Tiếng Vọng Ngàn Xưa
Tác giả: Bùi công Ba
Cụ Đồ Giản muốn có một cái ao nhỏ để ngày  ngày ngồi câu cá cũng là thời giờ tĩnh tại để chiêm nghiệm lại cuộc  đời. Những tưởng vào cái tuổi xưa nay hiếm con người ta đã tỏ mệnh trời,  nhưng ai dè chính từ cái nhát cuốc đầu tiên bổ xuống góc vườn để đào  cai ao nhỏ ấy đã làm đảo lộn phần đời còn lại của cụ và tai hoạ cứ bám  riết lấy cô người con gái nết na duy nhất tên Xoan.
Nơi Thanh đến xin  việc là một bảo tàng nằm khiêm tốn ở một góc thị xã tỉnh lẻ. Nói bảo  tàng cho oai chứ thực ra đó là ngôi chùa bỏ phế nhiều năm không có sư  sãi tu hành, ẩn mình dưới bóng đa cổ thụ xanh um. Nếu không có tấm bảng  đề "Bảo tàng -Museum" bằng sơn đỏ gắn bên hông cổng tam quan chắc ít ai  nghĩ đây là một bảo tàng. Phía trên chính điện lưa thưa dăm ba tủ kính  dùng làm phòng trưng bày. Hiện vật sưu tầm về đành phải chất đống trong  dãy nhà trai của chùa. Bảo tàng suốt ngày vắng hoe, thỉnh thoảng có vài  vị khách tây ba lô đến chỉ trỏ xì xồ chụp ảnh một lúc bên chiếc trống  đồng sứt quai rồi lại vội vã ra đi. Người ta bảo Việt Nam là nơi hội tụ  của ¾ trống đồng đẹp nhất thế giới. Ở bảo tàng tỉnh lẻ này có được một  chiếc trống đồng thì đúng là bảo vật số một rồi còn gì. Nhưng dân chúng ở  cái thị xã bé tẹo này thì lại háo hức chờ đón mấy cô ca sỹ trên bìa tạp  chí về gào hét điên cuồng cho thay đổi không khí tẻ nhạt ở chốn nửa quê  nửa phố này hơn là quan tâm đến cái bảo tàng cũ mèm và  những món đồ  đem ra trưng bày ấy. 
 
 Cảnh vắng người buồn khiến Thanh  thấy chạnh lòng. Cũng cầm mảnh bằng Đại học nhưng học trường khác giờ  này bạn bè của Thanh có đứa làm ở công ty liên doanh nước ngoài lương  hàng trăm đô. Còn Thanh lương hợp đồng hơn ba trăm ngàn đồng chỉ đủ tiền  thuê nhà trọ, ngày làm đủ tám tiếng đồng hồ. Công việc quanh quất là  lau chùi hiện vật với mấy khẩu súng máy hoen gỉ rồi chán rồi thì nhâm  nhi chén trà tàu hoặc làm ván cờ tướng giết thời gian với ông thủ từ coi  chùa cũng là bảo vệ của cơ quan. 
 Từ dạo đến đây làm Thanh ít nói  hẳn. Thanh nhớ nhà, nhớ mẹ. Quê Thanh làng nhỏ nằm bên sông Hồng. Những  ngày ấu thơ trên lưng trâu bãi mía như một bàn tay âu yếm cứ vuốt ve mãi  hồi ức của Thanh. Mẹ kể hồi cải cách có phong trào xoá tàn dư phong  kiến. Ông nội là đội trưởng đội sản xuất nằm trong ban chỉ đạo dỡ bỏ  ngôi đình cổ có niên đại cả trăm năm của làng để làm khu chăn nuôi của  hợp tác xã. Sau đận ấy ông cứ day dứt mãi, sinh bệnh, rồi mất trong thời  kỳ sửa sai. Trước lúc nhắm mắt ông gọi cha Thanh lại bên giường nói lại  điều tâm nguyện lớn nhất của ông là quyên tiền phục dựng ngôi đình cổ  để những đứa trẻ trong làng như Thanh sau này lớn lên có mái đình làng  để mà nhớ, mà thương, mà tự hào về nơi chôn nhau cắt rốn. Nhưng rồi  chiến tranh đã cướp mất mất người cha thân yêu của Thanh. Mãi sau này  trong dịp giỗ ông, mẹ lấy đưa cho Thanh tờ giấy Pôluya ngả màu rút từ  ống quyển để trên bàn thờ. Trong ấy đựng điều tâm nguyện của ông mà cha  chưa kịp thực hiện. Khi mùa phượng năm cuối cấp phổ thông năm ấy rực đỏ,  bạn bè nô nức nộp đơn dự thi vào các trường Đại học danh tiếng thì  Thanh nộp đơn thi vào khoa Bảo tồn-Bảo tàng trường Đại học Văn hoá Hà  Nội. Mặc cho cô bạn thân cùng lớp phụng phịu phản đối, Thanh tin quyết  định của mình là sáng suốt vì Thanh không chỉ muốn thực hiện tâm nguyện  của ông nội mà còn mơ ước được góp công sức cuả mình bảo tồn những di  tích qúi giá và nét đẹp cổ kính của biết bao làng quê khác. Vậy mà bây  giờ ra trường, đi làm Thanh lại thấy ngán ngẩm. 
 Thanh lấy chổi lông  phủi bụi trên tủ kính bên trong bày chiếc trống đồng. Dĩ nhiên đây là  hiện vật cậu thích  nhất trong cái nơi gọi là bảo tàng này. Những đường  nét hoa văn tinh xảo, sống động vừa lạ vừa quen nhanh chóng hút hồn  Thanh. Chị Hằng làm ở tổ sưu tầm hơn Thanh năm tuổi đã có lần kiểm tra  trình độ "chú út" bằng câu hỏi "Đố Thanh đây là trống đồng loại mấy? Nếu  trả lời được chị sẽ đãi một chầu chè!" Những câu hỏi kiểu thế này dân  trong ngành nhiều lúc cũng phải bó tay vì những cổ vật có niên đại gấp  hàng trăm, hàng nghìn tuổi mình để trả lời chính xác không phải là đơn  giản. Căn cứ vào hình dáng các loại trống năm 1902 nhà sử học F. Heger  người Đức đã chia trống đồng thành 4 loại H1, H2, H3, H4…Trong đó loại  trống H1 có niên đại cổ xưa và quí giá nhất. Bên dưới lớp kính dày kia  là chiếc trống đồng có hình dáng chia làm ba phần cân đối : tang phình,  thân thon hình trụ, đế choãi. Nếu là trống H2 thì hình dáng không được  cân đối thế này. Nếu là trống H3 thì thân trống hình trụ.Còn trống H4  hình dáng chỉ có hai phần. Quan sát kỹ một chút thì mặt trống trong tủ  có đường kính khoảng 45 cm có những vành hoa văn đều đặn với ngôi sao 5  cánh ở chính giữa, hình người, hình chim, thú, nhà sàn ….rất sinh động.  Trống có 4 quai hình bông lúa thì hai quai đã bị sứt gãy từ bao giờ.   Vậy mà dựa vào kiến thức môn giám định cổ vật Thanh đã trả lời chị Hằng  một câu chắc nịch: "Đây là loại trống đồng Hêger I cỡ trung bình thuộc  dòng trống Đông Sơn. Chủ nhân là người Lạc Việt sống thời Hùng Vương  dựng nước có niên đại vào khoảng thế kỷ 7 trước CN đến thế kỷ 6 sau công  nguyên". Hai chi em lục tìm bản lý lịch hiện vật thấy trúng phóc. Đọc  lại lý lịch hiện vật có một chú thích nhỏ cho biết chủ nhân hiến tặng  hiện vât cho bảo tàng là một phụ nữ có tiền sử mắc bệnh tâm thần. Linh  cảm nghề nghiệp mách bảo cho Thanh có gì đó không bình thường. Thanh tự  nhủ cuối tuần này phải rủ chị Hằng về ngoại thành một chuyến xem sao.
 Làng  Sơn Tịnh nổi tiếng là đất học của một vùng quê giàu truyền thống văn  hiến. Cổng làng phong rêu dưới bóng đa cổ thụ. Thi thoảng vào những buổi  chiều người làng thấy cụ Đồ Giản phe phẩy chiếc quạt nan ra cổng làng  ngắm nghía câu đối với hàng chữ Hán đắp nổi bằng vữa theo lối thảo triện  :       
"Muôn thuở công thành danh hiển đạt,
Nghìn thu đức sáng họ phồn vinh".
Học  trò bốn năm thế hệ ở cái làng nhỏ bé này đều là học trò của cụ. Đã  thành nếp nghĩ của dân làng, ai muốn thành đạt khi bước chân ra khỏi  làng và khi trở về đều phải ngẩng đầu chiêm bái cổng làng có hàng câu  đối phong rêu. Cả đời cụ Đồ Giản chỉ chăm lo vào việc trồng người nên  dân làng ai cũng kính trọng. Người áo nâu, râu trắng ấy hồi trẻ từng dạy  chữ nho, chữ pháp, thời bình dân học vụ dạy chữ quốc ngữ về già lại làm  bạn với chim muông cây cảnh. Tuổi già có thú điền viên. Cụ Đồ Giản muốn  có một cái ao nhỏ để ngày ngày ngồi câu cá cũng là giành thời giờ tĩnh  tại để chiêm nghiệm lại cuộc đời. Những tưởng vào cái tuổi xưa nay hiếm  ấy con người ta đã tỏ mệnh trời nhưng ai dè chính từ cái nhát cuốc đầu  tiên bổ xuống góc vườn để đào cai ao nhỏ đã làm đảo lộn phần đời còn lại  của cụ và tai hoạ cứ bám riết lấy cô người con gái nết na duy nhất tên  Xoan.
 Thanh ngắm nghía mãi bức chân dung treo tạm bợ  trên vách nứa của căn chòi lá nằm chơ vơ giữa đồng không mông quạnh.  Người trong khung ảnh là một cô thôn nữ đang độ tuổi trăng tròn khá  xinh, da trắng tóc dài, khuân mặt bầu bĩnh. Thanh không tin nổi người  đàn bà dáng nhỏ gầy, gương mặt khắc khổ có mái tóc lốm đốm sợi bạc đang  ngồi trước mặt Thanh lại có thể là cô gái trong ảnh mấy chục năm về  trước. Thanh rụt rè lên tiếng:
 -Thưa cô Xoan, cháu tên  là Thanh, còn chị Hằng đây đã xuống thăm cô nhiều lần chắc cô vẫn còn  nhớ ! Các chú lãnh đạo Sở Văn hoá và Bảo tàng tỉnh có gửi lời chúc sức  khoẻ cô và mời cô lên tham quan bảo tàng ạ!
 -Ừ, các cháu  từ Bảo tàng tỉnh thỉnh thoảng lặn lội xuống đây thăm cô thế này là quí  lắm! -Bà Xoan kéo gấu áo chấm nước mắt- Ông nhà cô bị chúng nó hại chết  đã mấy năm rồi. Nhà cửa thì bán sạch. Cô giờ không người thân thích phải  ở tạm trong túp lều thế này. Nhưng mà cô vui vì đã làm được một việc có  ích cho nhà nước các cháu ạ!
 Thanh đề nghị:
-Nếu có thể được hôm  nay cô kể cho chúng cháu nghe về hành trình phát hiện và bảo vệ chiếc  trống đồng được không hả cô? Để chúng cháu ghi chép lại thật tỷ mỷ, biết  đâu sau này lại chẳng có ích cho khoa học? 
 Bà Xoan kể bằng giọng trầm buồn: 
-Các  cháu biết không, buổi sáng hôm ấy sau khi soạn mâm ngũ quả cách giấy  kim ngân khấn vái thủ công, cha cô bổ nhát quốc đầu tiên động thổ thì  cán quốc gãy làm đôi. Bỗng nhiên ông cụ thấy chóng mặt, mồ hôi vã ra,  chân tay run lẩy bẩy. Đoàn biết ý lo của cha, cô đỡ ông vào nhà nghỉ rồi  đi gọi mấy người bạn trong làng tới đào ao giúp. Đất gan gà thắn từng  miếng ngon lành sang ngày thứ hai chiếc ao nhỏ đã hình thành. Chỉ còn  đào sâu xuống một thâm xẻng nữa là tới lớp cát . Cô bỗng thấy lưỡi xẻng  của mình khựng lại chạm vật cứng nghe khục, khục… Moi lên khỏi lớp bùn  đất lấm lem mới biết là trống đồng. Dân làng kéo đến xem rất đông. Ban  đầu cha cô rất vui cho mổ lợn khao làng. Họ còn đồn ầm lên là nhà cô đào  được cả hũ vàng. Cả tháng trời khách khứa ra vào đông nườm nượp. Lúc  đầu thì ông cụ nhà cô vui, nhưng sau đấy phải gánh chịu bao nhiêu là  phiền toái. Không ít kẻ nịnh bợ bề ngoài thì tươi cười nhưng mắt mũi săm  soi xông cả vào buồng nhà cô xục xạo cót thóc, chân giường, nền nhà xem  vàng dấu ở đâu. Lão trưởng họ thì bám riết lấy cha cô viện lý do đất  ông cha để lại, có lộc cùng hưởng, nếu không nghĩ đến tình anh em trong  họ thì cũng phải có nghĩa vụ với tổ tông mà chiết một "thỏi" xây lại cái  nhà thờ họ cho khang trang. Nếu không xây nhà thờ thì thì phải đem  chiếc trống đồng sang nhà tổ để thờ. Biết rõ dụng ý tham lam của ông  trưởng họ nên cha cô không đồng ý. Mặc cho hai cha con cô có giải thích  thanh minh thế nào dân làng cũng không tin. Họ bảo cha con cô dấu vàng  đi ăn mảnh.Tình cảm dòng họ bắt đầu rạn vỡ, thù oán lẫn nhau. Những gia  đình gần nhà cô thì bỏ bê công việc cày cấy suốt ngày đào xới vườn nhà  nhưng chẳng thấy gì ngoài mấy cái be vỡ. Cuộc sống của cha con cô cũng  chẳng yên ổn với họ được các cháu ạ.
Hằng không dấu nổi tò mò: 
-Rồi sau đó thì sao hả cô?
-Đêm  xuống bọn người xấu tụ tập rình mò nhà cô. Cây trong vườn nhà quả non  cũng bị thảy ném la liệt trong sân, bể nước, lẫn với phân người. Nhà chỉ  có một ông già với một đứa con gái, chả làm gì được. Ông cụ tức quá cho  thay hàng rào dâm bụt bằng tường gạch cắm mảnh chai nhưng chỉ tổ làm  cho bọn chúng thêm ghét. Tối xuống lũ thanh niên vô công rồi nghề đội mũ  len kín mặt đu cành ổi nhảy qua tường vào đào bới tung cả nền bếp lên  tìm của. Công an xã xuống nằm vùng được mấy hôm mọi chuyện lại như cũ.  Lo lắng cho sự an toàn của đứa con gái, ông cụ nhờ người chăng dây điện  quanh nhà và viết thông báo dán ở cánh cổng: "Xung quanh ngôi nhà này có  điện xin đừng bước vào". Ông cụ cắm điện nhưng suốt đêm không ngủ vì lo  nhỡ có chuyện thật. Tưởng mẩu giấy trên cánh cổng nhà cô là đùa, vào  một đêm mưa to gió lớn chúng nó lại mò vào nhà cô. Lần này thì án mạng  xảy ra thật. Khi mò vào vườn bị ông cụ hô hoán chúng xô ông cụ ngã gãy  xương. Một đứa trong lúc hoảng loạn mắc vào dây điện bị điện giật chết.  Kẻ đáng thương hơn đáng tội đau xót thay lại chính là người học trò cũ  của cha cô, người mà cô thầm yêu trôm nhớ. Xe cảnh sát hình sự xuống lập  hồ sơ đo vẽ mấy ngày. Không biết vì lo nghĩ hay vì vết thương quá nặng  ông cụ nhà cô mấy hôm sau qua đời. 
 
Bà Xoan nhấp giọng bằng ngụm  trà nguội ngắt. Thanh nãy giờ ngồi chăm chú ghi chép vào cuốn sổ nhỏ.  Anh thầm nghĩ câu chuyện này đáng để các nhà điện ảnh dàn dựng thành một  bộ phim hấp dẫn về đề tài tình trạng quản lý và chảy máu cổ vật của  nước ta chí ít cũng vài ba tập. Thanh hỏi :
-Thưa cô, cháu hỏi chuyện này thật không phải nhưng sao cô không lập gia đình ạ?
-  Chẳng dấu gì các cháu, sau cái đận ấy cô suy sụp hoàn toàn, tự nhiên  mất cha rồi kẻ mình chớm thương yêu thì lại như vậy nên sau này cô cứ bị  ám ảnh và rất sợ đàn ông. Chẳng ai giám yêu con gái một ông già cố ý  giết người như người ta kết tội cha con cô. Hơn nữa trái tim cô hoàn  toàn chai cứng các cháu ạ?
-Thưa cô, vậy còn chiếc trống?
- Sau  đận ấy cô nghĩ vật báu không thể để rơi vào tay những kẻ có tâm địa tham  lam bỉ ổi nên đã bí mật gửi sư cụ trên chùa làng cất giữ vào hậu cung.  Phần đất cha ông cô cũng bán đi lấy tiền trang trải ma chay cho cha. Một  phần đem sang gia đình người thiệt mạng để người thân của họ nhang  khói. Để đánh lạc hướng dư luận cô nhờ người tung tin chiếc trống đã bị  đánh cắp rồi giả vờ mắc bệnh tâm thần suốt ngày lên sân chùa nhặt rồi  vãi lá đa tung chơi như trẻ con ấy. Thương cảm cho hoàn cảnh của cô nhà  chùa cho mượn một vạt ruộng chùa này để cô cất lều lên làm nhà ở cho đến  tận bây giờ. Mãi đến mấy năm trước sư cụ trọng bệnh biết không qua khỏi  gọi cô lên và sư khuyên cô nên hiến chiếc trống cho nhà nước quản lý.  Và cô đã hiến nó cho bảo tàng. 
 
Thanh nắm lấy bàn tay gầy guộc của cô Xoan nói trong xúc động:
-Chúng  cháu xin lỗi vì đã khơi dậy nỗi đau của cô! Cho đến nay chiếc trống  đồng mà cô hiến tặng cho bảo tàng vẫn là hiện vật có giá trị nhất.  Không, mà phải nói là vô giá cô ạ. Nó không chỉ đơn thuần là một bảo vật  của quốc gia, mà còn phải trả giá bằng máu và nước mắt của ông và cô…. 
Chỉ  nói được có vậy mà nước mắt Thanh cứ trào ra, lăn xuống môi mằn mặn.  Trước người đàn bà nhỏ yếu khắc khổ và rất đỗi bình thường này Thanh  thấy mình thật nhỏ bé vì đã có lúc Thanh trót có những suy nghĩ thực  dụng và không nghiêm túc với nghề nghiệp. Cơn mưa rào bất chợt ào về  trắng xoá cánh đồng trứơc mặt. Ngôi nhà nhỏ cô đơn và liêu xiêu nhưng  vẫn kiên cường chống chọi trong gió mưa như thân phận người đàn bà mà  Thanh đang gặp. Những âm thanh ùng oàng bên tai thanh không còn là tiếng  sấm nữa mà nó như tiếng trống đồng âm vang từ ngàn xưa vọng lại trầm  hùng. Tiếng trống ấy có trong niềm kiêu hãnh ở tiềm thức mỗi người.    
 
Mùa thu 2005.