watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
18:51:2526/04/2025
Kho tàng truyện
Chỉ mục bài viết
Tìm Dấu Chân Xưa
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Tất cả các trang
Trang 4 trong tổng số 4

Tôi ngạc nhiên về những suy nghĩ của tuổi trẻ bây giờ. Họ thực tế, và kiến thức hầu như rộng rãi hơn lớp người của thế-hệ tôi, khi chúng tôi ở vào lứa tuổi đó. Tôi thực sự hài lòng:

- Ừ, chúng mình đi xích-lô.

Người gác cửa khách-sạn gọi dùm 5 chiếc xe. Trinh và tôi trèo lên một chiếc. Người phu xe buột mồm:

- Vớ phải cặp béo!

Trinh đỏ mặt trong lúc tôi cười gập người, an-ủi:

- Em nên biết là người ta nói ‘béo tốt’ chứ có ai nói ‘béo xấu’ đâu.

Vợ tôi không vừa:

- Ông ấy nói là ‘cặp béo’ chứ có phải ‘người béo’ đâu. Có nghĩa là anh cũng chẳng  nhẹ nhàng gì!

Chiếc xích lô bên cạnh, chở hai mẹ con bà chị gầy còm, bỗng qua mặt chúng tôi cái vù. Người phu xe luôn tay bóp chuông ‘kính koong’ và quay lại nhe răng cười. Tôi nói với theo:

- Ê, đổi bớt một người không?

Anh ta lắc đầu, nhấn mạnh bàn đạp, biến mất hút. Tôi đùa người phu xe:

- Hay là bác lên ngồi với tôi, để … vợ tôi đạp dùm! Cô ấy là lực-sĩ bơi lội đấy!

Bác ta cười khà khà:

- Nói thế chứ ông bà ăn thua gì. Người ‘nước ngoài’ họ còn nặng hơn nhiều.

Tôi mỉm cười nhớ lại một chuyện xưa khi tôi  phục vụ trên một chiến hạm tuần dương. 

Tàu cặp bến Ðà Nẵng vào lúc gần khuya. Hạm Trưởng Vũ rủ:

- Lên bar bà Hảo nhậu một chầu!

Hạm Phó Quí Mập cưòi rung chiếc bụng phệ, biểu đồng tình và ra lệnh cho các sĩ-quan:

- Trừ sĩ-quan trực, tất cả ‘đi bờ’. Ðứa nào không đi tao ‘uýnh’ thấy mẹ!

Lẽ dĩ nhiên là không ai từ chối. Một tuần biển động, có những lúc chúng tôi mệt nhoài, nằm lăn trên đài chỉ-huy, mơ tới lúc được  lên bờ, hít hơi đất thôi cũng đủ vui cuộc đời. Hơn thế nữa có Vũ làm đầu tầu, dẫn ‘dìa nhà vợ’, chắc chắn là có nhiều chuyện vui. Bar bà Hảo là nơi chúng tôi hay lui tới mỗi khi ghé bến sông Hàn và trở thành quen thân đến độ bà chủ bar bị chúng tôi gán đùa  là ‘dợ nhỏ’ của Vũ.

Bar đã đóng cửa. Vũ  gọi lớn:

- Cưng ơi, anh mới ‘dìa’.

Cánh cửa sằt được kéo sang một  bên, Hảo cười tươi tắn:

- Dữ thần hôn. Tưởng anh đi luôn về Sài-Gòn với ‘bả’ rồi chứ.

Tôi biết hai người đều đùa. Họ như hai người bạn trai thân thiết, lâu ngày gặp-gỡ, uống với nhau vài chai bia, tâm sự với nhau về những chuyện lăng nhăng của cuộc đời. Khi đã ngà ngà say Vũ thường tutoyer với Hảo, gọi Hảo bằng ‘toa’, bằng ‘mày’, thay vì ‘cưng’. Ðôi khi Hảo cũng uống chung, để rồi say, để rồi tỉ tê tâm sự về những trắc trở tình duyên của đời mình, kéo tay áo Vũ lau nước mắt, gục đầu than:

- Buồn quá anh ơi!

Tối đó khi rời bar Vũ đã khá say:

- ‘Moa’ chưa muốn về tàu. Kiếm mấy cái xích-lô,  tụi mình đi dạo mát bờ sông Hàn.

Tôi cũng khá say, ngả mình khoan khoái cho người phu-xe cong lưng đạp, quên luôn những bài học của đàn anh trong quân trường là không nên ngồi xích-lô vì trông ‘mất tư cách’. Chợt tôi nghe tiếng chuông ‘kính koong’ vang trong đêm vắng và tiếng hát om sòm từ chiếc xích-lô bên cạnh. Vũ đang ra sức đạp xe còn người phu-xe ngồi khúm núm phía trên. Người Vũ nghiêng ngả, mông vẹo qua vẹo lại trên yên, tay trái cầm càng xe, tay phải đánh nhịp trên trời,  hát không thành tiếng, nghe như ‘là la lá …’ vang lừng.

Vũ dẫn đoàn xích-lô đi hết con đường ven sông, ngừng lại trước cầu tàu, trả tiền và thưởng người phu xe hậu hĩnh, cám ơn một cách lễ phép, sốc lại quần áo cho chỉnh tề trước khi bước lên cầu thang chiến-hạm, dơ tay chào lại người thủy thủ đứng gác.

Tôi kể cho Trinh nghe câu chuyện. Vợ tôi cười:

- Thế những người bạn anh ngày đó bây giờ ra sao?

Tôi thở dài:

- Hảo lập gia-đình với một sĩ quan Hoa-Kỳ và theo chồng về nước năm 69. Nếu còn sống bây giờ chắc cũng đã già lắm. Quí mất trong trại ‘cải tạo’ Hoàng Liên Sơn. Vũ cũng bị đưa ra Bắc nhưng sống sót, đã đoàn tụ với gia-đình bên Mỹ. Năm ngoái anh có gặp ở Orange County. Vẫn ‘tếu’ như xưa nhưng tâm sự với bạn bè là có lúc khóc nức nở khi xe lửa chở tù qua ga Hà-Nội được một người đàn bà không quen chạy theo cho một củ khoai. Vũ chỉ nhìn thấy Hà-Nôi qua song cửa của toa tầu chở tù, vẫn tiếc là chưa bao giờ được biết phố-phường Hà-Nội.

- Ga Hà-Nội tức là ga Hàng-Cỏ của anh ngày trước?

- Ðúng rồi. Ga gần nhà. Anh thường ra đó kiếm nút chai bia về đập thẳng ra thành những đồng ‘xèng’ để đánh đáo. Chỉ có trẻ con Hà-Nội của thế hệ anh biết ‘xèng’ là cái gì.

Chiếc xích-lô dừng lại trước một quán bánh tôm bên bờ hồ Tây.  Nhớ tới Vũ, tôi tặng người phu xe một món tiền khá lớn trước con mắt ganh tị của những người phu xe khác. Tôi phân trần:

- Tại bác ấy ‘vớ phải cặp béo’!

Trinh lườm tôi trong lúc anh em tôi lũ lượt vào nhà hàng. Bánh tôm hồ Tây bây giờ không ngon như tôi thường ăn lúc xưa, có lẽ khi còn bé tôi ít có dịp được đi ra ngoài nên khi được đi chơi, ăn gì cũng thấy ngon. Bình hỏi tôi:

- Cậu thấy lại hết ‘Hà-Nội phố’ rồi chứ? Mai mình về lại Sài-Gòn, còn chỗ nào cậu muốn ‘tham-quan’ nữa không?

Tôi trầm ngâm:

- Có lẽ cậu muốn đi lại phố Hàng Ðào thêm một lần.

Trinh nhìn tôi mỉm cười:

- Bộ mê con gái hàng Ðào rồi hả?

Tôi cũng cười:

- Mê từ lúc lên 10. Nhớ anh Dân không? Hồi đó anh ấy đang học năm cuối cùng tại Albert Sarraut. Người yêu của anh là chị Trâm, con gái hàng Ðào. Thỉnh thoảng chị đến chơi, mặc áo dài xanh,  má trắng hồng và diụ dàng như một bà tiên trong chuyện cổ tích. Anh chỉ mong chị đến để được chị nắm tay dắt vào nhà, nghe anh Dân chơi tây ban cầm, hát ‘Tà Áo Xanh’ hoặc “Em Ðến Thăm Anh Một Chiều Mưa’. Chưa có mối tình nào êm-đềm và lãng mạn hơn.

- Chị Trâm có phải là chị Dân mình đã gặp?

- Không. Anh Dân bị động viên, hay đúng hơn bị bắt lính, vào cuối năm 1953. Năm 54 đất nước chia đôi, gia-đình chị Trâm ở lại miền Bắc,  nên hai người không gặp lại nhau thêm một lần.  Anh không bao giờ quên được dòng nước mắt trên khuôn mặt trắng xanh khi chị Trâm đến nhà, và biết tin là anh Dân đã bị bắt. Anh chỉ nhớ loáng thoáng căn nhà phố Hàng Ðào vì có một lần anh đưa thư dùm anh Dân. Chiều qua đi trên phố ấy anh thấy thoáng buồn. Không gập được một tà áo dài chứ đừng nói là áo dài xanh. Không nghe được môt giọng nói dịu dàng, và không biết chị Trâm bây giờ ở đâu.

- Bây giờ em mới biết tại sao anh quá buồn khi nghe tin anh Dân qua đời bên Texas.

- Anh Dân, chị Trâm và những người bạn thời thơ ấu, cũng như thành phố này với những đường phố cũ, là một phần đời khó có thể chia lìa. Với các con chúng mình thì căn nhà trên triền giốc và những đồi cỏ xanh của ‘thung lũng hoa vàng’ là những dấu ấn không phai. Bây giờ các con ở xa, chưa nhớ nhung, nhưng có một ngày nào đó các con sẽ tìm về, sẽ thiết tha trìu mến.

Bình pha trò cho không khí bớt u-buồn:

- May cho cậu đó. Nếu cậu đến đúng căn nhà, gặp một bà già da nhăn nheo, tóc cắt ngắn, mặc áo đại-cán, cổ áo đeo vài ngôi sao đỏ, trả lời cấm cẳn ‘Hỏi cái Trâm hả? Tôi đây này …’ thì chắc cậu ù té bỏ chạy về Mỹ liền tức thì.

Ðưòng phố đã lên đèn.  Chúng tôi dời tiệm ăn, thả bộ dọc theo đường Cổ Ngư. Hồ Trúc Bạch phản chiếu những ánh đèn mầu từ những cao ốc trong thành phố. Hồ Tây mênh mông vơi những chấm sáng mù mờ. Con đường âm vang tiếng còi xe gắn máy, không còn cái vẻ hoang sơ thủa nào. Cổ Ngư đã không còn. Tôi biết mình sẽ không bao giờ tìm lại được con đường với những tà áo dài tung bay chiều lộng gió của những người yêu nhau trên những chiếc xe đạp sóng đôi.  Tôi thở dài và chợt nghĩ tới những người tù-binh Mỹ trở lại California sau nhiều năm lưu đày.  Họ cũng không còn tìm thấy những vườn cam nặng trĩu trái, những rừng lê nở hoa trắng xóa vào mùa thu hay những đồi cỏ xanh mịt mùng điểm hoa vàng vào mùa xuân. Họ thấy những căn nhà đã mọc lên chen chúc, những dòng xe cộ dài trên xa lộ ồn ào. Họ cũng sẽ buồn như tôi, và cũng như tôi, họ sẽ lặng lẽ buớc thêm một quãng đường đời.

<< Lùi - Tiếp theo

HOMECHAT
1 | 1 | 78
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com