Chỉ mục bài viết |
---|
Cái Đèn Lồng |
Trang 2 |
Trang 3 |
Tất cả các trang |
Xe xuống đến chân núi, tôi ngửng đầu nhìn lên hãy còn thấy bà Tayabashi đứng dựa vào cánh cửa tiễn tôi và vẫy tay chào.
Muốn giơ tay ra chào lại, mà biết rằng có vẫy tay thì bà ta cũng chẳng thấy gì, tôi cảm thấy chưa buồn như thế bao giờ.
Về đến khách sạn, tôi nằm úp mặt vào cái áo kimônô mới do cô hầu phòng để sẵn cho khách thay mỗi sáng và bảo bồi đừng mang cơm lên sáng đó. Người bồi hỏi tôi:
-Ông bịnh? Có cần phải nói với bác sĩ không, bởi vì khách sạn lúc nào cũng có bác sĩ trông nom.
- Khỏi cần. Nhưng nếu có rượu mà không phải rượu “sa-kê” đem cho tôi một chai nhỏ uống chơi cho đỡ lạnh.Cả buổi trưa hôm đó, tôi cứ ngồi nhắm rượu một mình, vừa nhắm vừa giở tập bản thảo của ông Tayabashi ra đọc tiếp truyện “Cái Ðèn Lồng: để xem có ai đến nhận chôn người con gái tự tử quàn ở trong Tào Sơn Ðiện gần hồ Bình Hoa không.
Chẳng có ai đến nhận xác Giáng Tuyết, kể cả người tự nhận là mẹ nàng đến xin với vị sư trụ trì làm chay cho nàng.
Thế là nghĩa lý gì? Tại sao người ta lại bỏ Giáng Tuyết như thế? Mà Giáng Tuyết tại sao lại tự tử để rồi nằm chết thân một mình trong ngôi đền hoang vắng thê lương?
Thì ra muốn biết đầu đuôi câu chuyện này, người ta phải quay về sống lại một khoảng thời gian đã mờ rồi, cách đó bảy năm trời.
Bảy năm về trước, Tào Sơn Ðiện đã là một cái đền bỏ hoang không có bóng người qua lại vì không có ai dám đến tu ở đó. Lau sậy mọc tràn lan cả lên trên tường vách, mái nhà. Ngói lợp mái ở nhiều chỗ đã sút cả ra; có nhiều bức tường nứt rạn và đêm đêm cầy cáo vẫn đến họp nhau ở đó. Cũng có người bảo rằng bọn trọm cướp lấy nơi đó để hội họp nhau chia công cắt việc làm lễ Ðức Ông rồi từ đó xuất phát để “làm ăn”, nhưng hầu hết mọi người thì tin rằng đó là một vùng đất dữ, có ma, đêm đêm vẫn hiện về tác yêu tác quái, làm cho người dân ở chung quanh hoảng sợ, cứ từ chạng vạng tối cho đến sáng không dám bén mảng từ ngôi đền ấy cho đến hết địa phận hồn Bình Hoa, nhất là ở chỗ cây đa Quéo và cồn “Cơm Toi”.
Một hôm, có một người ở xa xôi đến sinh sống ở đó, nghe thấy câu chuyện đồn đại ấy, không tin, bèn thủ một chai rượu lớn vào ngôi chính giữa Tào Sơn Ðiện uống rượu một mình để xem ma ra thế nào. Hai đêm liền, anh ta đếu uống rượu như thế và không thấy gì. Anh ta cười ha hả và bảo những người chung quanh:
- Các ông xem, toàn là chuyện láo toét cả. Tôi ngồi hai đêm mà có thấy gì đâu!
Người đàn ông bạo dạn này, ngờ là trong những lời đồn đại phao truyền ấy có một âm mưu đen tối của một lũ gian nào đó, bèn cố tìm hiểu tại sao lại có chuyện ma mãnh trong ngôi đền. Một bô lão cho biết:
- Theo chỗ tôi biết, Tào Sơn Ðiện trước đây vẫn là một nơi họp của tuần tráng phụ trách canh gác vùng này. Một đêm kia, vào mùa rét, có ba người con gái đi qua đó nhỡ độ đường, vào xin tuần tráng cho tá túc một đêm để sáng hôm sau đi chợ Na La sớm. Thấy ba cô gái xinh tươi, nói năng ngoan ngoãn dễ thương, bọn tuần tráng ưng liền và xếp một cái ổ rơm cho ba cô nọ nghỉ ngơi. Trong khi đó, bọn tuần tráng quây quần bên một ngọn đèn dầu uống rượu suông.
Một cô gái thấy thế bèn nói:
- Các ông uống rượu thế này, không có cái nhắm, buồn chết. Nhân chị em chúng tôi đi chợ sớm, có mang sẵn thức ăn sáng sớm mai, các ông cho phép chúng em được mời các ông.
Vừa nói, cô vừa lấy ở trong tay nải ra hai cái giò heo. Trời thì rét, cảnh thì buồn, uống rượu suông ngán thực, bọn tuần tráng thấy hai cái giò heo tự nhiên sáng cả mắt lên. Thế la họ chia nhau ra, kẻ thì nhúm lửa, người thì chạy đi lại những ngôi nhà gần đấy mượn nồi, luộc hai cái giò heo lên rồi thái ra mấy đĩa đầy, cùng xoay ra chén trong khi ba cô gái ngồi bên lò lửa nói chuyện làm ăn và tính toán việc buôn bán sớm mai.
Đến gần sáng, cả bọn lăn ra ngủ, nhưng một ông sợ có xảy ra chuyện gì không hay, cố gương mắt để ngồi canh. Thấy một cô trong bọn trằn trọc không ngủ được, anh ta lại gần tán chuyện gẫu. Thế rồi việc phải đến đã đến, hai anh chị đưa nhau ra bụi rậm ở gần đấy bầy chuyện nguyệt hoa. Rồi một anh nữa lôi cô thứ nhì ra. Anh thứ ba thấy anh thứ nhất và thứ nhì hành động như vậy, cũng nổi nóng tán tỉnh cô thứ ba. Đến sáng thì cả ba ông đều hả hê, còn ba cô thì vội vã cám ơn và từ tạ để lên đường đi chợ Na La cho kịp.
- Câu chuyện như thế có dính líu gì đến ma?
- Không. Ông cứ để cho tôi kể tiếp. Vậy là ba cô gái đi chợ Na La. Còn ba ông tuần tráng kia thì hết phiên canh rồi, vội vã về nhà đi ngủ. Một tuần qua đi. Cả ba ông đều bị bịnh chết bất đắc mà không có ai biết nguyên nhân. Họ chết thì thiệt thân họ, cũng chẳng ai buồn để ý, chỉ thương hại cho vợ một anh trong bọn, vì chồng chết hết kế sinh nhai, phải đi tha phương cầu thực rồi đến lúc cùng đường, ẵm hai đứa con nhỏ ở hai tay nhảy xuống hồ Bình Hoa tự trầm.
- Thế sau người đàn bà và hai đứa con ấy hoá ra ma?
- Chính tôi cũng không được rõ. Nhưng theo lời những người đã được thấy ma hiện thì không phải chỉ có một người hay hai người nhưng là nhiều người khác nhau, khi thì là một người đàn bà đẹp đi guốc kêu lóc cóc, khi thì là một bà có thị nữ theo hầu như mệnh phụ phu nhân, nhưng cũng có khi là đàn ông không đầu đi cà kheo, hay một lũ lạc loài rách rưới lê những cái thân hình tàn phế, đầy thương tích nối đuôi nhau than khóc.
- Ông nói không thể nào tin được. Nếu có, sao hai đêm tôi ở đó không thấy một con ma nào hiện ra?
- Cái đó, tôi lại cũng không biết nữa. Tôi biết thế nào, nói thế ấy, còn tin hay không tin là tùy nơi ông.
- Ông nói tức quá. Ðêm nay tôi lại đi nữa và nếu không thấy, mai tôi lại đi nữa xem sao.
Người đàn ông ở phương xa mới tới lập nghiệp ở Hốt Tử nói thế và làm thế thật. Nói cho thật đúng, anh ta muốn tìm biết ma thì ít, nhưng lấy cớ đó để thi hành một âm mưu thì nhiều. Là vì anh ta vốn không phải là người lương thiện, ngay từ lúc còn tấm bé đã sinh sống về nghề đạo chích. Anh ta lấy cớ đó để dễ làm ăn; vì cứ đêm đêm mà ở nhà ra đi, không vì lý do gì hết thì hai bên hàng xóm nghi ngờ và do đó dễ để lộ thủ đoạn và nghề nghiệp bất chính của mình ra. Bắt lấy câu chuyện tìm ma ở Tào Sơn Ðiện, anh ta ngồi đấn đến chừng nửa đêm thì đi “làm việc”, thực không còn gì kín đáo hơn.
Một đêm, anh ta cũng mang một chai rượu đến ngồi như thường lệ, tạ sự là để rình ma nhưng chính lúc đang xếp đặt kế hoạch để vào ăn trộm một nhà giàu có ở trên con đường đi từ Hốt Tử đến hồ Bình Hoa thì tự nhiên thấy ở dưới bàn thờ Ðức Ông chui ra một người gầy ốm, nhưng hết sức lanh lẹn, giắt ở sau lưng một con dao quai, đầu chít khăn tai lợn màu xanh, rảo bước đi ra phía vườn, mà tay thì cầm một cái dây thòng lọng. Tự nhiên, người ăn trộm ở Hốt Tử cảm thấy ngay là người vừa chui ở gần bàn thờ Ðức Ông ra không phải là ma, nhưng chính là một gã ăn sương đồng nghiệp với anh chờ giờ tốt đi làm ăn gần đấy.
Anh lẩm bẩm: Thằng cha này cũng định bắt heo đây. Ờ, ta thử xem tài nghệ nó ra thế nào. Nhưng chẳng biết nó định bắt heo nhà nào vậy?
Ðêm ấy có trăng. Trăng thượng tuần tỏa ra một ánh sáng xanh xao lạnh lẽo, làm cho người đi đêm, mặc dầu ăn sương đã lâu đời, cũng cảm thấy nao nao ở trong lòng. Thêm nữa, tiếng con chim cái ở đàng xa vọng tới lại càng làm cho đêm khuya thêm vẻ não nùng, rùng rợn.
Ðiền Bá tên người ăn trộm ở Hốt Tử theo dõi người đàn ông gầy ốm chui ở dưới bàn thờ Ðức Ông ra được một quãng rất xa, bỗng dừng bước, lấy tay đập vào trán mấy cái mà nói một mình:
“Ủa, sao “nó” lại đi đàng này? Hay là nó cũng định làm ăn ở nhà Ðông Bích tiên sinh?”
Ðông Bích tiên sinh là nhà phú hộ ở xóm Cổ Gà, ngay ở ngã tư Na La, nổi tiếng là giàu có nhất vùng. Trước đây, tiên sinh đi khắp đó đây để buôn bán kinh doanh, tạo ra được một gia tài ức vạn, nhưng vì buồn nỗi đẻ đứa con nào chết đứa con nấy nên vợ chồng ông rút về ở vùng này lấy cây cỏ làm thú tiêu dao ngày tháng, rồi sau đó ít lâu thì có tin chết trong ngục tù. Chắc chắn tiền mặt ông còn nhiều, nhưng hình như lúc ông mất, bà Ðông Bích để ở một nơi kín đáo ở tỉnh thành, một tháng đôi lần lại ra lấy một ít về tiêu; nhưng gà, chim, heo, vịt ở nhà ông thì có cả trăm con, thỉnh thoảng vào làm một hai con heo đem sang vùng khác bán cũng đủ ăn cả tháng.
Chính Ðiền Bá, đêm hôm ấy, định vào “làm” mấy con heo ở nhà Ðông Bích tiên sinh thì chính lúc sắp ra đi để động thủ thì lù lù hiện ra anh chàng ăn sương, gầy ốm thủ một con dao quắm ở lưng, tay cầm dây thòng lọng, xăm xăm tiến về phía nhà ông Ðông Bích. Ðiền Bá lặng lẽ theo dõi anh chàng để xem y hành động ra sao, và nhân tiện cũng muốn học thêm nghề nghiệp nếu anh ta tỏ ra có một tài đặc biệt.
Dưới ánh trăng khuya lạnh, tên ăn trộm ốm o đi như gió, làm cho lắm lúc Ðiền Bá phải chạy theo mới kịp. Thỉnh thoảng, y lại quay lại nhìn lại đàng sau. Mắt y sáng như mắt con cầy trong đêm tối, nhưng mỗi khi y quay lại thế thì Ðiền Bá, nhanh như con beo đã kịp thời lẩn vào bụi rậm, lùm cây để trốn cho y không nhìn thấy anh ta. Quả là tên ăn trộm đi nhanh như gió đến nhà Ðông Bích thật. Ðột nhiên Ðiền Bá cảm thấy như tắc thở. Mắt anh ta vừa nhìn thấy gì? Tên ăn trộm ốm o, mà anh theo dõi từ nãy tới giờ, không chui vào trại Ðông Bích do nơi cửa cái mà cũng chẳng lách hàng rào như tất cả những gã ăn sương khác. Nhẹ như một mũi tên, y nhìn ra sau một cái, nhìn ra trước một cái, rồi giơ hai bàn tay lên trời, phi hành lên trên mái nhà chính của ông Ðông Bích. Ðiền Bá dụi mắt, tưởng mình mê ngủ. Sau một phút định thần, anh ngồi sụp xuống một bụi ô rô gần đó và ghé mắt qua một chỗ lá thưa, nhìn thật kỹ từng hành động của tên đạo chính cừ khôi.
Lúc ấy đã khuya lắm, tứ bề im lặng như tờ. Nhưng ở gian giữa nhà Ðông Bích, người ta vẫn thấy le lói một ngọn đèn dầu. Ðiền Bá bò xuống bò lên tìm một chỗ ẩn núp thật kín đáo mà lại vừa có thể nhìn kỹ vào trong nhà để xem tên ăn trộm, một khi từ trên mái xuống được dưới nhà, thì làm ăn ra thế nào. Nhưng nói thế mà thôi, chớ “làm ăn” sao được? Là vì Ðiền Bá trông thấy rất rõ ràng, ở bên cạnh ngọn đèn, có một cô gái đẹp lạ đẹp lùng đang xõa tóc ngồi thêu. Hình như tất cả nhà đều ngủ, chỉ còn có cô con gái kia thức mà thôi.
Có người thức như thế, hẳn là anh trộm kia phải đợi. Ðiền Bá đoán chừng như thế, nhưng anh ta lầm. Là vì mắt anh trông thấy rõ rệt từng ly từng tí – không thể nào lầm được – anh trộm ở trên mái nhà không đợi mà cũng không chờ, nhưng ngồi xuống mái nhà, dỡ ngói ra một khoảng to bằng cái nong.
Ồ, lạ thật, vậy ra y không sợ cô gái đương ngồi htêu kia biết hay sao? Thôi thôi, phải rồi, mình lầm to. Ðây không phải là một tên chích cược như mình đã đoán, nhưng hẳn đây là một gã hoa tường liễu ngõ, vào nhỏ ra to với người con gái đẹp đang ngồi đó. Mà người con gái này chắc chắn là có tình ý với y tự bao giờ rồi, cho nên giờ này vẫn chưa chịu ngủ, cố tình đợi người yêu đến để bày trò hoa nguyệt, không sai, Ðiền Bá tự nhủ:
“Cứ xem cách thức anh chàng này tới đây một cách quen thuộc rồi dỡ ngói mái nhà một cách hết sức tự nhiên, đủ biết là anh chị mèo chuột theo lối đó đã lâu rồi.”
Gió thổi rào rào vào bụi cây. Con chim cá - tiếng kêu thương của mặt trăng - hót lên một tiếng khắc khoải, vừa não nùng vừa ghê rợn. Bao nhiêu thời khắc đã trôi qua? Ðiền Bá cảm thấy cảnh tượng đương diễn ra trước mắt anh mỗi lúc mỗi ly kỳ bí hiểm hơn. Tên ăn trộm ốm o dỡ xong ngói ở mái nhà Ðông Bích rồi, không trèo xuống mà cũng không ra một dấu hiệu gì để kêu cho cô gái ngửng đầu lên. Rõ ràng, hai năm rõ mười, Ðiền Bá thấy tên ăn trộm kỳ lạ thò đầu xuống qua lỗ hỏng của mái ngói mới dỡ ra, nhìn xuống dưới nhà. Ở xa, nghe không rõ, nhưng Ðiền Bá cảm thấy y không nói gì cả, chỉ thở một hồi rồi đứng thẳng lên trên mái nhà.
Nhưng đúng rồi, nhất định là anh chị này mèo chuột với nhau, vì sau đó một lát thì cô gái đẹp nọ đứng lên, nhìn trước nhìn sau một hồi lâu rồi rón rén đi ra ngoài sân, sau khi đã vặn ngọn đèn nhỏ xuống. Dưới ánh trăng về gần sáng, Ðiền Bá thấy da cô gái trắng nõn nà, nhưng có một vẻ gì như lạnh lùng, như thơ thẩn. Ðiền Bá lại nghĩ:
“Ý hẳn cô này giận dỗi gì đây cho nên gặp tình lang mà không tươi cười. Chắc hẳn là tại anh chàng đến chậm, làm cho cô ta phải chờ đợi trong đêm giá lạnh.”
Vì chú ý đến cô gái nhiều và suy nghĩ vẫ vơ một mình như thế, Ðiền Bá quên hẳn anh chàng ăn trộm (bởi vì theo Ðiền Bá thì ăn trộm tiền, ăn trộm heo hay ăn trộm tình, chung quy cũng chỉ là ăn trộm mà thôi). Khi quay lại, Ðiền Bá đã trông thấy y phi hành từ trên mái nhà xuống đất từ lúc nào rồi và đứng đợi ở ngã ba cây quéo. Cô gái đẹp đi thẳng đến đó một cách rất tự nhiên. Anh chàng ăn trộm đi trước, cô gái nọ đi sau. Ðiền Bá, từ trong bụi ô rô bò ra, cũng nín thở đi theo để cho biết câu chuyện “trên bộc trong dâu” ra thế nào.
Thì y như rằng: cô gái và anh ăn trộm đưa nhau lên một mô đất cao gần đó, cây cối um tùm như thể một khu rừng. Chung quanh mô đất là một cái khe, về đêm, im lặng quá, người ta nghe thấy nước vỗ vào bờ ì à ì ộp. Ðiền Bá đợi cho họ lên được đỉnh mô đất rồi, cùng bò lên trốn vào một chỗ khuất có lá xum xuê che kín, trợn con mắt lên để nhìn rõ xem chàng trai và cô gái làm những trò gì.
Ðiền Bá nghĩ thầm:
“Hai người này thực là kỳ lạ. Thường thường, trai gái nào gặp nhau thì cũng phải chuyện trò, mà giả thử cô này có giận ít ra cũng phải trách anh chàng vài câu chớ sao cả hai lại cứ lặng im không nói không rằng như thế?”
Anh cho là lạ kỳ lắm và óc tò mò của anh càng bị kích thích nhiều hơn. Một lát sau, anh thấy tên ăn trộm thở mạnh mấy cái rồi cô gái quỳ xuống rồi đứng dậy liền. Cùng lúc ấy, tên ăn trộm giở cuộn dây thòng lọng ra quăng lên một cành cây. Trời ơi, Ðiền Bá lúc mới đầu trông thấy tên ăn trộm từ Tào Sơn Ðiện bước ra, cầm ở tay cuộn dây thòng lọng, tưởng đâu rằng cuộn dây ấy là dùng để bắt heo, anh ta có biết đâu rằng tên ăn trộm lại quăng cái dây lên cành cây như thể làm phép lạ. Mà phép gì thế? Quăng sợi dây lên cành để làm gì? Ðiền Bá cảm thấy như ngực mình muốn vỡ, mà trái tim sắp sửa nhảy ra ngoài: cô gái đẹp đưa cái đầu vào trong thòng lọng, đạp chân một cái xuống đất và thân cô trong nháy mắt treo tòn ten lưng chừng trời. Ðiền Bá nhắm mắt lại, hét lên một tiếng hình như lớn lắm, đoạn nhảy ba bưới lại chỗ cô gái vừa thắc cổ. Thì nhanh đến thế là cùng. Tên ăn trộm đã lủi đâu mất hút, không còn để lại một vết tích gì. Không kịp suy nghĩ lâu la, Ðiền Bá sẵn con dao quai giấu ở trong túi áo vội vàng chạy lại cắt sợ dây thòng lọng xuống và đỡ cô gái vào lòng. Thân thể cô lạnh buốt, nhưng chưa chết, vì đặt tay vào miệng hãy còn thấy hơi thở nhẹ.
Dưới bóng trăng tà, Ðiền Bá cõng cô gái trên vai, chạy về con đường Na La để trở lại nhà Ðông Bích. Lúc ấy trời gần sáng, một vài con gà rừng đã gáy te te, nhưng chưa có người nào đi lại. Ðến cổng, anh đặt cô gái xuống, giở tài nghệ ra mở cổng trong chớp mắt và xốc cô gái đi qua khoảng vườn, đẩy cánh cửa bức bàn khép hờ vào chỗ cô gái ngồi thêu hoa lúc canh khuya. Ngọn đèn dầu vẫn le lói một làn ánh sáng lờ mờ. Anh khêu to ngọn đèn lên, nhìn một lúc thấy ở gần đấy có một cái giường có gối thêu đệm gấm. Anh bế cô gái đặt lên trên giường rồi mới kêu người nhà thức dậy. Thấy có người lạ mặt đột nhập vào nhà mà Giáng Tuyết tên cô con gái nằm thiêm thiếp chưa tỉnh hẳn, cả nhà hoảng sợ và kêu lên. Mấy người hàng xóm ở gầy đấy nghe thấy tiếng kêu đổ tới và hỏi Ðiền Bá đầu đuôi câu chuyện. Ðiền Bá thuật lại hết câu chuyện, không bỏ một chi tiết nào. Nghe thấy thế bà Ðông Bích run lên cầm cập, muốn té xỉu, phải gọi mãi mới tỉnh. Tất cả nhà và những người hàng xóm bấy giờ mới chia nhau tíu tít đi tìm rượu và gừng làm thuốc hỏa thang để thoa vào khắp mình mẩy chân tay cho Giáng Tuyết. Ðến sáng thì nàng tỉnh. Mọi người xúm lại hỏi sao cô lại mở cửa ra đi như thế và người nào đã dụ cô lên cồn nọ để cho đầu vào trong thòng lọng thì Giáng Tuyết quả quyết là nàng không biết gì hết và tưởng là mình đang cùng với hai người bạn gái đương ngồi trò chuyện vui đùa với bọn tuần tráng ở Tào Sơn Ðiện và thái hai cái chân giò heo cho bọn tuần tráng nhậu nhẹt cho quên buồn trong khi canh gác.
Tại sao lại có chuyện lạ lùng như thế? Thì ra, truy cứu mãi, người ta mới biết rằng Giáng Tuyết nguyên là một trong ba cô con gái đi chợ Na La một đêm rét mướt kia đã cùng với hai người bạn gái khác đến xin nghỉ đêm ở Tào Sơn Ðiện. Không hiểu vì sự tình cờ nào đó, một hôm ông Ðộng Bích đi thuyền qua chợ, ghé lên mua đồ, gặp cô và thấy cô xinh đẹp, có duyên mà lại tỏ ra nết na đứng đắn, ông nhận cô làm nghĩa nữ và đem về nhà nuôi. Vì ông Ðông Bích không con, Giáng Tuyết được thương yêu cưng chiều như con đẻ, cho học hành, dạy thêu thùa. Giáng Tuyết nghiễm nhiên thành ra một tiểu thư nhan sắc, tinh thông thi, họa, cầm, kì nhưng không hiểu tiền oan nghiệp chướng ra sao, cô không mấy lúc được vui và thỉnh thoảng lại tỏ ra như lãng trí.
Cô không biết người đàn ông đến rủ cô đi lên cồn đất. Cô quên hẳn cái đêm ngủ ở Tào Sơn Ðiện rồi bắt tình với một anh tuần tráng, làm cho nhà cử anh này tan hoang để rồi đi đến kết cuộc thảm khốc là vợ anh bế hai tay hai đứa con nhảy xuống hồ Bình Hoa trằm mình. Cô không muốn gì hết, chỉ mong có một điều đùng ai nói tới mình và đừng ai nói đến quá khứ của cô.
Từ đó, cả nhà bà Ðông Bích giữ gìn cô cực kỳ cẩn thận không rời cô nửa bước. Cuộc đời trở lại bình thường, nhưng đùng một cái chừng sáu bảy tháng sau đó Giáng Tuyết một hôm đi chơi về với một con nữ tỳ, lần vào cái mô đất trước đây, thắt cổ trên cây tự tử và lần này thì chết thật.
Con nữ tỳ thấy chủ chết hoảng sợ chạy như điên trong đêm tối và vấp phải một rễ cây, lăn xuống khe cùng chết ngay trong đêm ấy! Về sau này, những người biết chuyện kể lại với nhau rằng con nữ tỳ ấy là một người bạn cũ của Giáng Tuyết, trước dây cùng Giáng Tuyết đi buôn bán ở chợ Na La và chính là một trong ba cô gái đã xin nghỉ trọ một đêm ở Tào Sơn Ðiện và bày trò nguyệt hoa với một anh tuần tráng. Anh tuần tráng ấy bị bịnh hiểm nghèo, không chữa nổi, cầm dao rạch bụng ra tự tử để lại một bầy con và một người vợ, vì túng đói phải đi tha phương cầu thực rồi chết cả trong một trận dịch đậu mùa.
Còn người con gái thứ ba xin nghỉ đỡ ở Tào Sơn Ðiện? Người đó không ai khác hơn là Ngọc Hân Nương người vợ bạc mệnh mà Ðại Thông Thái Lang lấy ở Yên Ðô, cái kinh thành có trăm nghìn phù hoa xa vọng mà Ðại Thông đã đến ở đó với hy vọng lập được những sự nghiệp lẫy lừng. Riêng về cô gái này, người ta không biết rõ tại sao cô có thể từ Na La trôi nổi về đến Yên Ðô và tại sao cô ta từ một cô gái buôn bán tầm thường lại thành ra con gái một đại phú thương để rồi gặp Ðại Thong kết duyên thành vợ chồng chung sống một cuộc đời hoa gấm ở Làng Hốt Tử. Theo lời một số người buôn bán ở chợ Na La sau này kể lại với nhau thì Giáng Tuyết, Ngọc Hân, và Anh Võ (tên con nữ tỳ của Giáng Tuyết) là ba bạn chí thân nhưng về sau vì một chuyện lãi lời gì đó cãi nhau rồi xa nhau.
Ngọc Hân về quê ở Linh Yên nhưng vì không chịu được cuộc đời khổ cực, trốn nhà lên Yên Ðô và tại đó nàng lấy một phú thương, nhưng vì bà vợ phú thương này quá ghen nên đem nàng bán cho một nhà chơi làm con hát đàn. Lúc Ðại Thông lấy Ngọc Hân, nàng đang làm nghề đó, nhưng bởi vì vợ chồng chủ nhà chơi khéo bịp bợm và dàn cảnh nên Ðại Thông tưởng nàng là con nhà quý phái, có cha là phú thương và được tâng tiu chiều chuộng như hòn ngọc.
Ðem tất cả câu chuyện nghe được mà chấp nối lại với nhau, về sau người ta mới biết tại sao lúc Ðại Thông gặp Giáng Tuyết đêm Quần Tinh hội, Giáng Tuyết nói ngay với Ðại Thông rằng nàng biết Ngọc Hân và có ý ghen với số kiếp của Ngọc Hân.
Bây giờ thì cả ba người đẹp ấy cùng chết cả rồi, mỗi người chết một cách nhưng cùng chết khổ sở như nhau. Người ta bảo là tại vì mấy anh tuần tráng bị ba cô làm tan cửa nát nhà, vợ con bị điên đảo mà chết oan chết uổng nên theo dõi mà trả oán.
Sau khi biết hết đầu đuôi câu chuyện. Kim Tứ mỗi chiều lại làm bùa yểm, tự đi dán la liệt ở các cửa ngõ nhà Ðại Thông.
Như thế, ma sẽ không đến trêu chàng được nữa. Ðại Thông một hôm hỏi:
- Thưa tiên sinh, tôi vẫn nghe thấy nói ở đời lấy ân mà trả oán, chớ lấy oán mà trả oán, oán ấy không bao giờ tiêu tan. Sao những người tuần tráng kia không lấy ân trả oán?
- Tiên sinh nói rất đúng. Nhưng lấy ân trả oán, họa chăng chỉ có Ðức Phật làm được mà thôi, chớ thế nhân tầm thường thì thường vẫn lấy oán trả oán, cho nên Nho giáo đã có câu: “Quân tử oán tam niên, tiểu nhân oán nhãn tiền”. Người ta đang sống yên vui, bình dị, tự nhiên có người ở đâu đến làm xáo trộn gia cang của họ làm cho gia đình tan nát, vợ con chia lìa và chết tức chết tưởi, cái oán ấy không phải không hữu lý.
- Thế về phần tôi, tôi có tội tình gì mà ma quỷ đến ám ảnh tôi như vậy?
- Cái đó cũng không lạ nữa. Ông bị ám ảnh, trêu ghẹo vì ông là người đẹp trai mà lại có tài. Thiên hạ xưa nay vẫn ghét những người như thết. Nói rộng ra thì nước này đối với nước kia cũng vậy, người ta chỉ muốn chiếm những nước giàu có, bờ xôi ruộng mật, chớ ai lại đi xâm lăng những nước nghèo khó bao giờ.
Kim Tứ cấm Ðại Thông bất cứ vì một lẽ gì cũng không được ra khỏi cửa trong hai mươi mốt ngày, và cứ vào khoảng giờ sửu mỗi đêm lại phải thức dậy đọc một bản kinh cứu khổ.
Linh hồn nàng Giáng Tuyết hẳn cũng có đến lảng vảng ở nhà chàng, nhưng chỉ lảng vảng ở ngoài, không vào được trong nhà vì có những đạo bùa yểm rất linh thiêng. Hai mươi mốt ngày trôi qua, Ðại Thông đã quên dần Giáng Tuyết và sức khỏe đã hồi phục. Mùa đông qua đi, xuân tới với một bầu trời xanh ngắt và xanh lá non. Ngoài vườn, sự nức mùi hoa thủy tiên. Trên các cây anh đào, hoa nở đỏ như các cô tiên mặc áo hồng đang múa.
Trông hoa nở, Ðại Thông trạnh lòng nhớ đến hai người con gái là Ngọc Hân và Giáng Tuyết, muốn đến thăm mộ Ngọc Hân và tìm đến Tào Sơn Ðiện xem quan tài Giáng Tuyết có ai đến nhận không, nhưng nhớ lời dặn bảo của Kim Tứ, chàng lại thôi, không dám. Nghe những người ở chung quanh đấy nói nhỏ với nhau: vì ba bốn tháng sau gia đình ông Ðông Bích cũng không thấy lại nên sư cụ trụ trì ở đó phải tự ý đem chôn nàng ở miếng đất sau chùa.
Ðó là vì gia đình Ðông Bích sau khi làm chay ở chùa về được mấy ngày thì gặp tai biến. Nguyên trước đây ông Ðông Bích lúc còn buôn bán ở tỉnh thành có giao du với một bọn quân nhân. Bọn này, đi đánh trận xa ở Á Ðông, có gửi ông một số vàng khá lớn. Yên trí họ đi là chết, Ðông Bích cướp sống cả chỗ vàng rồi dọn về Hốt Tử, nhưng chẳng may trong bọn quân nhân đi chiến trận ở xa xôi lại có một vài người trở về. Thăm dò tin tức, biết được chỗ ở của ông Ðông Bích, họ bèn tìm đến để hỏi thì bà Ðông Bích không chịu trả mặc dầu có chữ của ông Ðông Bích biên nhận rành rành. Những người quân nhân mất của, vô cùng uất hận, một đêm đột nhập nhà Ðông Bích giết bà và mấy đứa cháu, không chừa một người nào.
Thi hài của Giáng Tuyết vì thế đành bỏ thối ra đến nửa năm trong một gian phòng nhỏ, ẩm thấp, đêm đêm le lói một ngọn nến.
Ðứng ở đầu hòm, có một cái hình người trông như hình con đúm, tay xách một cái lồng đèn mẫu đơn.
Một hôm, một người bạn thân của Ðại Thông tên là Bán Phúc đến thăm chàng và rủ chàng đi du ngoạn.
- Ở nhà mãi làm gì? Cảnh trời sáng lạng biết ngần nào. Cứ giam mình trong học mãi thế này thì ốm mất. Chuyện “ma” ấy đã cũ lắm rồi.
Ðại Thông khoác cái áo mỏng và bình tĩnh ra đi với bạn...
Ðại Thông thấy rất khoan khoái đã được dự một buổi du ngoạn thú vị bên hồ Bình Hoa.
Nước hồ lăn tăn gợn sóng, phản ánh màu da trời xanh ngắt. Ðỉnh núi Hữu La, thay vì tuyết băng trắng xóa bắt đầu có lá xanh tươi, dưới chân núi hoa đào đua nở, hương thơm ngát cả bầu trời.
Hai người bạn thân vô tình cùng hát lên một câu:
“Nếu không có rượu Hoàng Hoa...”
Rồi họ rủ nhau vào một quán rượu bên bờ hồ, ngồi xuống chiếu trải sẵn và uống hết chén này đến chén khác. Ðến chén thứ chín, thứ mười Bán Thúc tiên sinh đã ngà ngà say, nói huyên thuyên. Tiên sinh đến ngồi bên bác lái buôn ở thành Hoành Tân để nói chuyện về mối tình duyên kỳ ảo giữa ma và người. Ðại Thông lấy làm khó chịu nên bỏ ra đi chỗ khác.
Chàng đi chếnh choáng theo ven hồ vừa hát vừa cười một mình thì thấy ở ngay đấy có một chiếc thuyền bỏ không, chàng bèn bước xuống nằm nghỉ một lát cho đỡ mệt. Chàng nằm xuống sàn thuyền, lấy tay làm gối, và ngủ một giấc thật say. Bỗng chàng hé mắt vì vừa ngửi thấy một mùi thơm thoang thoảng... Xa xa, tiếng chuông chùa vẫn ngân vang rền rĩ... Ðại Thông giơ hai tay lên ôm lấy đầu. Chàng tưởng như trông thấy trong bóng tối một làn ánh sáng đỏ hé ra... ánh sáng của chiếc đèn lồng. Ðại Thông một tay cầm mão tần ngần còn một tay cầm nhánh hoa có ai đó để trên thuyền tự lúc nào để lên mũi ngửi. Mùi thơm của hoa làm chàng ngất ngây...
Hoàng hôn đổ xuống ở bên kia sông. Du khách đã lả tả ra về. Bỗng nhiên một tiếng chuông chùa ngân nga đâu đó làm Bán Phúc tiên sinh như chợt tỉnh vội hỏi:
- Ông bạn của tôi đâu rồi?
Nói đoạn. Bác Phúc vội trở dậy đi tìm quanh hồ và gọi ầm lên. Không một tiếng trả lời, có chăng chỉ là tiếng vang đáp lại như giễu cợt. Ông lại quay về chỗ cũ, trong lòng bối rối. Chính lúc đó ông trông thấy trong khoang thuyền mập mờ cái mão đỏ của Ðại Thông và bên cạnh còn có một cành hoa lê còn đẫm sương...
Sài Gòn, trọng xuân Kỷ Hợi.
Vũ Bằng