Tôi Như Là Con Ốc Bơ Vơ Nằm Trên Cát Một Mình
Tác giả: Huân Long
Tôi như là con ốc bơ vơ nằm trên cát một mình…
 0
Kể  ra việc tôi về thăm nhà lần này thật quá muộn so với nhiều người.  Cho  nên hẳn nhiên là rất buồn.  Buồn không phải vì người yêu đã bỏ đi.  Buồn  không phải vì cảnh cũ hết còn như trước.  Mà thiệt sự buồn vì chẳng cái  gì ra cái gì.
Như lúc này đây, tôi đang ngồi trên tầng tám của ngôi  khách sạn đồ sộ chặn ngang giữa con đường chính trước biển.  Nghe nói  chủ nhân là cháu rể của một vị Tổng Thống lân bang bị trưất phế, phải  sống lưu vong và chết nơi xứ người.  Đồng tiền được đưa về để dựng lên  cái khách sạn hoành tráng này, trấn áp nguyên con đường, một thời đã gây  ra bao tranh cãi và bị khó dễ ngăn chặn tới lui đến dăm lần bảy lượt  rồi mới chịu cho hoàn tất.
Tôi nghĩ đến những lấn cấn trong việc  này.  Nguyên thửa đất vốn trước đây là nhà nghỉ mát của vị Tư Lệnh  Vùng.  Thời cuộc nhiễu nhương, hưng phế trải qua nên bây giờ người ta  muốn xóa sạch đi tận gốc những gì xưa cũ để không còn lưu lại vết tích.
Tay  thương gia này đánh hơi được thời mở cửa đã nhanh chân về xí miếng đất  mở khách sạn bốn sao.  Đồng tiền trong tay nên mua gì chẳng được.  Kể cả  mua tiên.  Thế nhưng cũng trật trầy lên xuống mấy phen vì người ta cố  tình đưa ra bao nhiêu thủ tục, nhằm moi dần cái túi nhiều đô la rồi mới  khứng chịu.
Bây giờ khách sạn nằm chễm chệ giữa đường.  So ra đại  khách sạn kế bên dường như bị che khuất, nên nhỏ nhoi thật đáng tội  nghiệp.  Trông qua cửa sổ mở lộng gió thì bên kia đường là biển.  Từ  trên cao nhìn xuống chỉ thấy một vạt nhỏ xanh lè.  Còn cơ man là dừa lao  xao trong gió.
Nắng vẫn còn cao.  Từng vạt nắng đậm màu nhảy múa như  con choi choi trước cái nhìn của tôi.  Dạo còn ở nhà, tôi vẫn hay ra  khu vực này để tìm chút khí thoáng sau những giờ mệt mỏi vì sinh kế.   Tôi hay ngồi trên bệ xây của đầi liệt sĩ nhởn nhơ nhìn người ra tắm hay  chơi bóng với nhau.
Dăm ba đứa trẻ tung tăng chạy nhảy.  Một nhóm học  sinh từ trường về cũng nghêu ngao dạo quanh một tẹo mới cùng nhau về  nhà sau đó.  Lúc sau này, việc đi ra biển ít còn được xem là nhàn cư vi  bất thiện nữa và cuộc sống cũng bớt khắt khe, con người giảm bớt sự đa  nghi thì đôi khi tôi còn dẫn theo mấy đứa cháu nội, ngọai ra cho chúng  đùa vui.
Hồi đó, tôi nghe đốn là có nhiều chuyến vượt biên đã chọn  chính nơi đây làm bến khởi hành.  Việc mua bán bãi chồng chéo lên nhau  nghe mà muốn chóng mặt.  Kẻ nhận bán rồi lỉnh đi cho người khác mở cuộc  chặn bắt, vậy mà số chuyến thoát đi vẫn nhiều hơn số bị dẫn vào đồn.
Dạo  ấy, ai ra biển bơi khi trời vừa chập choạng tối là tàu tuần biên phòng  lướt vào rọi đèn kiểm soát ngay.  Những cặp mắt cú vọ xục xạo làm ra vẻ  chăm chú với nhiệm vụ, thực ra là để lấy điểm với cấp trên, chứ các  chuyến ra đi vẫn ào ào xảy đến.
Dăm thì mười họa, việc ăn chia không  thành, vài chiếc thuyền xấu số bị bắt, xác tàu kéo lên vứt chỏng trơ nơi  bãi, còn người thì bị đưa vô đồn chờ lấy khẩu cung.  Có tối đi dạo dài  theo biển, tôi đã nghe tiếng kêu la từ trong đồn biên phòng vọng ra rõ  mồn một.  Người ta đồn nhóm vượt biên bị tra tấn để moi tiền, hoặc để  truy ra người cầm đầu lĩnh án.
Tôi lúc đó cũng nôn lắm.  Nhưng chịu.   Vì có bao vốn liếng hoặc tài sản đều tiêu tùng ráo trọi sau ngày tan  hàng.  Ba căn nhà, một sạp hàng đều theo gió bay đi.  Trắng tay mà vẫn  không ai chịu tin, cứ rêu rao dư luận là  “ dân Bắc Kỳ họ kín đáo lắm,  có tiền họ chôn dấu đi rồi làm ra vẻ khổ sở. “
Chả biết có phải là để  thử thách chăng mà thỉnh thoảng có người đến gạ gẫm rủ tôi đi, chung 2  cây đầu người là sang đến bờ bến tự do ngay.  Tôi chối bây bẩy, mãi đến  khi mọi người đi dần hết và chương trình cưu mang thuyền nhân đã khóa  chặt cửa ở khắp các nước thì tôi mới không còn ai đến mọc mời.  Bởi lúc  đó, người ta mới tin là tôi chỉ còn cái xát xi mục rệu.
Bây giờ ngồi  ôn lại chuyện đời, tôi thấy đầu óc vẫn còn quay mòng mòng.  Mười một năm  ra đi, quyết tâm chẳng hẹn lấy một lần về, vậy rồi số mình định là vậy,  mà thành bại đâu do nơi mình nên được.  Vậy là lại về.  Ngồi ở tầng lầu  tám nhìn biển buổi chiều mà lòng lãng đãng trôi giạt nơi đâu.
Tiếng  mấy chú xe ôm oang oang từ dưới vọng lên rõ rệt.  Câu chuyện của mấy chú  quẩn quanh chỉ là giá thị trường cao thấp, rồi chen vào là phê bình mối  này mối nọ của khách đi xe.  Nhìn qua phía biển, đài liệt sĩ vẫn phơi  thây cùng tuế nguyệt.  Có điều là thời gian đã điểm nhiều vết sứt mẻ  phong trần.
Từ bên này cách với khối kiến trúc bên kia là cả một đoạn  đường mà tôi vẫn thấy rõ những vết lở lói như đã nói.  Các gờ tường đã  có vài chỗ bị bong.  Thì ra chẳng có gì tồn tại mãi, cho dù có là được  đúc bằng xi măng chèn cốt sắt.  Phương chi cũng đã mấy chục năm qua rồi,  các anh hùng liệt sĩ đã yên thân với huy hoàng chiến thắng.  Bây giờ  mọi đầu óc còn lo đua chen nhau làm giàu cho bản thân nên mấy ai còn  nghĩ đến việc gia cố tượng đài.  Có xảy sơ sót tí ti hay lơ là chút  đỉnh, chắc các người chết hẳn cũng vô cùng thông cảm.
Tính tôi vốn  hay để ý vặt.  Dạo còn ở nhà, tôi có lần đã cảm hoài vì các vòng hoa đặt  lên đài nhân ngày thương binh liệt sĩ đến héo rữa ra mà vẫn chẳng thấy  ai lo dẹp đi.  Tôi đã thấy ủ ê mà thương cho người chết chẳng còn miệng  để nói.  Từ đó tôi nghĩ ấy họ cùng là người chiến thắng với nhau mà vẫn  hẩm hiu chẳng khác chi kẻ thất trận chúng tôi.
Tôi lại có tật hay đi  bộ dài theo bãi cát.  Muốn có dịp để những tế bào cát mịn màng ve vuốt  bàn chân, thấu được sự nhuyễn nhàng của thiên nhiên tác động vào con  người.  Mười một năm sau trở về, tôi còn giữ nguyên ý thích đó.
Sáng  nay thức dậy tôi đã làm một chuyến đi chân để hít khí trời trong lành.   Nhưng tôi đã giật mình vội vàng nhảy lên khỏi bãi cát với cõi lòng khiếp  hãi.  Cũng may là mình còn chưa ham hố để mắt chỉ nhìn lên trời xanh,  mặc chân bước lãng du, chứ nếu không tai họa vướng vào bản thân thì ân  hận vô vàn.
Cát biển vẫn vàng, mịn, bước chân đi vẫn thấy quyến luyến  dặt dìu.  Nhưng cả một đống ống tiêm và kim chích vứt bừa bãi gần kè đá  khiến tôi phải giật mình.  Đó là những vật giết người thê thảm.  May  mắn là tôi lang thang khi sang rõ nên phát giác thấy ngay,   Còn nếu  chẳng may trời tối la cà đi dạo, vô phúc dẵm phải các vật bất nhân này  thì liệu tai họa nào sẽ xảy đến cho tôi.
Ít lâu nay, những tai ương  xã hội diễn ra rất nhiều.  Người nghiện rủ nhau tìm các nơi vắng để  chích choác bất cần đời, rồi quăng bỏ các vật tiêm sau đó.  Người bị  nhiểm bệnh chờ đi dần vào cõi chết còn kể chi đến sự gìn giữ cho nhau.   Có khi họ còn xem đó là một đòn thù đối với cuộc đời nhởn nhơ của thiên  hạ.
Bây giờ suốt dọc dài bãi biển hàng quán mọc tưng bừng.  Tiếng  nhạc mở suốt từ sáng tới tối, khách du lịch tấp nập tới đi, tây ba lô  cũng ùn ùn tham gia vào các cuộc ăn uống, nghỉ ngơi, thuê tàu ra đảo hay  nằm phơi tắm nắng.
Bãi biển như cái vú sữa nuôi đủ mặt người.  Bà  già, trẻ con, ăn xin, dịch vụ.  Những tấm bảng mời gọi thăm đảo dựng rải  rác đó đây.  Một chị cai gà đã một thời làm trong căn cứ Mỹ hồi trước  nay cũng đứng ra làm vai trò bao thầu đưa đám tây ba lô đi lặn, bắn cá  ồn ào.  Dưới trướng chị ta, nào là tài xế xe ôm, taxi, gái gỏng, và cả  người cho thuê phao, súng săn, ống thở, chân nhái.  Xem ra cũng cưu mang  được khối gia đình.
Từ ngày đổi chủ, bãi biển độc quyền biến thành  khách sạn và nhà nghỉ.  Các cơ quan dân chính, chuyên môn lẫn quân đội  tranh nhau biến đổi thành nhà cho du khách thuê, cạnh tranh nhau chí  chóe.  Những băng đón mời khách nhận tiền đầu, có khi làm môi giới chỗ  này không xong thì đá gà luôn sang chỗ khác.  Đồng tiền rủng rỉnh kiếm  được lại đổ vào cuộc rượu hay binh xập xám với nhau.  Vợ con chẳng mấy  khi biết được những món làm thêm đó.
Mười một năm trước, những buổi  sáng tinh sương đi ra còn gặp đám còng bò ngoằn ngoèo trên cát.  Thấy  bóng người, chúng giúi giụi trốn vào hang, những vết chân lăng xăng còn  in hằn dấu.  Có khi còn gặp vài con ốc nằm lẻ loi hay những mảnh vỡ sứt  sẹo giăng đầy.
Hôm nay trở về những thứ đó cơ hồ không còn nữa.  Số  người tập trung ra bãi đông quá, dấu chân xục xạo khắp nơi.  Cho nên  sinh vật dần cũng tìm nơi lẩn trốn.  Bọn trẻ giờ khó kiếm ra một bóng  con còng gió chạy đuổi làm trò cười.
Tất cả trở thành một nỗi thầm  lặng đều đều không dứt.  Người ngồi trên bệ đá dường như đang nghĩ nhớ  đâu đâu.  Vệt núi thẫm giăng ngang bên ngoài biển lù lù như mụt nấm.   Biển đen ngòm khi bóng tối phủ quanh.  Chút đèn sáng trên bờ không soi  tới mặt nước biển mặn.  Chỉ có gió ào ào và tiếng tàu dừa cọ nghiến răng  kẽo kẹt.
Tôi bước xuống cổng tòa khách sạn khi trời tối.  Vài anh xe  ôm rối rít hỏi thăm.  Người đề nghị một quán cà phê, một vòng dạo thành  phố.  Kẻ gạ đưa đến một địa điểm nhảy nhót, vui chơi.  Có anh huỵch  toẹt mời đi đến một em nào đó.  Tôi lắc đầu từ chối.
Tôi chẳng phải  thần thánh gì.  Nhưng tại sao tôi thấy dường như mình không thuộc về  thành phố này nữa.  Tôi có nỗi sầu dâng đầy khi khó tìm ra một góc phố  ngày xưa.  Mười một năm trời cứ ao ước một lần về.  Song về rồi lại thấy  mình thật vô cùng xa lạ.
Chợt từ đâu tôi nghe tiếng nhạc trầm trầm thoáng qua.  Một bài hát về thành phố hôm nao tôi đã sống.  Nha Trang ngày về, mình tôi trên bãi khuya… tôi như là con ốc bơ vơ nằm trên cát một mình…Người, người ơi… Và tôi thầm hỏi tôi là con ốc hay con ốc chính là tôi đang nằm thoi thóp chờ giọt sương rơi xuống.
Tôi  vội vàng trở lui vào khách sạn.  Hấp tấp bước vào thang máy, nhấn nút  số 8 để nghe cái giựt chuyển động của ô máy mà cảm tâm hồn vỡ vụn ra  từng mảnh rụng rời.
Bên dưới, đám xe ôm vẫn cãi nhau ỏm tỏi.  Con đường sát biển đèn đã bật lên.  Các quán bắt đầu sinh hoạt mạnh.