảm động vì hôm nay lần đầu tiên trong đời được vợ chiều mua rượu cho mình uống. Bác thấy nước mắt đã rưng rưng ướt cả mắt và bác chớp luôn để khỏi khóc; bác Lê gái thì tưởng chồng vì uống rượu nên cay mắt.
Nhỡ cũng nhấc chén uống một ngụm to. Chàng uống được rượu nhưng không mấy khi dám uống chỉ trừ những lúc ăn giỗ ở đâu hay hôm nào kéo xe đi thật xa trong người mệt mỏi. Bác Lê gái bảo Bé:
"Đau mắt gì. Uống một tí cũng không sao".
Nể mẹ, Bé cũng nhắp một ngụm, ngẫm nghĩ một lát rồi lại uống thêm một ngụm nữa và sau khi nhai xong miếng thịt luộc, Bé lại nhấc cốc uống một ngụm thứ ba. Bác Lê gái vội giằng lấy chén:
"Uống gì mà uống nhiều thế. Đau mắt chết.
Nói vậy nhưng sau khi uống, bác lại đặt chén bên cạnh Bé. Bác uống thế là say lắm rồi và thấy Bé uống được rượu, bác hy vọng Bé tiêu thụ được hết chén để bác Lê trai không có rượư uống thêm. Bác đã thấy choáng váng hoa cả mắt; bác nghĩ đến hôm nay chồng có say như mọi lần, cần phải đánh nhau một trận kịch liệt thì cũng đánh nhau chơi, không sợ gì.
Bác Lê trai đã uống gần cạn chén, trong người thấy phiêu phiêu dễ chịu. Bác thấy cái lối uống ít rượu có lẽ thành công và ngẫm nghĩ trước đến cái thú buổi chiều nào cũng được ngồi khề khà với một đĩa lạc rang hay đậu phụ chấm mắm tôm. Tuy say thế còn thòm thèm không thú hẳn như khi uống hai ba chén nhưng bác cũng tự an ủi là cái say nhè nhẹ nó có một cái thú khác.
Ăn cơm xong cả nhà ngồi đợi. Yên lặng một lúc khá lâu rồi bác Lê trai mới chợt nhận thấy vợ và mấy đứa con lớn ngồi nhìn bác như rình trộm, bác bật cười. Bác Lê gái cốc một cái vào đầu Tý:
"Ồ, không việc gì!"
Tý nói:
"Thì con đã bảo bu. Mai bu lại mua rượu cho thầy uống nhé".
Bác Lê trai với cái điếu cầy kéo một hơi dài rồi thở khói che mờ cả mắt:
"Thằng Tý nó hợp ý tao. Mai bu mày mua đậu phụ về nướng chấm mắm tôm để uống thử một bữa nữa xem sao?"
Bác mỉm cười nói tiếp:
"Chiều nào cũng uống thử như thế".
Cho đến lúc đi ngủ cũng không xẩy ra chuyện gì. Nhỡ say bàng hoàng nên không nghĩ đến đi ngủ; chàng ra ngồi ở gốc đa và cất tiếng hát chèo theo tích Lưu Bình - Dương Lễ. Gió hơi lạnh nhưng chàng say nên không thấy lạnh gì cả. Giọng hát có hơi rượu vào, Nhỡ lại thấy trong hơn mọi khi. Chàng cất tiếng hát thật to để Mùi ở trong chùa Hàn nghe thấy. Nhỡ ngồi hát thế chỉ cốt để Mùi nghe; chàng tưởng mình cũng như chàng Trương Chi, có lẽ vì vậy nên Nhỡ bao giờ cũng tránh hát bài "Anh Trương Chi" sợ hát thế có vẻ lộ quá.
Ở nhà trước cửa, ông Ninh Ký từ chiều đã lo sợ mất ngủ. Cụ Yểng ngồi ngong ngóng đợi. Đợi mãi nhưng không thấy có tiếng cãi nhau mà lại có tiếng Nhỡ hát vang ở đầu cầu đưa lại. Cửa hàng cụ hôm nay không có khách; ngồi một mình trong gian nhà rộng với bốn năm cái phản trống không, gió lạnh lọt qua hai cái cửa gian làm rung rinh cây đèn treo và ánh đèn mờ tỏ, lại nghe tiếng hát than vãn, cụ chợt nhớ đến chồng và thấy hiu hiu buồn.
Bé nằm ở bên cửa hàng bánh cuốn, cũng không ngủ được. Từ lúc ở bến đò về, ngồi ăn cơm đông đủ cả nhà, ăn thức ăn ngon lại uống rượu, vui mừng vì việc cha nàng uống rượu mà không đánh đập vợ con nữa, Bé vẫn cảm thấy mình sống riêng rẽ với cái vui sướng. Tuy Bé chưa có thì giờ nghĩ đến nhưng nàng vẫn biết là nỗi vui riêng ấy vẫn nằm yên trong lòng mình. Đến lúc về nhà đóng cửa cẩn thận rồi, Bé mới thấy quả tim bắt đầu hồi hộp. Nàng đi chập choạng nửa vì say rượu nửa vì sung sướng. Nàng nằm xuống ổ rơm, mặt ngửa, mắt mở to nhìn vào trong bóng tối. Bé lắc bàn tay phải và thấy còn hơi đau ở cổ tay; nàng đặt tay lên ngực vào chỗ mà ban chiều Đỗi vừa úp mặt vào rồi lắc đầu một cái và thở dài. Lần đầu tiên trong đời Bé đã được người con trai ôm lấy mình; nàng ôn lại trong trí lúc Đỗi đặt tay vòng lấy cổ, lúc nàng ngả đầu vào vai Đỗi, Đỗi cúi mặt chạm má vào má mình và nhất là lúc Đỗi đặt nàng vào cạnh thuyền và úp mặt vào ngực mình. Bây giờ nghĩ lại thấy người nóng ran vì thẹn và sung sướng hơn cả lúc ở bến Trò.
<< Lùi - Tiếp theo

HOMECHAT
1 | 1 | 286
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com