Trong Giang San Của Nữ Thần Bất Hạnh
Tác giả: Huỳnh Ngọc Nga
-"Nữa đi, ba nghiền nữa đi, gắng lên", Bích Vượng nhắc nhở với vẻ nghiêm trang.
-" Bà không thấy là nó nhuyển như bụi đây sao?"
Teresa cáu kỉnh gắt và nghiền mạnh những hạt mè rang, thỉnh thoảng chị ngừng tay, châm một điếu thuốc và nhìn về cửa sổ.
-"Tại cái tật làm biếng của bà chiều nay chắc phải tom góp hết mấy cái tăm xỉa răng mới đủ xài".
-"Rồi sao chứ?" – luôn muốn dứt chuyện nên Teresa trả lời – “Mấy cây tăm thơm mùi quế sẽ làm thiên hạ thích thêm thôi”.
Bích Vượng tiếp tục chăm chú công việc của mình, cô cắt thái nhanh chóng với vẻ thành thạo. Khúc dồi chả đã được thái từng lát hồng mỏng dể dồn vào một phía, ớt ngọt đỏ thắm đã đươc cắt sợi nhỏ và dưa leo xắt hình hạt lựu nằm chùm nhum một nhóm màu xanh phấn.
Một tia nắng mong manh soi nhẹ trên bếp lò có nồi nước lèo đang reo sôi.
-“ Vặn lửa nhỏ một chút đi bà, sẳn đó, bà đưa giùm tui một nhúm ngò rí”.
-“ Cái gì, ngò rí hả? Bộ bà khùng sao? Bà biết là Giovanni không ưa ngò rí mà. Thôi, để ngò tây đi bà”.
-“ Chắc chắn không được rồi. Món nầy phải bỏ ngò rí mới xong”. Bích Vương nói như phán quyết.
Teresa bực bội, cô đốt thêm một điếu thuốc khác.
-“ Bà làm ơn dẹp giùm cái mùi khói thuốc nầy được không? Bộ bà tưởng tốt lắm sao”
Cô gái nghiện thuốc không ừ hử chi hết, cô bực mình yên lặng.
Chuông đồng hồ treo thong thả gỏ 9 giờ.
Đã hai giờ họ ngồi bên bếp lữa. Ngày Tết năm nay đến muộn.
Bích Vượng hứng chịu sự cáu kỉnh của cô bạn cũ, nàng khẽ nhếch miệng. Với giọng hòa hoản, nàng hỏi:
-“ Sao? Bà có dự định gì cho năm Dậu chưa?
Teresa nghỉ ngợi một chốc:
-“ Chưa biết bà ơi. Ngoài vấn đề sức khỏe và một công việc tốt, tui đang tính chuyện đổi nhà. Nhưng việc nầy không phải là một dự định mà là một ước mơ. Còn bà, bà chờ đợi cái gì vậy? Nhưng khoan nói đã, tui biết rồi, một chuyến về thăm quê nhà chứ gì. Chỉ duy điều nầy mới làm bà hạnh phúc thôi!”.
-“ Ồ hay, tui đang hạnh phúc đây mà....” Bích Vượng sắp xếp cẩn thận những lát chả vào một mâm nhựa màu đỏ đã được trải sẳn vài lát xà lách tươi xanh. Xong cô bày trí những sợi ớt đỏ ngoài vành, cho những thỏi dưa hình hạt liên kết hình vòng, tất cả tạo thành một đóa hoa lạ lùng ngộ nghĩnh. Đúng là vừa đẹp mắt nhìn lại sẽ vừa ngon miệng ăn.
Một vườn hoa đầy hương sắc. Nó hao hao giống chiếc bàn ăn của những buổi ăn Việt Nam luôn được coi trọng. Và nơi đó, người phụ nữ được coi như nội tướng của mọi gia đình người Việt, dù bất cứ ở đâu và là là gì đi nữa lúc nào họ cũng là tác giả duy nhất của công trình mỹ thuật đó.
-“ Năm của con gà gổ...là năm của quyền lực và đam mê, ông bà xưa nói vậy đó. Quyền lực thì tui không quan tâm rồi vì đó là trò chơi của bọn đàn ông, còn lửa đam mê, ha ha..., ở tuổi của tui, tui thích chuyện lâu dài hơn yêu đương lẩm cẩm bà ơi. Lửa dù có cao rồi cũng tắt, giữ sao cho than hồng mãi còn khó hơn khêu chăm cho bùng ngọn lửa đó nghen bà.” Bích Vượng tiếp tục cao giọng nói lên cảm nghĩ của nàng.
-“Bà đúng là Đoàn thị Điễm thời nay thôi, bà chắc là có quan niệm rõ ràng rồi. Bà moi đâu ra nhiều triết lý vậy ? Teresa giận dỗi nói, cô nàng vừa mới đọc xong một quyễn sách nói về các nữ thi sĩ Việt Nam. Cô cười, tiếp:
-“Nhưng nè, bà có biết là bà Điễm viết tuyệt phẩm thơ của bà chỉ khi gần cuối cuộc đời không, khi mà chồng bà, một quan chức của triều đình phải đi công cán xa nhà?
Thiệt tình nghen bà, những người vợ, người mẹ họ đâu có rảnh để làm thơ. Ngay cả cho chính bản thân họ, họ cũng chẳng có thì giờ để lo nữa. Nhưng bà có biết là bao nhiêu thời gian bọn đàn bà chúng mình lảng phí vào việc dọn bàn ăn rồi dẹp bàn ăn, rồi nào nấu nướng, lau rữa, quét dọn không ?”
-“ Không phải là thời gian phí phạm đâu bà. Đó là chức vụ. Một việc làm của yêu thương cùng chung góp cho gia đình”.
-“ Trời đất ơi, tui không thể tin nổi bà. Sao bà có thể nghĩ như vậy được chứ. Bà có biết là bao nhiêu lần bọn mình bắt đôi tay chúng ta phải rữa chén bát, nồi, niêu, soong chảo, muổng nĩa, lọ muối, lọ dầu, lọ tiêu, dao, thớt, máy xay giặt từng cái khăn bàn, khăn ăn...v.v..và v.v..?Tui tính thử rồi, sơ sơ cũng đâu khoảng 1950 lần trong một năm.”
“Ừ hén, đó là bà chưa kể bao nhiêu cây số mà bọn mình chạy từ bàn ăn xuống bếp, từ bếp qua nào là bồn rữa chén, bàn ăn, tủ chén, v.v..và v.v.. Và nào ăn sáng, ăn nhẹ cho tụi nhỏ; rồi trà, cà phê mỗi khi có dịp phải làm. Và còn phải lo ăn cho bà nội, bà ngoại vì nội, ngoại già rồi, đi đứng không vững vàng, thiệt là tội nghiệp quá đi thôi, phải cần có người phụ giúp trong phòng nữa chứ?
“Tui biết điều đó mà, tui cũng đã tính luôn mấy thứ ấy vô rồi: cở chừng 21 lần di chuyển mỗi ngày, chung chung cũng hết 7665 lần mỗi năm.”....
“Để tui tính với. Tui lập gia đình đã 20 năm. Vậy gần 200.000 lần xê dịch, ha ha..ha., ít ra cũng giữ eo được đó chứ bà”
“Nếu tụi mình khiên dời gạch dám sẽ xây được mấy cái giáo đường lắm chứ bộ, bà thấy ghê gớm chưa? Như vậy ít ra tụi mình cũng được người đời sau thừa nhận công sức của mình. Nhưng trái lại chằng ai thấy gì hết, tất cả chỉ là phận sự phải làm thôi. Không có xây dụng cái giống gì cả và ngày mai bọn mình lại phải lập lại mọi thứ. Vậy mà bà nói rằng bà hạnh phúc....Hứ, chỉ có duyên cớ để đưa đến suy nhược khủng hoảng mà thôi, ngoài ra, bà há chẳng nói với tui rằng dân của bà kêu cái bếp là “giang san của nữ thần bất hạnh” hay sao?
“Thôi đi bà ơi, ít ra hôm nay bọn mình phải hài lòng vì chuyên bếp núc chứ. Cơ hội quan trọng như vầy, lại toàn bạn thân tình và có thêm mấy cọng ngò rí hiếm hoi nữa nè, rồi bà coi tụi mình chắc chắn sẽ cho mọi người ăn no thỏa thích đó”
“Ai biết được tại sao ngò rí bị chê? Dân Ý tụi tui loại như vậy thiệt tình không thích”.
“Có gì lạ đâu, dân Việt tụi nầy thuờng cũng đâu ưa gì phô-mai, cả sô-cô-la cũng vậy nữa”.
Teresa đặt nồi nước lên hỏa lò đang cháy và đóng cửa sổ lại.
Nữ thần bất hạnh là Thị Nhi ngày xưa. Chuyện cổ tích Việt Nam thuở nào đựơc truyền khẩu kể về số mệnh đời nàng: vì lý do lắm nhiêu khê thầm kín, người đàn bà siêng năng, cần cù nhẩn nại đó là nạn nhân của một thảm kịch đã chết đau thương trong lửa đỏ cùng với hai người đàn ông mà nàng yêu quí, chàng thợ mộc Trọng Cao và anh thợ săn Phạm Lang. Tại những vùng quê ở Việt Nam mãi đến nay vẫn còn tương truyền rằng Ngọc Hoàng Thượng Đế trên trời cao, cai quản luôn cả thế giới đất và nước, đã động lòng trước tình vợ chồng cao thượng của 3 người nên muốn những nhân vật lịch sử đó - những người đã biết yêu thương thật lòng - trở thành những vị thần thánh thiện trong mỗi nhà. Những phụ nữ Việt Nam cũng như bếp lửa sẽ được họ luôn luôn bảo vệ, bếp lò lúc nào cũng là trọng điểm của người nội trợ trong gia đình. Cho đến lúc gần đây , trong bếp của người Việt, sự hiện diện của những hỏa lò với 3 chân trên để nấu cơm hàng ngày và bếp lò đó cũng tượng trưng cho 3 vị thần của huyền thoại: Phạm Lang là Táo quân; Trọng Cao coi sóc đất đai mùa màng, bảo vệ tài sản của cải cho gia chủ; riêng Thị Nhi, được gọi là bà Mẹ Sanh Mẹ Độ giữ phần lo việc đất đai sản xuất, trồng trọt, sanh sản và ấp ủ thi hài thân xác những người trong nhà khi họ chết.
“ Lạnh quá !”- Bích Vượng quấn chiếc khăn quàng nhung tím lên cổ - “Khí hậu thiệt chịu không nổi, hơn 20 năm nay tui tìm đủ cách để tập cho quen. Nghe nói ở xứ tui Tết thiên hạ đi ra ngoài với áo ấm nữa chứ”.
Rồi dìm chiếc muổng vào chén nước mắm nàng bắt đầu khuấy đều. Và chợt như có mủi kim găm đâm nhẹ, một mủi kim nhỏ thôi, dường như chẳng nghĩa lý gì nhưng nó đủ sức đâm thẳng vào tim nàng làm sống dậy một nổi u hoài, nổi niềm hoài vọng cố hương.
“Bên nhà” giờ nầy đồng bào nàng hẳn đã chuẩn bị đón Tết từ hơn nữa tháng rồi. Những cành đào đầy hoa tươi cười khoe sắc thắm được chở từng bó trên xe đạp, xe xích lô; những ngọn đèn đường thắp sáng và những ánh hoa đăng lóng lánh trên những hàng cây dọc dài trên bờ hồ Hoàn Kiếm; pháo đì đùng nỗ; tiếng rao bán vang khắp nẽo trên 36 phố phường hòa trong tiếng ca của các thiếu nữ. “Vào đây cậu bé, vào đây và hảy tặng tôi một bức họa của Đông Hồ”....Ngày đầu năm mới cũng là ngày chờ đợi của giới trẻ, xác nhận thời điểm chinh phục, tán tỉnh nhau, lúc mà các cô gái có thể bạo dạn tìm người trai mà họ thương để bày tỏ cảm tình, bỏ lại thật xa mọi lề luật buộc ràng trong năm của giáo điều Khổng Mạnh. Những người không còn trẻ cũng ưa thích thời điểm nầy. Gia đình quần tụ đầy đủ trên bàn ăn dọn sẳn, từ thành thị đến thôn quê đâu đâu cũng thế. Tất cả đều đông dủ chẳng thiếu một ai. Kể cả người quá cố.
Teresa bắt đầu dọn bàn, sắp đặt các bộ đồ ăn, tính luôn cả cho người chết. Đây là lần thứ ba cô tham dự một cái Tết Việt Nam, vậy mà cô vẫn không hiểu được những nghi dụng đó.
“Chuyện mấy người chết nầy....thiệt tình mình không sao hiểu nổi”, cô lầu bầu nói.
Bích Vượng không chút chần chừ nói ngay:” Mặc dù họ sống ngoài tầm không gian với mình nhưng rồi bà coi họ sẽ đến đúng hẹn, lúc nữa đêm ấy mà. Không gì tốt đẹp hơn khi chúng ta đón tiếp linh hồn những người quá cố ngay chính trong nhà mình. Trái đất đêm nay sẽ đầy dẫy những hồn thiêng”, cô thở phào.
Đã hàng nghìn năm rồi, người Việt luôn tái lập điểm hẹn của họ với những người đã mất và Bích Vương như thường niên đã bày biện mọi thứ khá sớm. Cô làm tổng vệ sinh nhà cửa, lau chùi đánh bóng sàn nhà, phủi bụi mọi vật dụng trên tủ bàn –ngay cả những tượng thạch cao nứt nẻ theo thời gian của ba ông Phúc, Lộc, Thọ. Cô cũng đã trương đôi liễn đối ngay cửa ra vào, ngâm một mớ cỏ thuốc làm rượu và mua đầy đủ vật liệu để làm bánh chưng. Cô còn tìm được trong tủ một khăn bàn bằng gấm Vạn Phúc tuy cũ nhưng rất còn rất đẹp trang trí bằng hai màu đỏ, vàng. Chỉ còn thiếu pháo mà thôi và theo tục lệ thì pháo dùng để trừ tà ma, yêu quái. Nhưng Bích Vượng không thích pháo, cô vẫn cho pháo là thứ nguy hại, vả lại – cô tự chống chế - ngay cả chánh quyền Việt Nam mấy năm gần đây cũng đã cấm việc xử dụng nầy, viện lý do đa số tai nạn Tết mỗi năm từ pháo mà ra.
-“ Tụi mình hy vọng năm nay Danh không dẫn theo cô bồ xí xọn của chàng ta đến. Người sao mà khó ưa quá chừng” - giọng than phiền của Teresa kéo Bích Vượng rời xa giòng tư tưởng riêng tư
-“ Chẳng sao đâu. Hôm nay là ngày không gây gổ, chẳng bình phẩm, người mình nói vậy đó”.
-“Vậy thì..phải có nhạc mới được” – Teresa lần nầy không cự nự nữa, cô vặn máy âm thanh nổi và phút chốc căn bếp nhỏ ngập tràn những âm thanh nhạc cổ, truyền thống của Việt Nam. Tiếng chiêng, tiếng trống tay, trồng thùng, tiếng phách và điệu thánh thót của Đàn Bầu, tất cả đưa Bích Vượng về một thời quá khứ xa xôi, cái thuở mà mẹ cô có lúc vừa cười vừa bảo nhỏ với cô rằng con gái không nên nghe tiếng độc huyền cầm đó vì bà muốn con mình không bị giao động bởi tiếng đàn đầy ma lực kia. Một lần nữa Bích Vượng lại chập chờn trong những ký ức khó quên, nào cha mẹ, nào bà nội, người mà nàng đã sống cận kề suốt tuổi ấu thơ, và cả ngôi nhà cổ kính của ông cố nàng nữa. Đó là một ngôi nhà khá lớn, được xây trên trên một thửa đất với những tàn cây ăn trái và những hàng dừa. Nàng thích làm sao những hàng dừa xanh ấy! Cạnh đó một con lạch nhỏ với những chú cá đỏ bé tí ti. Nội nàng xây một sàn nước bên bờ hè cạnh con lạch, đó cũng là nơi chốn cố hữu nàng chọn để chơi đùa. Nhà có một vuông sân rộng được bao quanh bởi một hàng rào lá xanh có những cụm hoa hồng thắm, trong sân là một vườn hoa ngạt ngào hương sắc. Nàng nghe chừng như thoang thoảng đâu đây còn mùi hương “hoa sáu giờ”, nói như vậy vì mỗi ngày khi trời vừa chạng vạng tối, loại hoa nầy luôn tỏa một mùi huơng nồng dịu. Một cổng sắt cao chắn lối tất cả với bên ngoài, có những dây leo bám quấn quít dầy đặc như một bức màn màu xanh, phủ kín không cho những đôi mắt suồng sả bên ngoài nhìn vào. Vốn yêu thiên nhiên nên Bích Vượng yêu mến khu vườn đó như yêu chính bản thân mình. Nàng nhớ rõ sự phấn khích của mình khi nhìn từng cánh lá non hé nụ cũng như ngây ngất với hương thơm của từng đóa hoa xinh. Ánh trăng dịu ngọt trên nền trời trong tỏa ngát sự thanh thả trong tâm hồn cô gái, từng cơn gió nhẹ từ lạch nước mơn man thổi cho nàng nghe thoáng mát giữa bầu không khí oi nồng lúc đó. Mỗi sáng khi vầng dương chưa ló dạng nàng đã thức giấc với tiếng chim ríu rít bên ngoài như lờichào mời một ngày mới bình an. Và khi chiều xuống, nàng nghe tiếng chuông ngân từ ngôi chùa gần nhà vang vọng, hòa lẫn trong mùi nhang thơm mà nội nàng đang thắp trên bàn thờ Phật. Những ngân vang đó, hương trầm đó, tất cả dìu nàng vào giấc ngủ êm mơ, những giấc mơ con gái. Đơn sơ và đẹp vô ngần.....
Giờ đây mọi thứ đã xa xôi, xa nơi chốn và xa cả thời gian, nàng se thắt lòng khi nghĩ đến những thiếu vắng thân thiết kia không còn cơ may tìm lại được. Torino, thành phố nàng đang ở, nơi đây cũng có giòng sông, có công viên tươi thắm với hoa ngàn, cây cỏ, chim muông nhưng đâu rồi thời thơ ấu của nàng, đâu rồi nơi chốn yêu thương?Và ai, ai có thể trả lại cho nàng một thời quá khứ xa xưa?
Teresa lúc đó đã thấm mềm bánh tráng để làm chả giò, cô nàng phàm tục cất tiếng cắt ngang làm đứt đoạn luồng tư tưởng của nàng:”Thiếu cà rốt rồi bà ơi”.
Bích Vương quay nhìn bạn bằng đôi mắt vô hồn.
“Tui biết rồi, để tui đi mua, nhân đó mua luôn ngò tây thay cho ngò rí”.
Tức khắc, Bích Vượng trở về cùng thực tại. Tiếng cô nghe chắc nịch:”Ngò tây à, không được. Phải là ngò rí như dân tui thường làm, không có gì thay thế được cả”.