watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
21:33:0428/04/2025
Kho tàng truyện
Chỉ mục bài viết
Trên Nỗi Nhọc Nhằn
Trang 2
Tất cả các trang
Trang 2 trong tổng số 2
Sóng ầm ầm đánh thức Ngọc dạy. Tiếng sóng mạnh mẽ hối hả như vậy khiến Ngọc đoán là xuồng đã vào gần tới bờ. Mặt trời vừa ló dạng tỏa những chùm ánh sáng yếu ớt soi sáng cho Ngọc thấy vùng đất trước mặt. Con thuyền nhỏ bé rùng mình trước những đợt sóng nhấp nhổm xô đẩy nhau chạy vào bờ. Ngọc sợ những đợt sóng quái ác này sẽ đập vỡ con thuyền nên vội vàng chèo trở ra chạy song song với bờ đất. Một vài thuyền đánh cá chạy ngang. Anh vội vàng lấy chiếc bao trắng đựng bánh của dàn khoan cho buộc vào đầu cần câu giơ lên phất lia lịa cầu cứu xin dắt vào bờ. Mấy con tàu vô tâm làm ngơ tiếp tục di chuyển. Ngọc chán nản nhìn theo bằng ánh mắt vừa tủi hận vừa cam chịu. Anh cố gắng đưa thuyền vào bờ. Dòng nước ngược làm con thuyền bướng bỉnh không chịu nhúc nhích theo nhịp chèo mạnh mẽ của anh. Anh loay hoay lựa hướng vất vả trăm bề mới đưa được con thuyền vào bờ. Anh neo thuyền, kiểm lại thấy còn một gói bánh bích qui lớn, ba chai nước ngọt, một can nước và con dao. Anh đặt chân lên bờ vào lúc 10 giờ sáng ngày 25 tháng 6 sau tám ngày đêm dở sống dở chết trên biển. Anh đi sâu vào đảo bằng những bước đi khệnh khạng cáng náng. Hai bên bẹn đau nhói xót xa theo nhịp bước. Nước muối anh dội trên người cho qua cơn khát đã làm những kẽ trên người anh lở loét đau đớn. Anh nhìn thấy một căn chòi tạm bằng tranh nằm giữa bụi dứa phía trước mặt. Hai ông bà già ngồi chong mắt ngạc nhiên nhìn anh đi tới. Nhìn quần áo, anh biết họ là người Hoa. Anh thở phào nhẹ nhõm, vui mừng vì không đặt chân lên quê hương mình. Anh đã tới nước người. Nỗi mừng vui làm anh nghẹn ngào chua sót.
Mấy người dân chài lưới xúm xít vây quanh Ngọc nhìn anh bằng những cặp mắt ngạc nhiên như thể anh từ một thế giới khác tới. Họ chỉ chỏ xí xô hỏi anh. Anh lắc đầu không hiểu. Những bộ mặt đen đúa nằm dưới những chiếc nón có chóp nhọn nhe răng ra cười ngây ngộ Anh liếc nhìn thay có chiếc giếng nước bèn làm bộ điệu xin tắm. Họ gật đầu. Anh múc nước xối lên người. Nước chảy tới đâu muối tan ra tới đó. Anh cảm thấy sự thoải mái chạy từ từ khắp người. Bộ quần áo dầy như mo cau mềm lại theo dòng nước ngọt. Người anh như được hồi sinh. Nhẹ nhàng từ thân xác tới tâm hồn. Sự bình an tươi mát như một cơn mưa tham suốt trong anh.
Anh nhìn ra con thuyền thân thương đã đưa anh tới bến bờ. Mấy người chài lưới đang lục lọi lấy đồ trong thuyền. Chợt lóe trong anh một ý nghĩ khôi hài: ít ra mình cũng có chút quà cho những người chủ nhà mới quen này. Anh làm dấu xin cơm ăn. Họ mang cơm cá đến và đứng nhìn anh ăn ngon lành. Anh cúi đầu ăn không biết ngượng. Chỉ khi bụng đã lưng lửng no anh mới cảm thấy mình tội nghiệp như một tên hành khất khốn khổ ngốn từng vốc cơm trước con mắt thương hại của những người tốt bụng. Ăn xong anh ra dấu muốn ngủ rồi trải áo mưa trên cát ngủ li bì không biết trời trăng gì.
Khi anh mở mắt dạy thì trời đã nhá nhem tối. Mắt anh nhức nhối như bị một con dao cào xát. Cái nắng chói chang trên biển cả đã làm mắt anh đau mở không muốn ra. Chỉ còn hai người đàn ông đứng tuổi và một thanh niên ngồi lại chòi canh. Họ thắp đuốc mang đến cho anh cơm và mấy khúc cá chuồn lớn bằng miệng chén bảo ăn. Cá tanh nhưng ngọt lịm. Họ nhìn anh ăn với ánh mắt thích thú vô cùng. Ăn xong anh viết chữ Hainam lên cát, lấy tay chỉ vào hỏi. Họ gật đầu nói: "Hainam". Anh chắc chắn mình đã tới bến. Nước mắt anh bỗng nhiên trào ra. Nỗi mừng râm ran khắp người. Anh cảm thấy người lảo đảo. Như vẫn còn những lượng sóng bập bềnh chung quanh.
Ba cặp mắt nhìn anh hỏi han. Anh nghe loáng thoáng thấy chữ baba, mamạ Anh gật đầu. Họ cười. Anh viết chữ Vietnam lên cát. Họ gật đầu. Một người làm dấu đeo nhẫn nơi ngón taỵ Anh đoán họ hỏi anh có vợ chưa. Anh gật đầu. Họ làm bộ điệu ẵm con nhỏ. Anh giơ một ngón taỵ Họ cưoi nói: "Hẩu à! Hẩu à!". Câu chuyện khập khiễng như vậy mà vui. Những cái đập vai mạnh mẽ, những nụ cười chân chất, những câu nói mạnh ai nấy nghe làm Ngọc cảm thấy ấm cúng tình người. Biển vẫn còn dạt dào bên cạnh mà anh thấy như đã xa lắm những giờ phút cô đơn trong con xuồng nhỏ.
Sao đã trải ra đầy trời. Họ rủ Ngọc vào chòi ngủ. Nhìn căn chòi nhỏ bé, Ngọc làm hiệu muốn ngủ ở ngoài. Anh xuống bãi khiêng thuyền lên, lật úp lại rồi chui vào đắp áo mưa ngủ. Những ngày chống chỏi với sóng gió hiểm nguy, đầu óc Ngọc dồn hết vào sự sống còn của bản thân. Đêm nay tạm nằm an lành trên đất liền hình ảnh vợ con, cha mẹ, xóm làng xúm xít kéo tới. Mỗi khuôn mặt là một tiếng thở dài. Anh như chới với trong cái vời vợi cách trở. Biết bao giờ mới được ôm lại vợ con, nhìn lại cha mẹ, sống lại với xóm làng. Anh chẳng có một chút hy vọng nào trước mặt. Câu chuyện múa may bằng tay với những người chài lưới chat phác trở lại với anh. Họ hỏi thăm bố mẹ vợ con anh một cách tự nhiên như những điều mà mỗi con người đều phải có. Những mắt xích ruột thịt dịu dàng nối kết cuộc sống. Vậy mà anh đã gạt tất cả để một mình vất vưởng nổi trôi vô định. Những hạt cát dưới lưng như muôn ngàn mũi kim châm chích vào da thịt làm anh đau nhói tới tâm can. Giấc ngủ chập chon ma quái như có như không.
Ngọc đang mơ mơ màng màng thì nghe thấy tiếng đập vào xuồng. Anh nhấc xuồng, lật áo mưa ngó mặt ra coi. Hai người mặc đồ ka ki vàng, đeo súng lục đứng nhìn anh. Anh vội ngồi dậy. Một người ôm trái dưa hấu trên tay vẫy anh thân thiện. Họ ngồi xuống đập trái dưa hấu mời Ngọc ăn. Anh nhanh nhẹn đỡ miếng dưa vì sợ sệt không dám làm trái ý những người có súng. Họ cười, cắn dưa và ra hiệu bảo anh ăn. Miếng dưa ngọt mát làm Ngọc tỉnh táo. Ba người ăn hết trái dưa rồi họ đứng dạy ra dấu bảo anh ngủ tiếp. Ngọc ngẩn người nhìn họ đi rồi chui vào thuyền. Anh nghĩ có lẽ họ được thông báo sự có mặt của anh nên mang trái dưa hấu ra chào mừng khi họ đi tuần trạ Anh cảm thấy ấm áp trong lòng.
Ánh sáng len lỏi vào thuyền đánh thức Ngọc dậy. Đã lâu lắm mới có một buổi sáng chồm dạy đứng trên hai chân vững vàng như sáng hôm naỵ Anh kiếm nước rửa mặt rồi đứng nhìn quang cảnh chung quanh. Nơi đây có lẽ chỉ là một góc khuất nẻo xác xơ của đảo Hải Nam. Nếu chôn chân ở đây anh không hy vọng tới Hồng Kông được. Phải kiếm tới nơi thị tứ. Anh mau chóng quyết định tiếp tục cuộc hành trình e sợ sự chậm trễ sẽ làm tinh thần anh lụn bại không dám nhào ra biển lại. Gặp mấy người chài lưới hôm qua, anh làm dấu chào tiếp tục ra đi. Họ cản anh lại chỉ tay ra sóng gió ngoài biển. Anh lắc đầu cương quyết. Họ mang cơm cá ra cho anh ăn. Ăn no rồi họ còn bọc thêm cho anh một gói. Anh sợ cá để lâu sẽ tanh nên không lấy cá. Họ đưa cho anh thêm gói muối và bình nước. Anh vác thuyền xuống biển. Họ đứng vẫy tay từ giã. Anh thấy bùi ngùi lưu luyến những con người tốt bụng chất phác này.
Ngọc căng buồm đón gió tây nam đẩy xuồng đi. Anh cảm thấy khỏe khoắn sau một ngày nghỉ ngơi tắm rửa trên đất liền. Xuồng mềm mại chạy dọc theo đảo. Đất liền khi tỏ khi mờ bên phía tay trái như một chỗ dựa vững chắc khiến anh an tâm. Sóng lao xao vỗ vào mạn xuồng đùa nghịch giờ nọ qua giờ kia. Ngày mau chóng trôi quạ Trời sụp tối nhanh chóng. Anh định cho thuyền ghé vào bờ để ngủ thì thấy một bãi cát dài nằm vắt bên bờ đảo. Chẳng có một eo biển nào cho thuyền anh ghé đỗ. Đành phải thả neo ngủ trên xuồng. Sóng như những anh khổng lồ không tim nhồi xuồng không chút xót xạ Ngọc sợ sẽ có những ngọn sóng vỗ cao làm chìm xuồng nên vội vàng nhấc neo chèo thuyền ra xa bờ hơn. Những ngọn sóng ngoài khơi bớt hung hăng làm Ngọc yên tâm bỏ neo ngủ tiếp. Giấc ngủ chập chờn rung rinh làm Ngọc thèm cái an bình vững chãi trên đất liền đêm trước.
Trời vừa hừng sáng, đám tàu đánh cá đêm lừng lững trở về. Chiếc xuồng nhỏ cheo leo bên những con tàu lớn làm anh thấy hết cái mỏng manh phận mình. Anh đứng lên lấy nón vẫy làm hiệu cho đoàn tàu tránh xa sợ chạy sát quá đứt dây neo của xuồng. Đoàn tàu an lành vượt quạ Ngọc kéo neo, tiếp tục chèo thuyền theo ven biển khi mặt trời rạng rỡ trở lại. Đôi tay anh nhịp nhàng đẩy mái chèo đưa con thuyền nuốt từng thước nước. Không còn ám ảnh bởi đói khát, không còn canh cánh nỗi hiểm nguy, cuộc hành trình đã nhẹ nhàng đi nhiều phần. Không còn sự thách đố của biển cả mà chỉ còn cung cách đối xử của con người. Anh đã được đón tiếp tử tế ngày hôm qua, nhưng sao lòng anh vẫn vẩn vơ e ngại sự hắt hủi của những ngày tới.
Mặt trời ngất ngưởng trên cao soi bóng con thuyền co quắp tội nghiệp. Ngọc nhìn thấy lối vào cảng của tàu đánh cá. Anh cho thuyền trực chỉ vào đất liền. Từng bầy thanh niên thiếu nữ đội mũ tai bèo chạy ra bờ. Anh thả neo bước lên bờ xin cơm ăn. Cho ăn xong họ đuổi anh đi liền. Anh giơ bình xin nước uống. Một người đang phơi quần áo chỉ anh tới giếng. Một ông già thấy tội nghiệp bưng cho một tô giống như bánh canh bảo ăn. Anh ngồi xuống húp xì xụp tô bánh lẫn lộn vừa bột vừa tôm cua thấy ngon chi lạ. Anh trả lại tô, ú ớ cám ơn ông già tốt bụng. Anh lấy que vẽ trên cát hình chiếc tàu thả giây kéo chiếc thuyền nhỏ để xin kéo thuyền đi. Họ lắc đầu đuổi đi sau khi cho một gói bánh bích qui đựng trong túi nhựa. Anh còn đang nằn nì thì một nhóm người khác đã xô thuyền anh ra biển. Anh vội chạy ra bờ biển kéo thuyền lại, leo lên chèo ra khơi. Anh mải miết chèo tới tối thì gặp sóng lớn nên không có cách nào cho thuyền vào bờ được. Anh vội chèo tới một hòn đảo nhỏ cách bờ độ sáu cây số. Thuyền vừa tới đảo, anh nhẩy xuống tháo hai bánh lái phụ và kéo thuyền lên. Anh đi lòng vòng quanh đảo thấy chỉ có toàn đá và những bụi cây cao ngang đầu gối. Không gặp một bóng người nào cả. Anh hơi rợn người khi thấy mình đứng trên một đảo hoang. Đành phải liều vậy. Anh mở gói bánh ra ăn, uống nước no nê rồi lật úp thuyền xuống chui vào trong ngủ.
Sáng hôm sau, Ngọc chèo thuyền ra đi. Chèo mải miết tới trưa mới gặp một bờ biển khá sầm uất. Anh cho thuyền ghé vộ Mắt anh rạng rỡ khi thấy một khu dân cư nho nhỏ với những mái nhà lụp xụp và một khu chợ nhỏ vẻn vẹn vài quầy bán trái cây, giày dép, bánh kẹo như một cái chợ trời nhỏ ở Việt Nam. Anh tới một quầy bán đồ ăn xin ăn. Cái bản mặt nhếch nhác của anh như đã chai lì nên xin ăn thật thành thạo. Họ cho anh một tô cháo trắng bỏ đường và một chén cá nục luộc. Cá vừa tanh vừa mặn xông lên mùi khó chịu. Bụng đói nên thoáng một cái anh đã ăn xong. Một bà già ngồi bên cạnh thương hại cho anh một to giấy bạc. Có lẽ là một đồng vì anh nhìn thấy số một trên tờ giay bạc. Anh cầm tờ bạc, cám ơn và lết tới hàng bánh. Anh giơ tờ giay bạc tay chỉ gói bánh. Bà hàng đưa cho anh một gói, móc túi lấy tiền thối lại. Anh xua tay chỉ vào đĩa bánh chiên trông như bánh cam bên nhà. Bà đưa cho anh hai chiếc. Anh vừa đi vừa ăn bánh. Sao mà ngon lạ ngon lùng đến vậy.
Một người đàn ông lớn tuổi đi ngược chiều nhìn anh tủm tỉm cười. Anh cúi đầu chào. Ông đưa tay ra bắt tay anh ý muốn nói chuyện. Anh kéo ông ngồi xuống vẽ bản đồ Việt Nam trên đất rồi chỉ tay vào người nói Việt Nam. Người đàn ông gật gù ra vẻ hiểu. Anh chỉ tay xuống đất hỏi Hải Nam. Ông ta lại gật đầu. Anh chỉ chung quanh hỏi đường đi Hồng Kồng. Ông lắc đầu không biết.
Ngọc trở lại thuyền ra khơi tiếp tục cuộc hành trình. Anh giương buồm theo gió tây nam đi tới lúc mặt trời lặn. Những điểm trắng mờ dưới nước làm anh khựng lại quan sát. San hô! Những mảng đá lởm chởm dựng đứng trông dễ sợ. Sóng vỗ vào đá làm thuyền anh chập chờn nguy hiểm. May là thuyền nhỏ nổi cao nên không đụng san hộ Thoát ra khỏi bãi san hô, Ngọc quay lại nhìn mà còn thấy rùng mình. Nếu thuyền anh lớn hoặc nặng thêm một chút thì không hiểu bây giờ mạng sống anh ra sao.
Mặt trời hạ xuống sát mặt biển. Ráng chiều nhắc anh tìm chỗ ngủ qua đêm. Anh nhìn thay một eo biển khuất sóng nên vội cho xuồng ghé vào. Anh tưởng như hoa mắt khi thấy một chiếc ghe cong trên bọ Thứ ghe này anh quá biết. Đi biển hết xảy. Chém sóng ngọt như chém bùn. Sóng chưa đánh tới, đầu ghe đã được nhấc lên an toàn. Loại ghe này làm gì có ở Trung Quốc. Chắc chắn là một ghe vượt biên của dân Việt. Ngọc cảm thấy nôn nao khôn tả nhưng vẫn tự nhủ phải coi chừng. Thói quen cảnh giác từ sau ngày mất nước đã trở thành bản năng sinh tồn trong anh lúc nào không biết. Nó bám cứng anh như cái bướu thảm thương trên lưng một người gù. Nhìn thấy đồng bào trong lúc bơ vơ nơi đất người cũng chẳng được trọn niềm vui. Anh cố lấy vẻ thản nhiên đi về phía chiếc ghe.
Trước mũi ghe tụ tập một đám khoảng hai chục người đang nấu ăn trên cát. Họ nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt. Lâu lắm mới lại nghe được thứ tiếng nói lịm hồn này. Anh làm bộ đứng coi chiếc ghe máy lạ. Một người liếc nhìn anh buông tiếng chửi thề: “Đ.M. thằng tàu nào tới coi ghe làm chi vậy?”. Ngọc thấy tức cười trong bụng. Câu chửi tiếng Việt nghe cũng dễ thương chi lạ. Anh quay qua đám dân vượt biên lên tiếng hỏi:
- Mấy anh từ đâu tới vậy?
Cả đám người im lặng nhìn anh sững sờ. Người thốt ra câu chửi rụt rè hỏi:
- Anh ở đây hay vượt biên tới vậy?
- Vượt biên!
Những cặp mắt tròn xoe ánh lên vẻ mừng rỡ. Nhiều giọng nói tíu tít hỏi:
- Anh đi từ đâu vậy?
- Lăng Cộ Còn các anh ở đâu?
- Tụi tui mười người ở Huế, mười một người từ Nha Trang. Mà anh đi với đoàn nào vậy?
- Tôi đi một mình!
Những khuôn mặt ngạc nhiên nhìn Ngọc sững sờ như không tin ở tai mình. Một người e dè hỏi:
- Đi một mình? Tàu anh đâu?
Ngọc chỉ chiếc xuồng của anh. Họ chạy ra coi. Cánh buồm vẫn còn chữ S.O.S. in hình lên trời như một cánh tay ngạo mạn thách thức. Một người quay lại hỏi anh:
- Anh vượt biên từ Lăng Cô bằng chiếc xuồng nhỏ xíu này thực sao? Ghê quá vậy!
Họ mời Ngọc tới ăn cơm chung. Tiếng nói chuyện rôm rả làm Ngọc có cảm tưởng như đang ngồi ở một làng đánh cá ven biển miền Trung. Nhóm người Nha Trang kể tàu của họ đi gần tới Phi Luật Tân bị hỏng máy trôi dạt về tới đảo Hải Nam. Hai người trên tàu không chịu nổi đói khát đã bỏ thây trên biển cả. Tới gần đảo, họ gặp một chiếc tàu đánh cá Trung Quốc bèn đưa một chiếc nhẫn thuê kéo vô đảo. Khi lên bờ người nào người nấy ốm nhách như những bộ xương đi không muốn nổi, bước trên cát mà té chui té nhũi. Nhà chức trách trên đảo phải đưa xe hơi tới chở tất cả đi bệnh viện chích thuốc, nghỉ ngơi và bồi dưỡng cho lại sức.Tàu của họ bị hư hại nặng phải cho sửa.
Ngọc thấy mình như một con chim lẻ bày giữa đám đông cùng xứ sở. Họ đi chung với nhau lâu ngày, gánh chung hiểm nguy, chịu chung đói khát nên kết tụ lại với nhau thành một khối cứng ngắc. Anh như một hòn đá cô đơn muốn bám víu vào mà nghe như có sự lệch lạc hững hờ. Nhân một lúc vui chuyện, Ngọc hỏi người thuyền trưởng của tàu Huế xin nhập bọn tiếp tục cuộc hành trình. Câu trả lời nhận được làm Ngọc thấy buồn trong bụng: "Để hỏi lại mấy người cùng tàu đã".
Ngày hôm sau, sáng sớm giữa lúc Ngọc đang ngủ thì tai nghe tiếng máy tàu. Anh nhỏm dậy thay tàu Huế đã quay mũi ra khơi. Anh vội nhảy xuống xuồng chèo theo nhưng không kịp. Câu trả lời phũ phàng như một dấu chấm hết.Kể từ lúc ra đi Ngọc chưa bao giờ thấy chán nản như vậy. Anh thẫn thờ chèo thuyền rong ruổi mong tìm được chút hy vọng khác. Con xuồng nhỏ di chuyển có vẻ nặng nề hơn. Ngọc như phó mặc số phận cho dòng nước mỗi lúc như tô đậm thêm nỗi đe dọa. Tới trưa bụng đói cồn cào mà trên thuyền chẳng có gì ăn, Ngọc ghé vào một eo biển có mấy người chài lưới đang ngồi ăn cơm. Anh tới đứng chực một bên cho người ta ăn xong. Như một tên ăn mày thành thạo, mặt chai lì không biết xấu hổ. Mấy người chài lưới cũng còn tử tế. Họ đưa cho anh mấy nắm cơm và khúc cá luộc. Anh gục đầu ăn vội vã. Cho cho anh ăn xong họ đuổi anh đi.
Ngọc ngao ngán tiếp tục cuộc hành trình.Đầu óc anh quay cuồng chán nản. Chiếc xuồng tội nghiệp của anh so với những tàu đánh cá xung quanh trông như một đứa bé nhếch nhác bệnh hoạn. Nước vào thuyền mỗi lúc mỗi nhiều khiến anh phải tát nước không ngừng. Sóng gió và những tảng đá ngầm đã triền miên hành hạ làm con xuồng như một người bệnh kiệt quệ. Vừa chán nản, vừa ngại hiểm nguy, Ngọc cho thuyền vào bờ, cột lại kỹ lưỡng, đi bộ trở về với nhóm người Nha Trang. Anh nhìn con thuyền đã cùng anh nếm đủ ngọt bùi nằm cô đơn trên bo biển mà không cầm được nước mắt.
Đường bộ trở về gập ghềnh nguy hiểm. Ngọc leo lên từng mỏm núi nhô ra biển, vượt qua những khúc đường rậm rạp quanh co, trèo xuống những hốc đá cheo leo hiểm trở. Anh đi từ năm giờ chiều tới mười giờ đêm mà mới chỉ vượt được một khoảng đường ngắn. Người mệt lả, bụng cồn cào, Ngọc đánh liều đào một cái hố chui xuống ngủ cho bớt gió. Anh nằm vật vờ như người chết trong phần mộ của mình.
Ánh mặt trời sớm đánh thức Ngọc dậy. Anh tiếp tục nuốt đoạn đường chông gai. May mắn anh gặp một đám dân đánh cá đêm vừa trở về. Họ vừa chuyển cá lên bờ xong đang sửa soạn ăn uống. Anh ngừng lại đến cạnh đứng cho xin ăn. Họ cho anh cơm ăn với cá, thức ăn có lẽ là độc nhất của dân chài lưới. Họ vui miệng nói chuyện với anh. Anh ra dấu không hiểu. Họ dùng điệu bộ hỏi anh có vợ con không. Anh viết lên cát hai chữ Hán nữ và tử, chỉ tay gật đầu. Họ tỏ vẻ thương hại anh. Một thanh niên đưa thuốc mời anh hút. Bao thuốc nhàu nát chỉ còn mấy điếu lẻ loi.
Ngọc chia tay đám người tốt bụng mải miết đi tới chiều mới về tới chỗ đám người Nha Trang tụ tập. Anh nhập bọn với họ mà lòng cảm thấy ấm áp như được trở về với gia đình. Những ngày tân khổ đã đủ cho lòng anh mềm nhũn vị cô quạnh. Anh cần được sống giữa một đám đông, nhất là đám đông đồng bào ruột thịt của anh. May cho anh về vừa kịp lúc. Tàu Nha Trang đã được nhà chức trách trên đảo cho sửa chữa xong. Một tên công an biết chút ít tiếng Việt tới thông báo quyết định cho đi bằng một giọng cứng cỏi chậm rãi: "Tàu của các người đã được sửa xong. Bây giờ tiếp tục đi tới Hong Kong". Hai thùng bánh được khiêng xuống tàu làm quà cho đám dân vượt biên. Tàu chạy từ từ ra biển. Ngọc lạ lùng với cuộc hải hành mới. Những bóng người lăng xăng quanh anh và con tàu lớn vững vàng làm anh cảm thấy biển như hiền hòa nhỏ nhẹ hơn. Anh dõi mắt xuống mặt biển phía dưới lòng lâng lâng như được nhấc lên cao theo con tàu đang thản nhiên đè lên những ngọn sóng tầm thường thấp kém.
Tàu đi được vài tiếng đồng hồ thì hư máy. Mọi người nhìn nhau lo âu. Tài công cố sửa máy không được đành phải cho tàu ghé vào bờ. Mọi người đồng ý đi bộ quay lại chỗ cũ. Đám công an giận dữ khi thấy đoàn người trở lại. Đám khách không mời này thật phiền phức. Tên công an nói tiếng Việt trút cơn thịnh nộ lên đầu Ngọc:
- Có phải ông đi xuồng S.O.S. không?
- Phải.
- Sao không tiếp tục đi bằng xuồng?
- Xuồng hư rồi.
- Xuồng còn tốt mà! Sao vứt hai thùng bánh đi?
- Tàu hư không mang về được.
- Các người nói không thật thà.
Ngọc không dám cười câu tiếng Việt ngây ngô của tên công an. Mười hai người tị nạn không được phát cơm nấu sẵn như trước nữa. Mỗi ngày công an cho bốn kí gạo bắt thổi nấu lấy. Mọi người ngậm câm chịu trận. Được vậy cũng còn tốt chán. Mấy ngày sau, cơn giận dữ trôi qua, mấy tên công an vui vẻ trở lại. Một bữa, tên công an nói tiếng Việt hớn hở loan báo: "Tôi báo cho các người một tin vui. Đồng chí Lê Duẩn (anh ta lắc đầu nói lại) Không phải. Ông Lê Duẩn đã chết rồi".
Ngày 15 tháng 7, công an cấp cho đám người tị nạn một chiếc tàu khác để tiếp tục ra đi. Tàu nhổ neo vào lúc một giờ trưa chạy cặp sát theo ven bờ. Đến đêm biển nổi sóng dữ dội. Tàu khặc khừ như người ốm dạy. Máy nóng, chân vịt cong, tài công phải cho tàu tấp vô bờ. Súng từ trên bờ nổ ran đuổi tàu đi. Mọi người sợ co rúm người lại. Tài công vội đưa tàu ra bỏ neo ngoài khơi chờ sáng.
Sáng hôm sau tàu lại quay mũi xin vào bờ. Công an bắt mọi người phải ở yên trên tàu. Đám trai tráng tháo láp rút chân vịt ra xin vô sửa. Họ chỉ cho hai người vào làng thuê thợ rèn đập chân vịt lại. Khi trở ra, công an theo lên tàu coi ráp chân vịt xong xuôi mới đuổi tàu đi.
Đám người bất hạnh lại rong ruổi trên biển cả. Mặt trời mọc. Mặt trời lặn. Ngày qua đi với niềm hy vọng sớm tới Cảng Thơm. Cảng chưa thấy đâu nhưng mùi thơm đã bay tới. Một tàu đánh cá kéo cờ Hồng kông xuất hiện. Mọi người leo lên boong rối rít vẫy gọi. Con tàu của xứ sở cho mong cặp sát vào tàu tị nạn. Gạo, thuốc lá, nước ngọt được chuyển quạ Cộng thêm một cánh tay chỉ đường tới Cảng. Và một nụ cười chúc lành. Cũng đủ ấm lòng những con người lang thang đi tìm một quê hương mới.
Tàu đã tới cuối đảo Hải Nam. Bảy ngọn núi giăng giăng trùng điệp trên đảo như những vòng tay từ biệt. Giã biệt hòn đảo thân tình đã cho những ngày dừng chân nồng ấm trên đường phiêu bạt. Nhưng đảo có lẽ còn muốn níu kéo người. Tàu rơi đúng vào một vùng nước xoáy chập choạng như một tên người gỗ say rượu. Một trận bão kéo tới như bồi thêm một cú trời giáng. Con tàu chẳng còn sức chịu nổi, lao đao trôi giạt vào bờ. Hôm đó là ngày 19 tháng 7.
Tàu hư hại hoàn toàn nằm chỏng chơ như một xác chết. Hơn một chục người đứng sững ngắm sự tuyệt vọng có thật trước mặt. Không khí u ẩn như một đám tang. Một chiếc xe díp công an chạy tới. Người giỏi tiếng Anh nhất trên tàu, cô Hiền, trả lời cuộc thẩm vấn, khai danh sách những người trên tàu và tất cả được chở đi bằng xe díp lớn của công an. Nơi đến là một chỗ làm mọi người ngơ ngác: một tửu lầu. Công an bảo mọi người vô bàn ăn muốn kêu gì ăn thì kêu. Tờ thực đơn bằng tiếng Hoa như muốn diễu cợt với đám thực khách ngượng ngùng bối rối. Múa chân múa tay một hồi rồi mỗi người cũng có một tô mì xe lửa trước mặt. Một thực khách bên bàn kế cận quay sang hỏi bằng thứ tiếng Việt cứng cỏi:
- Việt Nam hả?
- Dạ, Việt Nam.
- Ăn cơm chưa?
- Kêu rồi. Sắp ăn. Ông nói tiếng Việt giỏi quá!
- Hồi trước tao ở Việt Nam, còn mày ở đâu? Hồi trước kia tao ở Phan Thiết.
Ngọc chợt nghĩ tới một hình ảnh ngộ nghĩnh. Tiếng Việt như một anh chàng ưa đùa dai lúc nào cũng đưa chân cẳng ra ngáng cho người khác ngã. Chỉ cần phát ngôn vài tiếng xưng hô đơn giản, nạn nhân đã lăn quay ra đất.
Mấy anh công an đứng gác ngoài cửa nhìn vào với vẻ mặt trang nghiêm như đang công tác với đoàn khách... quốc tế. Ăn uống xong mọi người nhìn nhau lo ngại. Tiền đâu trả? Như đọc được nỗi lo ngại trên mặt mọi người, một công an vào quầy trả tiền ghi giấy rồi kêu mọi người đi. Họ dẫn tới nơi không ai ngờ tới: một khách sạn khá sang. Phòng ngủ sạch sẽ, tươm tất có ti vi đàng hoàng. Một anh công an biết tiếng Việt được đưa tới làm biên bản và dặn cứ ở khách sạn cho giải quyết.
Bốn ngày sau, Công an mang xe tới chở ra bến tàu. Một chiếc tàu bốn lốc mang số Quảng Ngãi với 24 người tị nạn ở sẵn trên tàu đang chờ đám khách bất đắc dĩ. Mười hai người lếch thếch leo lên tàu tiếp tục cuộc hành trình. Trời đẹp, tàu lớn làm mọi người yên tâm hy vọng. Ba giờ chiều ngày 23 tháng 7, tàu rời bến trực chỉ Hồng Kông. Cuộc hải hành chót là một kỷ niệm đẹp của Ngọc. Tàu chạy êm ru trong ba ngày đưa 36 người tị nạn tới một nơi ánh sáng rực rỡ từ mặt biển tới đỉnh núi. Hồng Kông lúc trời sắp rạng sáng nằm quyến rũ như một chốn thiên đàng trong tầm taỵ Ba mươi sáu cặp mắt say mê đờ đẫn. Niềm vui đày ắp trong người vỡ tung tràn lan tới những bàn tay đang điên cuồng vứt tat cả đồ đạc, quần áo xuống biển. Tàu Cảnh Sát Hồng Kồng chạy ra thông báo là Hồng Kồng đã đóng cửa trại tị nạn từ ngày 2 tháng 7 năm 1982, nếu tàu muốn đi tiếp họ sẽ giúp đỡ, nếu không mọi người sẽ phải vào trại cấm. Mọi người bằng lòng vào trại cấm. Cảnh sát hướng dẫn mọi người qua tàu của họ, chỉ để hai người ở lại lái tàu theo. Tàu Cảnh Sát cặp vào xà lan. Nhân viên Cục Di Dân xuống làm việc. Hai giờ chiều ngày 26 tháng 7, đám dân vượt biên được chuyển vào phòng cách lỵ Đầu óc Ngọc tê liệt trống trải. Anh ngồi như một pho tượng chảy nước mắt. Anh đã cách ly với quê hương, cách ly với ruột thịt gia đình, cách ly với những ngày nhọc nhằn bấp bênh trên biển cả. Cách lỵ Sao chữ nghĩacó lúc tàn nhẫn như vậy!

Một tháng chín ngày không phải là thời gian dài. Nhưng nếu tính từng phút trực diện với thần chết, đối đầu với tuyệt vọng, thách đố với hiểm nguy thì mỗi phút là một thời gian không phải ngắn. Một tháng chín ngày kết hợp bởi một chuỗi giây phút căng cứng như vậy phải là một thời gian lê thê nặng nề vo chặt con người trong nỗi khủng khiếp tai quái. Ngọc ngồi trước mặt tôi trong một căn phòng tồi tàn dưới hầm một tòa nhà cũ rích ở Montreal không có vẻ là người có đủ can đảm tung mình vào cái mênh mông đầy bất trắc của đại dương, có đủ nghị lực căng mình chống trả với sóng gió, bão táp cuồng nộ của biển khơi. Tôi không thay gì đặc biệt nơi khuôn mặt xương xương tai tái, nơi đôi tay khẳng khiu đen đúa, nơi dáng người cao cao chênh vênh. Chỉ có cặp mắt và đôi lông mày. Cặp mắt lì lợm cương quyết vẫn còn hằn rõ những tủi nhục đầy đọa nơi quê cũ. Đôi lông mày rậm rạp giao nhau như hai con sâu xù xì đang cụng đầu nhau thách đố. Và có một điều tôi không nhìn được nhưng đã rờn rợn cảm thấy tới tận cùng tâm can khi ngồi nghe giọng kể bình thản về một chuyến đi không một chút bình thường.
Đã có nhiều người vượt biển. Đã có nhiều cách ra đi. Chuyến đi nào cũng là một phiêu lưu vô định. Tai ương nào cũng là đáy vực thảm sầu. Người Việt bỏ nước mỗi người đều có những mất mát tận cùng chưa một dân tộc nào phải gánh chịu. Viết thêm về một chuyến đi nghĩ ra cũng chẳng làm nặng thêm được những mất mát tự nó đã muôn phần chĩu nặng. Vậy mà tôi vẫn không thể không cầm bút kể lại câu chuyện này. Câu chuyện của người đi biển, một mình.
Hết
<< Lùi - Tiếp theo

HOMECHAT
1 | 1 | 69
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com