Phải, người ấy gọi là "Thỏ Đực" thì đúng. Trông cái hình dáng, có thể bảo hắn là một anh kép già ở xóm cô đầu, nếu hắn không đi giày ban. Nhưng ngắm đến bộ miệng thì lại có thể tưởng hắn là một con thỏ, vì cái miệng ấy nó chum chúm như mõm con thỏ, mà tự môi trên đến môi dưới, rồi thì ngoài mép quanh cằm, đâu cũng nhẵn thín, không bén một sợi râu nào. Trước đây, khoảng ba chục năm, hắn chỉ là một chàng học trò dở ở vùng xuôi, chữ Hán cũng biết ít nhiều, chữ Pháp không thuộc một tiếng. Làng nhà hắn cũng như làng Xạ La ở Hà Đông, vô luận người nào, biết chữ hay không biết chữ, đều thuộc võ vẽ một ít bài thuốc, nhớ lõm bõm vài câu sách thuốc. Xách dao cầu đi phương khác, họ đều có thể bịp người mà kiếm ăn. Nhờ về phong thổ đó, hắn đủ tư cách như mọi trai làng, nhân khi túng đường sinh nhai mới sắm dao cầu tủ thuốc, kéo lên ngã tư nọ ở ngoài Hà thành, mở cửa hàng thuốc, vì không thể gọi là cửa hàng gì. Kỳ thực, trong hàng của hắn chỉ có mấy thứ thuốc bột chữa sâu răng, thuốc cao chữa mụn nhọt và vài chục vị vừa thuốc Bắc vừa thuốc Nam, đựng trong một cái tủ mốc. Gọi là hàng thuốc, cũng xấu hổ cho hai tiếng ấy. Lúc ấy, vùng đó, răng đã ít người đau, nhọt lại ít kẻ bị, thuốc ế, mạng nhện bắt đầu quấn vào dao cầu, những người gần quanh thấy cái cảnh đói khát của hắn, đã phải động lòng thương hại. Tình cờ gần đó có vị đại thần lên cái hậu bối, dùng đã nhiều thứ thuốc lắm mà vẫn không khỏi. Một hôm, người nhà bàn nhau: - Hay thử gọi lang "Thỏ Đực" vào đây xem hắn có chữa được không? Nghe nói nhà hắn có bán thuốc cao, hoặc giả nó là môn thuốc gia truyền thì chắc có hiệu. Bàn vậy mà thôi, thực ra người ta cũng không thèm gọi. Bởi vì đối với nhà vị đại thần đó, anh lang "Thỏ Đực" chỉ là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre chứ có giá gì. Chẳng ngờ lời bàn ấy bị một viên tri huyện là cháu vị đại thần kia nghe tiếng và tin là thực. Rồi từ ngày mai trở đi, gặp ai hỏi thăm bệnh tình của viên đại thần, viên tri huyện đều nói rằng ngài dùng thuốc của thầy lang "Thỏ Đực". Danh giá của con "Thỏ Đực" đã tăng lên nhiều. May sao cách vài chục ngày, vị đại thần ấy khỏi bệnh. Khỏi là nhờ thuốc của người khác, chứ người ta không dính tý thuốc nào của "Thỏ Đực lương y". Thế nhưng "Thỏ Đực" là kẻ gian ngoan, đi đâu cũng phô rằng mình đã chữa được vị đại thần ấy. Cũng vì có mấy câu nói của viên tri huyện, thành ra trong đám phủ huyện, nhiều người tin rằng vị đại thần kia quả có dùng thuốc của thầy lang này. Thế là mọi người đua theo, trong nhà động có người nào mọc mụn, phải gai, họ liền cho lấy thuốc của hắn. Phúc làm sao, hắn chữa luôn được vài bệnh, tiếng tăm đồn đi, khách lấy thuốc càng ngày càng đông, do đó đã có dấn vốn kha khá. Bấy giờ hắn mới sắm sửa đồ đạc, dọn luôn lên đất Hà thành. Từ đó, hắn mới giở ngón bịp ra. Khác với các chủ dược phòng, y quán, hắn chỉ quảng cáo bằng miệng, không hề quảng cáo bằng giấy hay báo. Ngồi với một người hơi biết chữ Hán, thì hắn giở luôn thi phú câu đối ra đọc, toàn là thơ cũ, phú cũ, câu đối cũ của các đại gia mà hắn đã học thuộc lòng, nhưng hắn vẫn nói là của mình làm ra. Ngồi với một người có bệnh hoặc nhà có người bị bệnh thì hắn đọc luôn sách thuốc hàng tràng. Cũng là những đoạn hắn học thuộc lòng, nó không dính dáng gì đến cái bệnh mà hắn sắp chữa hay đương chữa. Thơ phú cho đến sách thuốc của hắn nhớ được, quanh quẩn độ hơn 10 bài chứ không nhiều gì, nếu ai chú ý mà nghe, sẽ thấy lần nào hắn cũng chỉ đọc có mấy bài ấy. Thế nhưng, những người không biết thì ai cũng tưởng là hắn thông lắm. Đến việc chữa bệnh, hắn lòe thiên hạ lại càng bợm hơn. "Hôm qua tôi đi thăm bệnh cho quan Thượng tỉnh nọ, hôm kia đi kê đơn cho quan Tuần kia, ngày nay có bà án hay bà Phủ nọ đón đến thăm mạch mà chưa đi được". Mở đầu câu chuyện nói với con bệnh đại để hắn vẫn dùng cái sáo ấy. Có khi hắn còn can đảm mà nói tràn rằng: "Chính vua nước Lào có bệnh, đốc tờ nói chữa không khỏi, cũng phải vời mình sang chữa". Rồi thì người Tây, người Tàu, người ấn Độ, các thứ người ở Đông Dương đều bị hắn vơ làm người đã uống thuốc của hắn, người nào bệnh cũng nặng và cũng khỏi cả. Kỳ thực Tây, Tàu, ấn Độ, có ai dùng thuốc của hắn bao giờ. Đáng tức cười nữa, là mỗi khi cất miệng tiếp khách, ấy là hắn công kích thuốc Tây. Hắn khoe những bệnh đốc tờ bỏ, không chữa được, hắn chữa chỉ hai thang thuốc là khỏi, hắn nói chánh phủ đã biết cái tài làm thuốc của hắn, đã cấp cho hắn cái bằng đốc tờ về nghề thuốc Tàu. Bởi thế, hắn mới muốn được người ta gọi quan Đốc, ai không gọi thế thì hắn thịu cái mặt ra. Với những ngón bịp như vậy, kẻ nông nổi ai mà không mắc? Huống chi cái lối làm thuốc của hắn lại cũng là một lối bịp.
Nói cho phải, hắn cũng có đọc vài đoạn sách thuốc, chứ không đến nỗi dốt đặc. Nhưng hắn đọc để thuộc lòng, đọc để lấy khách, không phải đọc để mà hiểu. Những vị thuốc mà hắn hay dùng ấy là sâm, hoài, linh, biển và bài lục vị. Trong tập đơn thuốc của hắn đã kê, không thấy cái nào không có bốn vị thuốc đó, hoặc dùng xen với bài lục vị hoặc dùng lẫn với các vị khác. Sâm, hoài, linh, biển hay thuốc lục vị, hắn tưởng cũng như cơm tẻ, uống vào trúng bệnh thì khỏi, không trúng cũng không đến nỗi chết ai, vì vậy bệnh gì hắn cũng dùng đến. Quả có thế thực, những vị thuốc ấy, dù là trái bệnh, cũng không phát lên kịch liệt. Bởi vậy người ta mới phục hắn làm thuốc theo lối vương đạo. Họ không hiểu rằng: đã gọi là thuốc, có thể khỏi bệnh thì có thể giết người. Chỉ vì sâm, hoài, linh, biển, nó giết người ta một cách từ từ, cho nên người ta không biết. Bao nhiêu người theo hắn hàng trăm thang thuốc, chết vẫn hoàn chết, cái họa "sâm, hoài, linh, biển" là vậy. Chết cũng mặc, khoét được tiền, hắn cứ việc khoét. Đúng như lời bà phán Phước đã nói, ai đã uống thuốc, hắn cũng phán cho mua những vị trọng, và bắt phải mua của mình. Thậm chí hắn còn mua sâm giả của bọn Cao Lá bán rao, rồi đưa cho vợ bán lại cho những người quen thuộc chồng, cái đó mới tinh quái chứ! Tóm lại, ngón bịp của thầy lang "Thỏ Đực" còn giỏi hơn ngón bịp của thầy lang khác nhiều lắm. Bịp bằng hoành phi câu đối chói lọi trong nhà, bịp bằng lời nói mềm mỏng ngọt ngào như mẹ dầu dỗ khách, bịp bằng cách khoe quan nọ quan kia uống thuốc của mình, bịp bằng lối dùng thuốc không thưởng, không phạt, bịp bằng phép bán những vị trọng cho con bệnh hoặc bắt con bệnh uống những tễ thuốc ba bốn chục đồng. Trong đất văn vật nghìn năm biết bao kẻ bị hắn bịp cho đến chết mà vẫn không tỉnh ngộ.
CỤ LANG BẦN
Vì cụ quê ở Bần Yên Nhân, nên người quen biết cụ thường gọi là cụ lang Bần. Cụ giữ nghiệp dao cầu thuyền tán cũng là một sự ngẫu nhiên, nhưng về sau các thầy địa lý vì nặng tình cơm rượu đã tán rằng cụ được ăn về ngôi mả tam đại phát danh y. Nguyên trước cụ làm việc phát vé tàu điện, nhân một buổi cụ phải giữ việc dồn toa về nhà máy, bỗng thấy một quyển sách nhỏ, đóng giấy ta bìa cậy, bỏ chơ vơ trên ghế ngồi. Cụ cầm lên xem, tuy không nhận rõ là quyển gì, nhưng cũng đọc lõm bõm được mấy chữ trần bì, cam thảo. Cụ biết ngay là một quyển sách thuốc của một ông hành khách nào bỏ quên. Cụ đem về mượn ông đồ bên cạnh sang xem cho biết quyển sách thuốc ấy thế nào. Ông đồ bảo đấy là quyển sách thuốc gia truyền của họ Đào để lại, các môn thuốc, các chứng bệnh đều đã lập thành cả. Cụ bèn thuê ông đồ mấy đồng để phiên dịch quyển sách ấy ra quốc ngữ. Trước hết hãy làm thử mấy thứ thuốc viên cho vợ bán, như thuốc cam, thuốc sài trẻ con, thuốc khí hư huyết tích đàn bà v.v... Chẳng ngờ làm bỡn mà ăn thật, khách tới lấy thuốc ngày một đông; biết là một nghệ có thể kiếm ăn được, cụ bèn quẳng trả "sà cột" cho nhà máy điện mà về. Nuôi một ông đồ làm gia sư để làm cố vấn trong việc biên đơn bốc thuốc, sắm cả dao cầu thuyền tán, nghiễm nhiên làm một ông lang chính thức. Môn thuốc của cụ đã hay, mà cái môn nói khoác lại ghê gớm hơn nữa! Này đây một cái mộng tưởng của cụ: - Cái nghề thuốc của tôi còn là biến hóa vô cùng! Ông cũng đã viết ở đây, về môn chữa thuốc tây thì còn ai hơn lão "Oa đề ba" nữa, thế mà nhiều con bệnh đến cậy lão chữa, lão đã bó tay xin chịu, mà đến tôi thì khỏi hẳn! Thực ra tôi vẫn phục lão về cái tài mổ xẻ châm chích, tức là môn chữa ngoại khoa. Nhưng điều đó cũng chẳng khó khăn gì, rồi nay mai ông sẽ biết! Tôi đã bỏ phí năm mươi đồng để vận động cho con tôi được vào làm bồi phụ trong nhà lão. Cụ nói tới đây rồi ngó trước nhóm sau, thấy vắng vẻ cụ mới nói: - Tôi xin nói thực với ông câu này, xin ông giữ bí mật cho, nếu tiết lộ ra thì con tôi không thể nào được ở yên trong nhà lão! Tôi sửng sốt không hiểu vì duyên cớ gì mà ghê gớm thế, gặng mãi cụ mới nói nhỏ vào tai tôi: "Tôi quyết cho con tôi lọt vào đấy là chỉ cốt để ăn cắp nghề của lão cho bằng được. Rồi cụ lắc lư nói: - Ông phải biết phàm ai tài nghề gì mà chẳng muốn giấu cho kỹ, dù cha con cũng chưa chắc truyền cho nhau hết phép. Đấy ông xem, nhà nước mở ra trường thuốc chẳng qua là chỉ dạy cho học trò biết một vài món loàng xoàng thôi chứ nào đã có ai tài được như lão đâu, như thế chẳng phải là lão có môn thuốc bí truyền là gì? Tôi biết thóp thế, nên mới chịu bỏ tiền ra lo chạy cho con tôi vào đấy, cốt là vì nghiệp thuốc của tôi, chứ chạy tiền để làm anh bồi phụ thì chạy làm gì. Chỉ vài năm nữa, con tôi ăn cắp được môn thuốc bí truyền của lão thì về môn ngoại khoa như mổ, xẻ, châm, chích đã có con tôi. Hai bố con khi đã thu được hết phép của đông tây rồi thì còn ai địch nổi nữa".
Cụ nói rồi, dương cái mặt khờ khạo, nở một nụ cười đắc chí! Tôi cũng cười hộ cụ cho thêm vui, rồi hỏi: - Thế cậu cả nhà ta đã học được món gì chưa? - Ôi chao! Ông tưởng dễ lắm đấy! Truyền nghề cho đã là khó, đến ăn cắp nghề lại càng khó hơn nữa. Cho nên tôi vẫn khuyên thằng cả nhà tôi phải kiên tâm cố chí lắm mới được, mới đến bảy tám tháng thì đã ăn thua gì. Hiện công việc của cháu ở nhà lão chỉ có lau bàn ghế, quét dọn buồng ăn buồng ngủ, cũng như ta, các cụ khi xưa bắt đầu nhập môn cầu học cũng phải làm những công việc, sái, tảo, ứng, đối là thường. Tôi lại hỏi: - Thế cậu cả nhà ta có biết khá chữ tây không? Cụ giương cặp mục kỉnh mà đáp: - Ấy, chữ thì cháu không biết, nhưng tôi đã đút cho anh bồi đưa cháu vào mấy chục để cho cháu học tiếng, nên tuy chữ cháu không đọc được, nhưng nói thì đã khá lắm. Vả chăng cái nghề thuốc chúng tôi, chỉ cốt trong cho tin, nghe cho rõ là được, chứ bây giờ lại học chữ đã thì ông tính đến bao giờ. Mình học là học tắt ông nghe chửa. Cụ nói tới đây thì bỗng có khách lại lấy thuốc, cụ đứng dậy bỏ tôi mà đi, tôi ngồi lại thẩn thơ tự hỏi: từ bác vé xe, nhảy lên ông lang, từ anh bồi phụ nhảy lên ông đốc tờ, chẳng biết bao giờ hai cha con nhà ấy sẽ gặp nhau, mà lúc gặp nhau rồi thì cái kết quả sẽ ra sao?
KHÔNG NÊN QUÊN MỘT BỌN VĂN SĨ
Trong một tuần lễ trước đây, hội đồng Phòng bệnh hoa liễu có họp một kỳ hội nghị bàn việc dự định thể lệ cho nghề mãi dâm. Những thể lệ ấy đã khởi thảo rồi, ở báo hàng ngày đã có đăng rõ, mục đích của nó không gì khác hơn là chỉnh đốn cho nghiêm cái nghề "bán dâm" để bài trừ những bệnh hoa liễu. Một việc rất nên làm và rất hợp thời. Hiện nay bệnh hoa liễu mỗi ngày một bành trướng lạ thường, nếu không tìm được cách gì ngăn ngừa thì một ngày kia, không khéo khắp trong dân tộc An Nam sẽ khó mà kiếm một người không mắc bệnh khốn nạn ấy. Điều nên nói là trong bản thể lệ ấy, hội đồng Phòng bệnh hoa liễu mới nhìn bệnh hoa liễu bằng cái nguyên nhân thứ hai, còn bỏ sót cái nguyên nhân thứ nhất của nó. Bệnh hoa liễu cũng như một vài bệnh khác, ngoài cái nguyên nhân thứ hai là nạn mãi dâm còn có nguyên nhân thứ nhất gây ra mầm bệnh mà không phải là loại vi trùng. Nếu không trừ được nguyên nhân thứ nhất của bệnh, không thể cấm bệnh không được lan ra. Nguyên nhân thứ nhất là gì? Các ngài sẽ đổ cho sự gay go trong cuộc sinh hoạt. Cố nhiên, với sự bành trướng đáng ghê như bệnh hoa liễu, hiện tượng sinh hoạt vẫn phải chịu một phần trách nhiệm. Nhưng một phần thôi, còn một phần khác, là trách nhiệm của bọn văn sĩ. Tôi muốn nói mấy ông văn sĩ thiếu lương tâm, quen dùng văn chương khiêu dâm để quyến rũ bạn đọc phụ nữ. Nói cho phải, văn chương của ta hồi này cũng có tiến bộ hơn trước, nhất là nghề viết tiểu thuyết. Nhưng trong khi tiến bộ về phương diện nghệ thuật, đồng thời nó cũng tiến bộ luôn về phương diện khiêu dâm. Hãy giở những cuốn tiểu thuyết tình xuất bản gần đây mà coi, các ngài sẽ thấy lời nói ấy không sai sự thực. Tác giả những áng văn chương ấy vẫn là nhà văn có tài, cái tài cổ động chủ nghĩa khoái lạc về nhục dục mà người ta gọi tránh đi là "vui vẻ trẻ trung". Họ phá hủy nền liêm sỉ của trai gái bằng những ngòi bút mạnh bạo. Họ mô tả trần truồng cái chân tướng ái tình bằng giọng văn hay hớm và lả lơi. Họ làm được cảnh tượng của dục tính ở mặt giấy cũng hoạt động như ở màn ảnh. Đừng nói những hạng trai trẻ, giả sử các cụ sáu bảy mươi tuổi nghe văn của họ có khi cũng thấy dậm dựt trong mình. Nhờ vậy, họ đã đi được tới đích, hầu hết phụ nữ ở thành thị đều đua nhau làm độc giả của họ. Trong vài năm nay, tâm hồn phụ nữ thành thị đã bị họ cám dỗ...; người ta đã nói bằng giọng của họ, người ta đã nghĩ bằng tư tưởng của họ, rồi người ta muốn làm như những nhân vật trong tiểu thuyết của họ. Cái ảnh hưởng ấy, nó đưa chị em phụ nữ đến đâu? Bước thứ nhất là đến một cuộc đời lãng mạn. Trong vài năm nay, đối với phụ nữ -nhất là phụ nữ tân thời -liêm sỉ chỉ là tính hèn nhát, dư luận chỉ là lời hủ bại, biết bao nhiêu người đã ngang nhiên đem thân thể thờ thần nhục dục một cách tự do, không e lệ, cũng không hối hận. Tại các thành thị, tiệm nhảy và phòng ngủ mở ra mỗi ngày mỗi nhiều, đó là bằng chứng rất rõ rệt về phong trào lãng mạn của phụ nữ. Ai nấy chắc đều nhận rằng: từ lãng mạn đến mãi dâm không xa, và từ mãi dâm đến bệnh hoa liễu càng không xa nữa. Đi ngược trở lại, chúng ta có thể nói rằng: bao nhiêu nữ tướng trong việc truyền bệnh hoa liễu đều là tín đồ của chủ nghĩa lãng mạn; mà bao nhiêu nữ tín đồ của chủ nghĩa lãng mạn đều là độc giả của những văn sĩ kia. Vậy thì những người mắc bệnh hoa liễu đều là người đã phải bùa mê của bọn văn sĩ khiêu dâm, chính bọn văn sĩ khiêu dâm đã đưa người ta lên giường bệnh hoa liễu. Nói vậy không phải quá đáng. Nếu vào nhà thương mà hỏi những chị em bệnh hoa liễu có đọc tiểu thuyết của bọn văn sĩ kia không, quyết rằng trong số trăm người đều trả lời rằng có. Đối với pháp luật, văn chương khiêu dâm vẫn thuộc về tội đáng trừng phạt. Nhưng cái điều kiện của pháp luật về những khoản đó hình như không rõ ràng, cho nên bọn văn sĩ khiêu dâm vẫn có đường trốn. Họ trốn ra đường nghệ thuật. Họ viện vào thuyết "nghệ thuật" để bênh vực cho nghề nghiệp của họ. Nếu những tác phẩm của họ cứ được tự do đầu độc phụ nữ thì nghề mãi dâm còn thịnh hành và bệnh hoa liễu còn bành trướng.