Chỉ mục bài viết |
---|
Cánh Buồm Nâu |
Trang 2 |
Tất cả các trang |
Ông Hân bỗng khóc tu tu. Tiếng khóc vỡ ra đột ngột khiến con chó mực ngoài sân cũng giật thót mình, sủa lên mấy tiếng ai oán. Ông Cả Giao xốc Nhi dậy, gỡ tay bà Hân. Mấy người dắt díu nhau ra bến sông. Ông Cả Giao bắt chước tiếng cú rúc. Một chiếc thuyền nhỏ neo ở giữa sông sáp vào đón họ. Ông Cả Giao đỡ Nhi lên thuyền rồi quay lại chắp tay chào ông bà Hân. Mặt sông lạnh. Gió bấc cứ hun hút thổi. Tiếng chèo khua mạnh lạnh lùng. Vầng trăng khuyết cuối trời nhòe đi trong dòng nước mắt.
Thuyền ai trôi, thuyền ai trôi rồi?
Kìa con thuyền trôi, con ơi, nước trôi
Kìa con sông đời, lạnh toát, xa vời
Mênh mông bể cả mưa nguồn xa xôi
Ngẫm sự đời...
Tang thương ngẫm những sự đời.
Phù hoa muôn nẻo phương trời
Ai luống ngậm ngùi
Thế gian ai luống ngậm ngùi tình si?
Cái đêm hôm ấy đêm gì,
Để cho ai nhớ khắc ghi trong lòng?
Chân trời góc biển mênh mông
Hỏi ai, ai biết cho không
Não nuột trong lòng
Mẹ cha não nuột trong lòng năm canh
Đêm năm canh, giấc ngủ chẳng thành
Con lấy chồng gần, con lấy chồng xa
Xót lòng nẫu ruột mẹ cha
Những muốn khóc òa
Thương con những muốn khóc òa đêm nay
Nơi xa con hỡi có hay
Thấu gan ruột này?
Trăm đắng ngàn cay
Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê
Xứ người trăm nỗi tái tê
Nào ai biết được đường về nông sâu?
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ lòng đau chín chiều…
5- Nhi đi rồi, ngôi nhà tranh vách đất bên sông tiêu điều như thể không có hồn vía. Bà Hân ốm lử khử đến mấy tháng ròng. Lúc đầu, hai ông bà còn hay nói chuyện với nhau:
- Con mẹ đồng Xuyến nó bảo số của con Nhi phải lấy chồng xa. Tướng nó ích phu lợi tử, tiền của đầy nhà...
- Ừ - Ông Hân ngậm ngùi - Tôi chỉ sợ nó dát nước mà nhà người ta làm nghề sông nước...
Bà Hân lặng đi, bùi ngùi:
- Hồi nó ba tuổi, ông còn nhớ đận dì Thảo bị trâu húc chột mắt không, nó lên sởi, chỉ bị tí nước té vào mà người đỏ rực như than hồng, nó sốt đến bốn năm ngày...
- Cũng chỉ tại bà để cái gáo nước thẻo đảnh mới ra cơ sự thế chứ?
- Vâng! Tôi vụng, tôi ngu, tôi dại!
Hai ông bà già ngồi ôn lại ký ức về cô con gái. Họ cãi cọ nhau, hờn dỗi...
Ba tháng trôi qua, không hề có tin tức gì của Nhi.
- Thôi chết! - Một hôm bà Hân bảo chồng - Hóa ra mình cho không con gái người ta. Chẳng cưới cheo gì, có tủi không? Bây giờ chẳng biết ở phương trời nào?
- Thì cứ bảo số nó tốt mãi đi! Cứ nghe con mụ đồng Xuyến rồi bán cả nhà...
- Hay là ông đi Hải Thịnh một chuyến xem sao - Bà Hân dụ chồng - đi ngóng tin tức nó xem thế nào?
- Nhưng bà đang ốm, tôi đi sao được?
- Ốm đau gì? Ông cứ đi đi. Tôi mạng lớn, không chết được đâu...
Hai hôm sau, ông Hân tìm đường đi sang Hải Thịnh. Đây là lần đầu ông lão xa nhà. Bà Hân nằm trên ổ rơm, đắp chiếu, ngóng từng giờ một. Con chó mực nhịn đói, nằm ở góc hè cứ rên ư ử. Sang ngày thứ sáu thì ông Hân về, phờ phờ phạc phạc, hai con mắt lõm sâu vào ở trong hốc mắt, trông lạ hẳn đi.
Bà Hân hốt hoảng, chỉ thốt ra được một tiếng hỏi chồng:
- Sao?
Ông Hân ngồi im, thẫn thờ, không nói câu gì. Bà Hân đâm sợ, cũng không dám hỏi.
Ông Hân ngồi im một lúc, bỗng òa lên khóc:
- Bà nó ơi, mình mất con bé Nhi rồi...
Bà Hân căn vặn một lúc, chắp nối những câu nói rời rạc trong tiếng nấc nghẹn của chồng, cuối cùng cũng hiểu được ra đầu đuôi câu chuyện. Ông Hân đi khắp cả vùng Hải Thịnh hỏi han nhưng không ai biết về ông Cả Giao. Ông Hân đi sang Cát Hải, người ta cũng nói đến một ông Cả Giao nào đó chuyên cất mắm cốt nhưng nửa năm nay bặt không thấy đến.
Hai ông bà già bàn định, bán tín bán nghi. Ông Hân tính đi Móng Cái nhưng không đủ tiền, đủ sức.
Rồi một năm nữa trôi qua, cũng không có tin tức gì của Nhi. Ông Hân, bà Hân già sọm hẳn đi, mọi việc trong nhà bỏ hết. Cuối năm đó, con chó mực bỗng lăn ra chết ở trước hiên nhà. Tết năm đó là một cái tết hiu quạnh buồn thiu ở trong ngôi nhà trống vắng, nơi mà ngày xưa dù có nghèo túng đến mấy nhưng không hề dứt tiếng cười.
Bà Hân mắt đã mờ đi vì khóc. Ông Hân trở nên lẫn lộn, cứ hay ra ngồi bên sông một mình, lúc nhớ lúc quên.
Sang năm Dậu, nạn dịch tả tràn lan khắp nơi, có nhiều người chết. Nạn dịch lan đến làng Cổ Am lan sang làng Hạ. Ông bà Hân cũng chết về dịch tả, ông đi trước, bà đi sau, chỉ trong một ngày. Khi còn sống, bà Hân vẫn hay đùa chồng:
- Thế nào lão cũng chết trước cho xem! Số lão vẫn sướng, chẳng là vẫn quen có người hầu hạ ngồi mát ăn bát vàng. Chỉ có tôi đây là khổ! Giời không có mắt, những người gàn dở thì giời lại cứ bênh vực là nghĩa lý gì?
Những khi ấy, ông Hân chỉ cười tủm tỉm. Chắc là ông nghĩ:
- Cái con mẹ này quái ác! Đã chết thì sướng nỗi gì mà còn phân biệt trước sau. Đã gàn dở lại mắng người ta gàn dở!
6Tôi sẽ là một người kể chuyện nhẫn tâm nếu tôi không thêm vào một cái kết ra trò cho câu chuyện ấy. "Đa tình kiếm khách, vô tình kiếm". Nhiều khi ngòi bút vẫn cứ lạnh lùng không theo ý của chủ nhân, dẫu rằng thực ra có hậu hay không có hậu với một kiếm khách hay một văn nhân đôi khi cũng không có ý nghĩa gì quan trọng. Khi lưỡi kiếm đã vung lên rồi cũng như khi ngòi bút đã vung lên thì ai đó trách rằng vô tình cũng đành chịu vậy. Nhưng mà thôi, đây là một câu chuyện giản dị và tôi cũng muốn có một nụ cười giản dị để dành cho bạn khi kết thúc câu chuyện này.
Khoảng 10 năm sau, sau khi hai ông bà Hân chết thì một hôm có một chiếc thuyền buồm nâu ghé vào bến sông giữa làng Cổ Am và làng Hạ. Hôm ấy đang có hội làng. Người ta rước kiệu từ đình làng Cổ Am xuống làng Hạ rồi lại quay về. Khách thập phương kéo đến xem hội đông như kiến cỏ.
Lúc đầu, cũng không có ai chú ý đến người thiếu phụ với sáu đứa con bụ bẫm vừa trai vừa gái ở trên thuyền vừa bước lên bờ. Hai cô hầu gái loay hoay với lũ trẻ con nghịch như quỷ sứ. Thiếu phụ bồn chồn, chân như ríu lại. Thiếu phụ hỏi thăm mấy người đi hội:
- Thưa các bác, ở đây có ai người làng Hạ không? Có ai biết nhà ông bà Hân không?
- Có tôi đây! - Một bà cụ già đang ngồi bán củ ấu cho bọn trẻ con vồn vã - Ai hỏi ông bà Hân đấy? Có đúng bà Hân tính hay đùa nhả nhà gần cây gạo phải không?
Thiếu phụ reo lên mừng rỡ:
- Phải! Cụ ơi, cụ biết ông bà Hân chứ? Cháu là Nhi đây, cháu là con gái ông bà Hân đây!
Bà cụ dừng tay gói nắm củ ấu cho một người đàn ông có vẻ như người mới ở tỉnh về, ngạc nhiên:
- Con cái Nhi! Con nỡm! Thế mày không nhận ra dì mày à? Dì Thảo mày đây!
Nhi như quỵ xuống trước mặt bà cụ. Người đàn ông mặc bộ vét-tông màu trắng đã ngả vàng đang mua củ ấu vội vã đỡ lấy cô.
Bà cụ Thảo kể cho cô cháu nghe chuyện cũ. Mọi người xúm xít lại nghe. Nhi òa lên khóc nức nở khi biết tin thầy u mình mất đã chục năm rồi. Cô xua hai người hầu gái với mấy đứa con đi vào xem hội rồi một mình đi về nền ngôi nhà cũ. Người ta chỉ đường cho cô ra mộ hai ông bà Hân. Người đàn ông trên tỉnh lững thững đi phía sau cô, vừa đi vừa lơ đãng nhìn xuống dòng sông nơi có chiếc thuyền buồm nâu neo đợi.
Nhi loay hoay bên hai ngôi mộ, cô ngồi nhổ cỏ rồi phủ phục ở đấy rất lâu. Người đàn ông lạ lùng kia lặng lẽ mang đến cho cô thẻ hương và đặt nắm củ ấu vừa mua lên mộ.
- Cám ơn ông! - Nhi lau nước mắt - Thế ông cũng có người thân chôn ở nghĩa địa này à?
Người ấy gật đầu.
- Thưa ông, ông đã nghe câu chuyện của tôi, vậy ông có khinh tôi là đứa con bất hiếu, phụ bạc cha mẹ mình không?
- Sao cô nghĩ thế? - Người đàn ông tỏ vẻ không vui - Cô nghĩ sai rồi! Cô hạnh phúc, thế là thầy u cô dưới suối vàng mừng lắm còn gì!
- Cám ơn ông... Được ông nói thế, thật tình tôi như trút được gánh nặng trong lòng.
Người đàn ông quay ra đứng ở ngoài đường. Nhi thắp hương, khấn vái một lúc rất lâu rồi về. Cô ngạc nhiên thấy người đàn ông kia đứng đó.
- Phong cảnh ở đây rất tuyệt - Người ấy nói - Những cánh buồm nâu là thứ mà tôi thích nhất.
- Tôi phải về thuyền - Nhi nói - Mấy mẹ con tôi phải về Móng Cái. Chồng tôi là chủ hãng buôn ở đó. Khi nào ông lên Móng Cái mời ông đến chơi. Tôi tên là Nhi, chồng tên là Bằng, hỏi ai cũng biết.
- Có phải Bằng là chữ bằng trong câu "chim bằng bay rợp trời xanh không cùng" không?
- Thưa ông, tôi không biết, tôi dốt lắm. Thưa ông, tôi khó nghĩ quá, việc này tôi không muốn nhờ cậy ai, tôi muốn đường đột nhờ cậy ông liệu có được không?
- Được!
- Thưa ông, ông còn ở đây, tôi muốn nhờ ông khắc giùm cái bia đặt lên trên mộ thầy u của tôi để mà đánh dấu, như thế liệu tôi có phiền ông quá hay không?
- Không sao! Tôi cũng muốn có bia ở vùng đất này.
- Đa tạ ông nhiều. Thầy tôi tên Hân, u tôi tên Lành, cả hai mất vào năm Dậu.
Nhi và người đàn ông kia trở về đám hội. Nhi vào đình làng gửi tiền công đức rồi mấy mẹ con ríu rít xuống thuyền. Cánh buồm nâu quay đầu, lặng lẽ xuôi dòng tìm đường ra biển.
Nhi không biết người đàn ông lạ lùng mà Nhi nhờ cậy hôm ấy là một nhà thơ nổi tiếng. Người ấy đã tìm được một tấm đá khắc bia. Chỉ có điều, người ấy đã không làm sao nhớ nổi tên hai ông bà già xấu số. Cuối cùng, người ấy đã khắc lên tấm bia đá hình một cánh buồm làm dấu. Bây giờ, nếu ai đến nghĩa địa của làng Cổ Am và làng Hạ, nhìn chếch phía bên phải cây gạo ven sông, vẫn thấy ở đấy có một ngôi mộ đôi trên gắn tấm bia đá sứt sẹo. Trên tấm bia ấy có một cánh buồm. Dưới cánh buồm sau này bọn trẻ chăn trâu nghịch ngợm có khắc thêm hình mấy cái mũi tên xuyên qua trái tim. Người ta gọi đó là mộ "trái tim tan nát". Bài thơ về những cánh buồm vẫn được lưu truyền ở trong dân gian như một chuyện kể về tình yêu trai gái. Mà tình yêu, bạn biết không - cái món quà tuyệt vời mà Thượng đế hào phóng ban tặng cho người đời ấy, bao giờ cũng phải trả giá bằng những giọt nước mắt nghẹn ngào, dù muốn hay không cũng vậy.