watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
18:55:1926/04/2025
Kho tàng truyện
Chỉ mục bài viết
Tiếng Ve Sầu
Trang 2
Tất cả các trang
Trang 2 trong tổng số 2

 

Đến đường Tôn Đản Búm quẹo vào con hẻm nhỏ. Những căn hộ mới được xây cất, nằm san sát bên nhau. Con hẻm đang trong quá trình xây dựng nên để lại rác rến, sỏi đá nằm ngỗn ngang trên mặt đường đất sét. Búm dừng xe trước căn hộ nhỏ, bấm chuông.

“A! Mấy nay vui quá quên tui rồi nên bây giờ mới đến.” Tiếng nói của Hồng.

“Vui cái gì mà vui. Mở cửa coi.”

“Rồi, vô đi. Không vui sao thấy mặt mày đỏ bừng thế này.”

“Mỗi lần chạy vào con đường Tôn Đản mà mặt mày không đỏ mới vui chứ. Mình chạy xe mà run gần chết đây.”

“Mấy hôm nay hai người đi đâu, làm gì, khai ra nghe coi.”

“Đi lanh quanh trong thành phố thôi, còn làm gì ngu sao khai. À mà bồ quen anh Kỷ thân lắm không?”

“Thân lắm thì không thân lắm. Mình biết anh ấy vào một buổi chiều cuối năm, khi mình dạo chơi trên bãi biển.”

“Chỉ vậy thôi sao?”

“Ừ, chỉ vậy thôi. Năm đó mình về quê ở Cần Giờ ăn Tết, buổi chiều mình dạo chơi trong rừng dương bên bờ biển, gặp anh ấy và quen nhau từ đó. Mà sao vậy?”

“Không sao hết, chỉ thấy cái gì anh ấy cũng hỏi: Hồng nói cho Búm nghe chưa?  Nên nghĩ chắc hai người thân nhau lắm, vậy thôi. Mà nè, Hồng có hiểu nhiều về hoàng cảnh anh ấy không?”

“Không. Chỉ biết anh ấy có ý định về quê lập gia đình vậy thôi. Anh ấy có đề cập gì với Búm không?”

“Chỉ úp úp mở mở. Nhưng có chuyện này mình muốn hỏi ý kiến Hồng xem sao. Hôm nọ ảnh gọi điện cho mình và nói muốn đưa mình đi du lịch chơi ở Cần Thơ vào thứ Bảy này. Mình suy nghĩ hoài, không biết có nên đi hay không. Hồng thấy sao?”

“Mình thấy ảnh hiền và có vẽ sống nội tâm nhiều. Ngoài ra vì ít liên lạc nên không biết nhiều về ảnh. Búm có cảm giác gì trong những lần đi chơi với ảnh?”

“Thấy tự nhiên và dễ nói chuyện với ảnh vậy thôi, đôi khi cũng thấy vui khi có ảnh đi bên cạnh.”

“Thấy vui khi đi bên cạnh là được rồi. Búm đi chơi một chuyến đi, nhưng nên cẩn thận là tốt.”

“Ừ, để mình xem sao. Bây giờ mình phải đi về, hôm nào sẽ đến thăm Hồng nhe.”

“Búm ngủ đây tối nay đi. Tối rồi đi đâu nữa.”

“Thôi, nhà Hồng đông Búm không dám làm phiền đâu, khi nào bồ dọn về nhà mới Búm sẽ ghé ngủ qua đêm nói chuyện chơi. Thôi, mình đi kẻo tối nghen.”

Tạm biệt Hồng xong Búm mở điện thoại cầm tay ra gọi.

Nữa giờ sau Búm bấm chuông cổng nhà Thu. Mới vừa mở cổng Thu nói:

“Bà thấy hôm nay tui cao thêm một chút không?”

“Như con vịt đẹt chứ có thấy cao thêm gì đâu. Ăn cái gì mà dài thêm ra chứ?”

“Ăn gì đâu, chỉ lâu lâu hẹn hò với bà là thấy cao thêm ra thôi.”

“Tại sao?”

“Thì bà cho tui đợi dài cổ ra chứ sao. Nói đến liền mà bi giờ mới ló mặt.”

“À đúng đó, cho bà dài thêm ra chút để nhỏ Hồng khỏi chê bà thiếu thước.”

“Nhắc đến nhỏ đó tui giận ứa gan.”

“Sao giận chi dữ vậy?”

“Bà nhớ hôm nọ bà và tui gặp nó ở tiệm nó không? Ai đời mời bà đi ăn mà không thèm đếm xỉa đến tui một lời, còn bảo tui mang xách bà về trước dùm nữa chứ. Hôm đó không nễ bà tui chửi cho nó một trận cho biết mặt tui, tui đâu phải thứ ham ăn đâu, nhưng mà phải biết lịch sự một chút chứ. Còn nữa, tướng nó mà bảo sắp lập trung tâm đào tạo người mẫu, nghe mắc cười, cả Sài Gòn bây giờ chưa ai dám làm nổi chuyện đó. Nổ vừa thôi. Thôi, bà đừng nhắc tên con mắc dịch đó trước mặt tui nữa nghe hong.”

Nói một hơi, xong, Thu đưa tay hất những sới tóc về phía sau, mặt dịu lại.

“Trời! Nhớ dai dữ hén. Ừa, thôi không nhắc tới nhỏ đó nữa. Bà trèo lên xe tui chở đi ăn bánh xèo miền Trung cho bớt giận.”

“Tại sao phải ăn bánh xèo miền Trung, sao không ăn bánh “bánh cơm cháy” cho ngon.”

“Bánh cơm cháy là bánh gì?”

“Pizza đó.”

“Thôi đi, cho tui còn kêu lính bắt đừng nói mua ăn.”

“Vậy đi ăn ở đâu đây?”

“Đường Bàn Cờ, quận Năm.”

Thu leo lên sau xe, chiếc xe Dream màu mừng quân từ từ lăn bánh. Thu chồm mình về phía trước, ôm chặc Búm như đôi tình nhân đã quen từ lâu.

“Sao, mấy hôm nay vui sướng lắm phải hong, kể nghe coi.” Thu nói.

“Làm gì mà sướng. Đang lo đây nề.”

“Chứ không đi ăn uống với anh Kỷ ở nhà hàng Hoàng Long sao?”

“Không. Mình và anh ấy ăn ở quán Trầu Cau.”

“Ý cha, sao anh ấy tâm lý quá hén, ăn ở quán Trầu Cau, bộ tính tập sự hay sao?”

“Tập sự gì, mà quán Trầu Cau do mình chọn chứ đâu phải anh ấy chọn đâu.”

“Ý cha, thì ra bạn tui còn tâm lý hơn anh chàng kia nữa. Ăn món gì trong đó, mấy mân, rượu mấy chai và bao nhiêu cặp đi quả? Lẹ hả.”

“Thôi mẹ ơi, đừng có tưởng tượng nhiều quá nghe hong. Đi ăn nhà hàng chứ bộ đi lể hỏi sao. Rỏ ởm ờ quá đi.”

Những lời chuyện trò nhí nhảnh không đâu vào đâu từ hai người bạn, rồi những tiếng cười khúc khích cứ len lỏi trên những đường phố Sài Gòn. Búm và Thu đã hòa nhập vào dòng người đang đi ăn tối ở thành phố về đêm. Lúc này những con đường vừa trải qua một cơn ngủ say dưới buổi trưa nóng ray rức của khí hậu miền nhiệt đới, giờ đã trổi dậy với một nhịp sống mới. Những bàn ăn, ghế nhựa, và những tấm quản cáo thực đơn lần lượt bò ra và xâm chím vỉa hè. Những lời mời cứ tiếp tục kêu gọi ra rã, nhiều khi chỉ phát ra rồi bay lạc vào chân không. Nhưng rồi Sài Gòn vẫn mãi sống lại sau những trưa hè mệt mỏi, hàng hàng người Sài Gòn lại đổ ra đường tìm đến những quán ăn bình dân, và tiếng cười, nói làm che lấp những nhọc nhằn của tám giờ qua. Búm dựng xe bên vỉa hè, bước vào quán ăn nhỏ chật ních người với Thu. Đôi bạn kéo chiếc ghế nhựa ngồi chung bàn với vài người xa lạ. Một lát sau hai dĩa bánh xèo nóng dòn còn bốc hơi được mang ra với rau xà lách xanh ngon. Những chiếc bánh xèo miền Trung nhỏ, dày, được đổ trong khuông đất bay mùi thơm của tôm và thịt làm cho bụng đói không chờ đợi nổi phải kêu thành tiếng. Bốn bàn tay thon thon của Búm và Thu liền nhào lộn vào dĩa bánh, bức xé và cuộn tròn từng miếng bánh xèo trong mảnh rau xanh, và bốn con mắt nhìn nhau nở một nụ cười tươi: cùng nhau chấm miếng bánh xèo vào chén nước mắm. Hai cái bánh biến đi một cách nhanh chóng như tiếng xèo trong chảo khi người thợ vừa đổ phểu bột đầu tay!

“Sao, bà tính sao?” Thu vừa hút cụm nước trong ly vừa hỏi Búm.

“Sao là sao?”

“Thì có đi chơi với anh Kỷ ở Ninh Kiều không chứ sao.”

“Theo bồ thì có nên đi không? Mình chỉ biết người ta có vài ba lần thôi, tui thấy làm sao đó.”

“Đi. Tui là đi liền. Chời, có người dẫn đi Ninh Kiều Tây Đô chơi mà không đi uổng lắm.”

“Bà nghĩ như vậy hả. Được. Mình sẽ gọi điện thọai trả lời cho anh ấy ngày mai đi. Nhưng bây giờ bà đi cùng tui ghé nhà nhỏ bạn gần đây một chút.”

“Nhỏ nào, chi vậy?”

“Nhỏ luật sư Mai bà gặp hôm nọ đó. Tui cần ghé căn hộ nó mượn cái vali nhỏ.”

“À! Có phải Mai luật sư chân dài ở chung phòng với mấy nhỏ cắt tóc đó không?”

“Ừ nó đó. Thôi mình đi kẻo tối.”

Búm thanh toán tiền hai dĩa bánh xèo và hai ly nước cam xong ra xe. Hai người bạn đèo nhau trên xe Honda chạy về căn hộ trên đường Cống Quỳnh. Lầu trệt căn hộ dùng làm tiệm cắt tóc giờ này đã đóng cửa. Búm bấm chuông đưa mắt liếc nhìn qua khe cửa sắt. Một người con gái mở cửa:

“Chị Búm, lâu quá không ghé thăm tui em chơi. Chị vô đi, mời chị kia nữa.”

“À em, đây là Thu, bạn của chị. Còn đây là Hiền. Có Mai nhà không cưng?”

“Chị khỏi hỏi, chị Mai lúc nào cũng ở nhà, có đi đâu đâu.”

Búm và Thu theo chân Hiền bước lên lầu.

“A! Bạn hiền, bạn hiền của tui đi đâu đây?”

Theo sau là tiếng cười dẽo đeo của Mai.

“Luật sư có khác hén, miệng bằng tay tay bằng miệng. Mà sao hôm nay nằm chèo queo đây, không đi chơi đâu sao?”

“Búm biết mình quá mà, không có xe mà cũng chẳng ai chở thì đi đâu bi giờ.”

“À, mà Sài Gòn chắc chỉ có Mai thôi. Ăn học ở đây mấy năm mà không biết chạy xe Honda, rõ quê làm sao.”

“Học chạy xe cho cho mệt xác chứ, nếu có đi đâu thì đã có tài xế riêng, không sướng sao.”

“Tài xế đâu?”

“À, thì xe ôm, xe xích lô đạp đó. Còn muốn sang hơn nữa thì chơi xe taxi hay xe đò, phải sướng hơn không.”

“Thua bà luôn.”

Trong căn phòng nhỏ, bốn người thiếu nữ và Mai hằng ngày vẫn quay quần sau giờ cơm tối. Hôm nay, trong góc phòng nhỏ những âm thanh rò rè phát ra từ chiếc tivi cũ rích. Ba nàng con gái dán mắt vào màng ảnh tivi và lâu lâu lại cười khúc khích. Búm tò mò nhìn vào thì:

“Mèn ơi! Mấy mẹ xem cái gì kỳ cục vậy!” Mặt Búm đỏ bừng lên.

Một người thiếu nữ, Diệu, đang ngồi tựa cửa sổ nhìn ra đường, trên tay đang cầm một tờ nhật trình đầy hình ảnh màu sắc, nghe Búm nói liền chạy lại:

“Để Diệu kể chị Búm nghe nghen. Hôm nọ thấy anh chàng kia cùng cô nhỏ, vui lắm. Hể anh chàng kia ấn người một cái là nhỏ nhúc nhích trồi người lên đầu giường, ấn cái nữa, nhỏ lại nhúc nhích trồi người lên đâu giường. Một hồi sau ấn cái nữa, nhỏ hết chỗ trồi lên, bèn vỡ khóc, và la lên.”

“La sao.” Mai hỏi.

“Thì chị Mai cũng thấy khúc phim đó mà hỏi cái gì.”

“Nhiều quá đâu có nhớ.”

“Thì nhỏ đó la: Chắc em chết quá! Hì hì chị Mai nhớ chưa. Làm anh chàng kia hoảng sợ, mặt tái nghét nhìn nhỏ trân trân, hỏi: Sao, sao vậy em, em có sao không? Nhỏ ngấn lệ, nói nhỏ: Sướng quá! Anh chàng thở phào một cái, người lạnh tanh, xong, thu dọn chiến trường đi ngủ mất tiêu.”

“Tui lạy mấy mẹ, mấy mẹ ăn không ngồi rồi xem toàn những chuyện bịnh hoạn không à. Thôi, Mai cho tui mượn cái valy nhỏ đi.”

“Hì hì, chi mà mắc cở vậy Búm.” Mai cười nhìn Thu. Nhờ Thu huấn luyện nhỏ Búm dùm nghe. To cái đầu rồi mà mắc cở như con nít.

“Hay là cho Búm về ở chung với mấy bồ một tháng là xong ngay, hì hì.” Thu nhìn Búm cười.

“Thôi mẹ, để con đi về kẻo tối, con còn phải sắp xếp quần áo vào valy để ngày mai đi Tây Đô nữa. Con sợ mấy mẹ rồi.”

Búm cầm chiếc valy cùng Thu bước xuống lầu. Hiền chạy đến cầu thang nói vói theo: “Chị Búm nhớ đừng la: chắc em chít quá anh ơi, nghen.” Sau lưng lại nổi lên những tiếng cười khúc khích.

Sáng thứ Bảy, sau nhiều lần lưỡng lự Búm lấy taxi chạy lên đường Hồng Thập Tự gặp Kỷ, lòng bồi hồi không biết vui hay buồn.

6

Chiếc xe taxi bốn chỗ ngồi chở Búm và Kỷ rời thành phố Sài Gòn lúc tám giờ sáng chạy ngược về quận 7 để bắt vào đại lộ Nam Sài Gòn đi Long An. Qua khỏi địa phận quận 7 đại lộ Nam Sài Gòn rộng thênh thang và trống vắng, hai bên đường là những thửa ruộng trống. Đó đây một vài căn nhà lụp xụp lợp bằng lá dừa nước bên đường, trước sân được đổ sỏi đá và năm ba chiếc ghế đặt bên cạnh gốc cây trứng cá. Nhìn vào cánh đồng trống, những thửa ruộng cỏ mọc chung quanh bờ chừa lại những vũng nước như những mặt hồ im lìm và phẳng lặng, làm gương soi hình cảnh vật cây cỏ và côn trùng của thế giới hồn nhiên. Những chú dế, cào cào, châu chấu và những loài chim nhỏ bé Manh Manh nhảy nhót chuyền cành qua những ngọn cỏ.

Chiếc xe taxi vẫn chạy đều trên con đường nhựa, Kỷ đưa mắt nhìn qua cửa sổ xa về tận chân trời:

“Quê hương mình đẹp quá!”

“Chỉ thấy cỏ nước với những vũng lầy, có gì lạ đâu mà đẹp anh?”

“Búm không thấy đó, những thứ này mới là cái đẹp của quê hương ruộng đồng. Nhất là khi Búm không còn sống trên chính quê hương mình. Nhiều khi những cái mình thấy hằng ngày và cho là rất tầm thường lại là những điều mình nhớ nhất một khi không còn có nó.”

“Hèn chi Hồng nói anh sống bằng nội tâm nhiều. Triết lý dữ hả.”

“Vậy sao. Nhưng thôi Búm thấy đói bụng chưa, mình ngừng lại chỗ nào ăn sáng và cho bác tài nghỉ nữa chứ.”

“Anh hỏi bác tài gần đây có chỗ nào ăn thì ngừng. Nghề của bác tài mà.”

“Chỉ còn nửa tiếng nữa là đến phà Bắc Mỹ Thuận, bên kia đầu phà anh chị ngừng lại ăn ngon hơn.” Người tài xế đáp.

“Vậy cũng được. Qua phà Bắc Mỹ Thuận anh ngừng xe lại tiệm nào có món chim nướng tụi mình ăn sáng nhe.”

Từ Long An, con đường về Tây Đô chạy qua những cánh đồng bát ngát của miền đồng bằng sông Cữu Long. Dọc theo hai bên đường nhà cửa mọc lên càng ngày càng nhiều. Thỉnh thoảng người đi đường bắt gặp một vài “biệt thự vườn” nằm xa xa bên trong mặt lộ: mái ngói cong, nằm ẩn núp dưới những tàn cây ăn trái, và con đường dài dẫn vào nhà với hai bên là hai hàng cây to rậm phủ kín che cả bầu trời màu xanh. Nhìn phong cảnh nên thơ, lãng mạn bên cạnh những cánh đồng lúa chín Búm lại nhớ câu chuyện của một cô bé chân nhảy sáo tung tăng trên lối đi mòn cỏ, dài hun hút dẫn vào nhà viên Ngoại ở một miền quê mỗi lần Hè về. Cô bé trở về thăm Ngoại mang theo biết bao sự tò mò của những đứa trẻ miền quê, rồi Hè qua cô bé cũng ra đi, chỉ để lại nhiều luyến tiếc!

Chiếc xe taxi chạy chậm lại, hòa nhập vào đoàn người chen chúc trên khoảng đường dẫn vào bến phà Bắc Mỹ Thuận. Khúc đường ngắn dẫn vào bến phà trở thành một “khu phố” tấp nập. Nơi đây, người sang, kẻ hèn đều có. Có những người lớn có, nhỏ có, miệng rao lanh lảnh và mắt đưa nhìn như khẩn cầu. Và cũng có những người đưa mắt nhìn về một nơi xa xăm trên sông Tiền, mặt thờ ơ. Khi con phà cập bến, tất cả họ đều qua sông, lắm người sang trọng lại tiếp tục cuộc hành trình, và những kẻ hèn mọn quay lại với con phà và lời rao mời mọc lại tiếp tục, như con sông vẫn mời mọc những đám lục bình.

Phà Bắc Mỹ Thuận đổ bến, mọi người đùa nhau lên bờ. Tiếng máy xe hòa lẫn tiếng người rộn ràng như buổi chợ rồi phai dần khi đoàn người rời bến. Con phà Bắc Mỹ Thuận máy vẫn nổ ì ạch nằm chờ khách. Bên cạnh bến phà náo nhiệt là hình bóng một chiếc cầu nguy nga đang thành hình. Chỉ còn vài ba năm nữa con phà Bắc Mỹ Thuận sẽ đi vào lịch sử và cuộc sống của những mảnh đời hai bên bến phà cũng sẽ đi vào dĩ vãng. Nhưng hình ảnh con phà Bắc Mỹ Thuận chắc sẽ còn trong tâm tư của rất nhiều người, những người đã từng tìm cuộc sống và những người đã từng qua sông Tiền trên chiếc phà này!

Chiếc xe ngừng lại trước một quán ăn bên lề đường, Kỷ, Búm bước vào ngồi bên chiếc bàn nhỏ nhìn ra mặt đường.

“Em thích ăn món gì?” Kỷ hỏi.

“Canh chua, anh gọi món canh chua cho em nghe, em nghe nói canh chua miền Tây ngon lắm.”

“Ừ, anh gọi tô canh chua cho Búm và hai xâu chim nướng ăn thử.”

“Sao anh thích ăn chim quá vậy?”

“Chim mà ai lại không thích, nhất là chim nướng của miền đông bằng sông Cữu Long này, Búm không thấy trên phà người ta mời mua những xâu chim nướng trông chảy nước miếng đó sao.”

“Anh thích chim lớn hay chim nhỏ?”

“Hì hì, Búm hỏi nghe mắc cở thấy mồ. Ai mà thích chim lớn, chim nhỏ nướng mới ngon. Ngày xưa quê anh có món đặc sản này đó, Búm có nghe chưa?”

“Anh mà mắc cở gì, mắc dịch thì có! Món gì, mà quê anh ở đâu?”

“Anh quê ở Quảng Ngãi. Chim mía đặc sản của Quảng Ngãi đó, chim mía Quảng Ngãi nho nhỏ nướng xỏ thành xâu, ăn ngon lắm.”

“Ủa! Sao em thấy chim ở đây người ta bán chim bự không, sao Quảng Ngãi của anh chỉ có chim mía nho nhỏ không vậy? Mà chim mía là chim gì?”

“Chim mía là đủ loại chim hết, như chốc là dòng dọc đậu mũ quành quạch chàng làng, vv… những loại chim có ở địa phương ban ngày đi ăn mọi nơi tối về ngủ trong mía đó. Mấy người dân khỏe mạnh ở quê anh chiều chiều trước khi trời tối họ ra đám mía rình rồi đặt lưới, đợi khi chim về mía ngủ đông đảo họ phóng lưới chụp bắt cả trăm con về nhổ lông đem nướng nhậu.”

“Ác hén, chim người ta mà đem nhổ lông hết, ác thiệt.”

“Thôi mình ăn rồi còn đi nữa.”

“Còn bao lâu nữa mới đến Ninh Kiều anh?”

“Mình đi được hai tiếng rồi, còn khoảng hai tiếng nữa là đến bến Ninh Kiều.”

Ra khỏi quán ăn taxi chạy thẳng về Vĩnh Long. Con đường nơi đây bằng phẳng, im lặng như mặt nước mùa thu, chỉ có những cánh đồng bao la và những ngọn cây thấp nằm chen chúc trong làng mạc ruộng đồng. Nhiều đám ruộng lúa đã ươm thành màu vàng chen lẫn với những đám còn xanh và những cánh cò trắng như bông tạo nên một bức tranh miền quê thật thơ mộng. Nhìn quang cảnh bên đường Búm lại nhớ những bài văn về quê tôi trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư, mà có lẽ đã đi vào lòng những người học trò nhỏ từ khi bước chân trên bờ đê để đến trường làng.

“Búm đang mơ màng gì mà trầm ngâm quá vậy?”

“Đâu có mơ màng gì đâu, chỉ thấy cảnh đồng quê đẹp và nên thơ quá, vậy thôi.”

“Búm cũng thấy cảnh đồng quê đẹp sao!”

“Bộ anh tưởng Búm là sỏi đá hả. À mà thôi để Búm hỏi anh chuyện này nhe. Anh có nghĩ khi nào một người tưng tửng mà học đậu cao không?”

“Không. Anh chỉ biết người ta học đậu cao rồi mới trở thành tưng tửng thôi.”

“Vậy để Búm kể anh nghe nha. Búm có nhỏ bạn tưng tửng mà học đậu Bác Sĩ đó , tin hong.”

“Khó tin. Nhưng mà sao gọi là tửng?”

“Vầy nè, nhỏ bạn Búm năm lên 17 tự nhiên một hôm nó bị ai nhập nào nó. Nó trở nên khỏe mạnh một cách phi thường.”

“Khỏe mạnh thì sao gọi là tửng!”

“Đường còn xa con chó nó na con mèo, đợi nghe đi rồi sẽ biết. Hôm đó nó đến tiệm tạp hóa cô nó chơi. Nó lấy ra một lúc hai điếu thuốc trong tiệm cô nó, xong, đốt hút cùng một lúc luôn. Mà anh biết hong, trước đó nó không bao giờ hút thuốc, con gái mà, ai hút thuốc. Nó bắt chân ngồi trên lan can trông như một gã đàn ông, mặt mày hung dữ, nó đổi giọng nói thành người đàn ông và nó nói nghe như tiếng Miên the thé nghe rùng mình luôn vậy đó, không ai hiểu hết. Rồi nó la nó chửi thề nó đập phá tanh bành trong nhà làm cô nó phải nhờ ba thanh niên lực lưỡng mới đè nó xuống, cột tay cột chân nó được. Xong, cô nó mang vào bệnh viện để điều trị. Bác sĩ bó tay không biết căn bịnh gì hết. Mấy tiếng đồng hồ sau nó tỉnh dậy, thấy người bầm dập mọi nơi. Tiếng nói nó trở lại bình thường và nó không nhớ những gì nó làm lúc trước hết. Anh tin hong?”

“Búm có thấy không?

“Lúc nó bị nhập Búm không thấy nhưng có vào bịnh viện thăm nó và thấy lúc đó nó bơ phờ mệt mỏi lắm. Và sau lần đó thỉnh thoảng nó hay bị người đàn ông Miên nhập vào người nó và làm như vậy. Có lần Búm chứng kiến và thấy nó dữ lắm. Nên sau này Búm ít ngủ chung qua đêm với nó nữa, sợ nó lên cơn nó bốp cổ chết.”

“Búm tin chuyện đó hả.”

“Ngày xưa Búm không bao giờ tin ba chuyện này và cho là nhảm nhí, nhưng từ ngày thấy nó lên cơn Búm mới tin.”

“Anh thì không tin. Mà đâu có thấy gì là tửng đâu!”

“Sao không tửng, sau ngày đó nó hay ăn nói tưng tửng. Nhưng tửng vậy mà nó học thành Bác Sĩ đó, hay chưa. À để khi nào có dịp Búm giới thiệu anh với nhỏ bạn tửng của Búm nha. Bi giờ nghĩ lại chuyện này Búm còn thấy run đây nè.”

Câu chuyện của Búm vừa chấm dứt thì xe cũng vừa đến phà Hậu Giang, còn gọi là phà Cần Thơ, nối liền bến Bình Minh (Vĩnh Long) với bờ Cần Thơ. Dòng xe và người nối đuôi nhau xuống phà, Kỷ và Búm rời chiếc taxi ra đứng ngoài hành lang nhìn sông nước. Trên con sông Hậu những xuồng, ghe qua lại tấp nập, và những chiếc xà lan ì ạch như những con trâu nước đang lôi kéo những ghe hàng bập bềnh trên sông. Trên sông những đám lục bình trôi nổi theo dòng nước. Trên con phà hình ảnh của người thương phế binh tay ôm cây đàn gãy khúc nhạc: “Chiều Qua Phà Hậu Giang” của Trần Trịnh. Tiếng hát buồn của người chiến binh đi vào không gian với dòng người ngiệt ngã.

Khoảng mười hai giờ trưa taxi đổ bến Ninh Kiều. Kỷ nhìn người tài xế và hỏi:

“Anh tài biết khách sạn nào khá ở đây giới thiệu tui đi.”

“Để tui chở anh chị đi thăm quang một vòng trên bờ sông Hậu anh chị chọn nhe.”

Chiếc taxi bắt đầu từ chợ Cần Thơ chạy dọc theo bờ sông Hậu, khi đến cuối công viên Ninh Kiều, Búm nói:

“Anh cho xe chạy về khúc trên kia đi. Hồi nãy Búm thấy khách sạn Quốc Tế có vẽ hay hay đó.”

“Được. Chị để tui chạy về khách sạn Quốc Tế cho, tui cũng định đề nghị cùng anh chị khách sạn đó.” Người tài xế đáp.

Xe đổ bến. Kỷ trả tiền và thù lao cho tài xế, xong:

“Chúc anh trở lại thành phố bình an. Tụi tui sẽ ở lại đây khi nào muốn về tui sẽ liên lạc với hảng taxi ở đây.”

Người tài xế bắt tay, cám ơn Kỷ rồi quay xe trở lại.

Kỷ giúp Búm mang chiếc vali nhỏ vào phòng tiếp tân của khách sạn Quốc Tế. Đặt hai chiếc vali lên ghế salon phòng khách. Kỷ nói:

“Búm ngồi đây anh đến đặt phòng nhe.”

“Để Búm đi chung với anh.”

Kỷ bước đến quày tiếp tân và hỏi:

“Anh cho tui một phòng hướng ra công viên Ninh Kiều nhe.”

“Không. Anh cho hai phòng đi nhe.” Búm nói.

“Ủa! Hai phòng chi vậy?”

“Thì một phòng cho anh, một cho em chứ chi.”

“Trời! Em lại đây với anh một chút đị “

Kỷ kéo Búm trở lại bộ salon phòng khách.

“Búm nghĩ sao mà mình phải mướn hai phòng?

“Búm thích vậy đó. Mướn một phòng rồi tối làm sao ngủ?”

“Trời ơi! Búm làm vậy anh quê mặt chết chịu sao nổi. Hai người đi chơi chung mà mướn mỗi người một phòng rồi mấy nhân viên ở đây nghĩ anh ra sao?”

“Sao là sao. Bộ ở riêng không được sao.”

“Không được. Nếu biết như vầy thà anh không xuống đây còn hơn.”

“Ủa! sao lạ vậy? Bộ anh có ý đồ gì đen tối sao?”

“Không có ý đồ đen tối gì hết. Chỉ đơn giản là anh đi chung với Búm như bồ bịch mà mướn phòng riêng thì kỳ chết, vậy thôi. Hay là nếu Búm mắc cở thì đến đó nói với người ta mình là vợ chồng rồi mướn một phòng.”

“Không được. Anh khôn quá hén. Vậy thì anh đến đặt một phòng có hai giường đi.”

“Hai giường hả?”

“Ừ, hai giường riêng rẽ nghe hong.”

“Thôi, cũng được. Búm đợi đây đi.”

“Không, Búm đi cùng anh đến đặt phòng.”

Kỷ mặt mày nhăn nhó cùng Búm trở lại quày tiếp tân.

“Anh có phòng nào hai giường không anh?”

Người nhân viên tiếp tân nhìn Kỷ và Búm một thoáng, rồi nói:

“Anh chị để tui xem hồ sơ một chút nghen.”

Kỷ quay đầu ra mặt đường, rút điếu thuốc ra đốt.

“Không còn anh ơi, Phòng giường đôi hết rồi. Chỉ còn hai phòng ở lầu hai và cả hai phòng đều giường chiếc hết, loại giường lớn đó, anh chị chịu không?”

“Hết rồi hả. Anh đợi tui một lát nhé.”

Kỷ nắm tay Búm dắt trở lại salon.

“Bây giờ Búm nghĩ sao? hết giường đôi rồi, Búm nghe ch ưa.”

“Đi khách sạn khác đi.”

“Trời! Bây giờ đồ đạc kềnh càng đi đâu bi giờ. Búm ở tạm đi, ai ăn thịt Búm đâu mà sợ. Nhe.”

Búm ngồi trầm ngâm một hồi rồi nói:

“Cũng được, mà nhớ à nghen.”

“Nhớ.”

Kỷ thở phào một cái, trở lại đặt phòng. Xong, Kỷ quanh lại cùng Búm mang hành lý đến thang máy.

Thả chiếc vali trên giường Kỷ rút điếu thuốc ra đốt, bước đến cửa sổ vắn màng lên nhìn ra sông Hậu. Bóng người dạo chơi trên bến Ninh Kiều thưa thớt. Kỷ nhả khói thuốc bay vào không gian và quay qua Búm:

“Búm đi tắm cho mát rồi mình xuông phố kiếm gì ăn nghen.”

Nhìn lại Búm đã vào phòng tắm.  Kỷ đến mở tung những khung cửa sổ rồi trở lại ngã người trên chiếc giường nệm, mắt nhìn lên trần nhà. Tiếng nước xối từ bông sen trong phòng tắm vẫn chảy đều. Nữa ngày mệt mỏi vừa trôi qua!

Kỷ đang lim dim thì Búm đến cạnh đầu giường rung mạnh:

“Dậy, thức dậy đưa em đi ăn.”
“Em tắm xong rồi hả, buồn ngủ quá.” Kỷ nói trong tiếng ngáp dài.
“Anh rửa mặt rồi đi ăn chứ đi bốn tiếng đồng hồ xuống đây nằm ngủ sao.”
“Bộ đi xa rồi người ta không ngủ sao, mà không ngủ thì còn làm gì nữa đây.
Nghe Búm bi giờ giống bạn của Búm rồi đó.”
“Ý anh nói em tửng hả?”
“Đâu có. Thôi, mình xuống chợ kiếm đồ ăn.”
Kỷ đưa Búm rời khách sạn Quốc Tế ra bến Ninh kiều đi một vòng xem cảnh công viên. Buổi trưa, trời vẫn còn nóng, công viên Ninh Kiều vắng bóng người chỉ còn những chậu cây kiểng và bông hoa muôn màu đang khoe sắc dưới nắng ấm. Và ngoài kia, trên sông những con xuồng đang xuôi ngược dòng nước, không biết chạy về đâu?
“Mình lên phía chợ trái cây Cần Thơ kiếm gì ăn nhe anh.”
“Ừ. Đi, anh cũng đói rồi.”
Kỷ Búm bước vào quán ăn bên đường Hai Bà Trưng. Trời Cần Thơ nắng cháy, hai người ngồi bên chiếc bàn nhỏ trên lề đường nhìn ra công viên. Hơi nước từ sông Hậu thổi lên làm dịu đi cơn nóng bang trưa. Kỷ gọi ly bia, Búm đưa ống hút lên hút từng cụm nước dừa tươi mát. Ngoài đường, bóng người và xe vẫn mịt mù sương khói! Búm gọi hai đĩa cơm phần, tô canh chua và xâu chim nướng, những đặc sản của miền sông nước.
“Anh thích ở đây không?”
“Thấy cảnh sông nước nơi đây cũng lạ mắt. Lát nữa mình thuê xe vào bên trong thành phố Cần Thơ xem cho biết. Nghe nói ở đây có vài ngôi chùa đẹp lắm. Búm đến đây lần nào chưa?”
“Chưa. Đây là lần đầu tiên em đến Tây Đô. Nhìn sông Hậu rộng bao la và nước chảy mạnh quá. Hình như nơi đây ngày xưa có nhiều người ra đi.”
Xong bửa cơm trưa, Kỷ và Búm đi ngược vào thành phố Cần Thơ. Con đường Hai Bà Trưng chạy song song với công viên Ninh Kiều, một đầu bắt vào chợ trái cây Cần Thơ và đầu kia là bến Ninh Kiều nơi có nhiều nhà hàng ăn chơi và một vườn cây kiểng khá rộng lớn. Chợ trái cây nằm bên bờ sông Hậu, buổi sáng những chiếc xuồng con tấp nập mang đầy trái cây từ những vườn chung quanh về đổ lên chợ. Nên nơi đây còn là chợ đầu mối trái cây.
Chiều về những đoàn người trai gái dẫn nhau dạo chơi trên công viên Ninh Kiều nhiều hơn. Quán xá bên bờ sông Hậu cũng trở nên sống động với hàng hàng những cặp tình nhân ngồi ăn uống nhìn sông nước. Và khi bóng mặt trời chìm sau bên kia bờ sông Hậu là đoàn người ca hát tài tử lại xuất hiện trên chiếc thuyền. Những giây đèn được thắp sáng trang hoàng chiếc thuyền như một sân khấu nổi, rồi tiếng đàn trổi lên, chiếc thuyền tách khỏi bến trôi bồng bềnh bên bờ sông Hậu, và lời ca tiếng hát từ những chiếc loa vang đi trên dòng nước. Công viên Ninh Kiều những bóng đèn được thắp sáng và văng vẳng từ con thuyền tiếng hát: “Từ là từ phu tướng / Bảo kiếm sắc phong lên đàng…” lặng lẻ đi vào lòng người dân miền sông nước.
Khi những chiếc xuồng trên sông Hậu nằm im ngắm nhìn ánh trăng lấp lánh trên dòng nước thì tiếng ca hát tài tử cũng chìm vào lòng sông. Những bóng đèn bập bềnh trên sông cũng vụt tắt và cảnh náo nhiệt ở bến Ninh Kiều cũng đi vào giấc ngủ, chỉ còn lại dòng sông âm thầm trôi.
Kỷ đưa Búm trở lại khách sạn Quốc Tế.
“Tối rồi, anh đi ngủ đi.”
“Em cũng đi ngủ chứ?”
“Ừ. Để em đi thay đồ đã.”
Kỷ mở vali lấy bộ đồ ngủ mặc vào, xong, đến cửa sổ nhìn ra sông Hậu. Bến Ninh Kiều giờ này thật vắng lặng, chỉ còn năm ba người bạn ngồi quanh quần bên dĩa đậu phụng, lâu lâu họ ngước đầu lên ực một cái rồi đưa hai tay lên trời la hò vài tiếng. Nhìn xa xa ngoài kia, ánh trăng đã chìm dưới đáy sông. Kỷ khép cửa lại.
“Anh nằm bên này nghen. Cái gối ôm này là “vùng phi quân sự” đó, cấm vượt nghe hong.” Búm nói xong nằm khum người như con chiếu manh.
“Trời! Búm khai chiến với anh từ khi nào vậy?”
“Không. Búm đề nghị hòa bình đó chứ. Anh đừng vượt qua vùng phi quân sự thì làm gì có chiến tranh, chết chóc!”
“Có nghĩa là mình sống chung hòa bình trên một mảnh “giường” phải hong?”
“Ừ, nghĩ vậy cũng được. Thôi Búm đi ngủ đây.”
Búm thò tay vặn tắt chiếc đèn ngủ. Căn phòng chìm trong bóng tối. Một tiếng rồi hai tiếng đồng hồ trôi qua, tiếng cục cựa từ bên kia vùng phi quân sự vẫn thôi thúc từng hồi.
“Ủa! Anh làm gì vậy?”
Búm quay lưng lại. Cái mền và gối ôm “vùng phi quân sự” cũng bay xuống nền nhà. Búm mở mắt nhìn Kỷ mập mờ trong bóng tối.
“Cho anh cái đi.”
“Cái gì?”
“Cái đó đó.”
Nói rồi Kỷ choàng tay lên thân hình nhỏ bé của Búm. Những nụ hôn của Kỷ cứ nối tiếp chạy khắp trên gáy và mái tóc Búm. Những tiếng động lại kêu lên sột soạt. Búm vẫn nằm im, hai tay ôm trọn lấy bộ ngực canh tân. Kỷ vứt chiếc xiêm y xuống nền nhà, rồi hai cái, ba cái lần lượt bay xuống nền nhà,…
“Trời! Sao em mặt chi mà nhiều quần thế này! Ba caí rồi mà vẫn còn.”
“Anh ơi, hồi trưa anh nói là không ai ăn thịt em mà! Sao anh không giữ lời
hứa.”
“Ừ. Thì anh đâu có ăn thịt em đâu.”
“Chứ anh làm gì vậy?”
“Cái này đâu phải ăn thịt.”
“Đừng nhe anh. Em xin anh đó. Đời con gái chỉ có một cái ngàn vàng duy nhất thôi, và em muốn dành cho người chồng của em sau này. Anh đợi được không?”
“Thì sau này mình làm đám cưới, anh sẽ yêu em nhiều hơn.”
“Thôi. Em sợ lắm. Nhở mất đi rồi làm sao em tìm lại được đời con gái. Anh có hiểu em không?”
Kỷ ngồi trầm ngâm, suy tư nhìn Búm nằm bất động trong bóng tối:
“Thôi anh hiểu rồi. Em không thích thì thôi. Anh xin lổi em nha. Em đã làm anh thương và yêu em nhiều lắm. Em ngủ đi. À! Mà em mặc bao nhiêu cái quần vậy?”
“Năm cái!”
Kỷ thọt tay vào người Búm cù lắc, hai người cười vang, rồi ôm nhau nằm ngủ.
Sáng hôm sau Kỷ đưa Búm đi ăn sáng rồi cùng nhau ra bến Ninh Kiều lên thuyền ngược dòng nước đi về chợ nổi Cái Răng. Từ bến Ninh Kiều con thuyền nhỏ chạy trên sông Hậu khoảng chừng nữa tiếng đồng hồ là đến khu chợ nổi trên sông. Chợ Cái Răng nhóm họp rất sớm, bảy giờ sáng chợ đã đông nghẹt với những chiếc ghe, xuồng chở đầy hàng hóa. Ghe tạp hóa, ghe bán đồ ăn như cà phê, phở, bún, cháo lòng và cả những chiếc ghe làm nghề sửa chữa những đồ nho nhỏ như máy quẹt, đồng hồ cũng nổi bập bềnh trên con nước này. Bạn hàng và những người đi chợ đều dùng con xuồng nhỏ và họ lèo lái lách qua trên sông, tay đẩy tay chèo, miệng rao mời chào gọi tạo nên một khúc sông nhộn nhịp, một quang cảnh độc nhứt vô nhị của miền sông nước phù sa. Kỷ và Búm cũng hòa mình trong dòng người trên sông, kêu gọi những món ăn và vài ly cà phê sữa để biết cái cảm giác thế nào là đi chợ nổi! Rồi xa xa là những tà áo bà ba màu vàng rực, đầu đội nón lá thướt tha với chiếc quần lĩnh màu trắng xóa xuôi thuyền lướt trên sông trở về cho kịp sửa soạn một bữa cơm trưa. Khi đồng hồ chỉ khỏang 9 giờ sáng thì chợ nổi Cái Răng cũng bắt đầu thưa người. Kỷ đưa Búm xuôi con thuyền trở lại bến Ninh Kiều. Sau khi thanh toán tiền phòng, Kỷ Búm ra trước cửa khách sạn Quốc Tế đón taxi đi một vòng xuyên qua thành phố Cần Thơ rồi trở lại Sài Gòn.
Hai ngày sau Kỷ gặp Búm và:
“Mai anh trở lại bên kia. Anh muốn trao cho em một vật này.”
“Cái gì vậy anh?”
“Đây là cuốn album anh muốn em giữ nó cho kỹ.”
“Ủa! Sao album mà không có hình gì hết vậy?”
“Ừ cuốn album này trống trơn, chỉ có 52 ngăn chứa. Em giữ lấy nó và anh cũng giữ một cái tương tự. Bắt đầu tuần tới anh sẽ viết và gởi về cho em mỗi tuần một lá thư, sau khi đọc em hãy bỏ vào những ngăn trống này. Và anh muốn em cũng làm tương tự cho anh.”
“Nghĩa là em cũng viết và gởi cho anh mỗi tuần một lá thư và anh cũng sẽ cất vào những ngăn trống trong album của anh?”
“Ừ. Anh muốn mình bắt đầu viết lên một chuyện tình, sau này những bức thư này sẽ là bằng chứng hai đứa yêu nhau. Những buồn vui, nhớ mong và chờ đợi sẽ được ghi vào những bức thư sau này, rồi đúng 52 tuần lễ nữa anh sẽ trở lại đón em đi. Lúc đó 52 bức thư của anh và 52 bức thư của em nhập chung lại sẽ làm thành 104 kỷ niệm sau này cho hai đứa. Và biết đâu sau này nó sẽ là của hồi môn cho con mình đó.”
“Anh khôn quá hén. Có phải anh bắt em viết lên thành giấy trắng mực đen để sau này anh mang ra làm bằng chứng mỗi lần hai đứa cãi lộn nhau, phải không?”
“Hì hì, em nghĩ sao cũng được. Nhưng nhớ phải viết đúng nghĩa thư tình nhe và không được thiếu một lá nào đó. Thôi bây giờ anh đưa em đi ăn, xong, anh phải trở lại Hóc Môn.”
“Ngày mai em sẽ gặp anh đi tại phi trường. Em sẽ đến đó thật sớm.”
Hôm sau Búm xin nghỉ làm việc sớm, trở về nhà thay quần áo xong chạy thẳng lên Tân Sơn Nhất. Hơn một tiếng đồng hồ ngồi tâm sự cùng Kỷ, rồi giờ bay cũng sắp đến. Búm theo Kỷ vào phòng xé vé, quay trở ra sân ga trời đã về chiều. Búm đứng nhìn bầu trời, khi chiếc máy bay khổng lồ lao mình vào không gian, Búm nhìn theo, rồi chiếc máy bay chun vào chân mây.
7

Chiều thứ Sáu Búm ngồi nhìn sổ sách, những con số cứ nhảy múa trên trang giấy như muốn trêu ghẹo đôi chân của Búm. Xếp cuốn sổ Búm nhìn ra sân thầm nói: “Tiền, tiền đâu mà nhiều thế này! Sao không chia cho mình một chút tiêu chơi.” Búm làm kế toán trưởng cho công ty mấy năm nay, ngày nào Búm cũng nhìn đống sổ sách tiền bạc hàng tỷ tỷ đồng, có hôm lại lên trung tâm du lịch đặt vé, xé vé cho nhân viên đi công tác nước ngoài. Trước mặt Búm là những con số tiền khổng lồ, những vé máy bay đi đây đi đó, vậy mà Búm thì nghèo xơ xác, tháng nào tính tháng nấy và suốt đời chỉ lanh quanh trong thành phố chật hẹp này. Đôi khi Búm thấy giữa Sài Gòn đô hội có lắm người từ mọi nơi về đây và đã làm nên sự nghiệp, nhưng cũng có lắm người bị chôn vùi và quên lãng giữa phồn hoa này. Không suy nghĩ nữa, Búm thu xếp sổ sách bỏ vào hộc bàn, khóa kín. Lấy xe chạy đến nhà Thu.

“Chà, đi Ninh Kiều vui không?”

“Vui chứ. Bồ có rảnh hong trèo lên xe tui chở đi uống nước.”

“Bồ đi bao lâu?”

“Hai ngày một đêm.”

“Ý cha, một đêm! Một đêm đã đời hả?”

“Có gì mà đã?”

“Ủa! Sao lạ vậy! Anh ta bị bịnh sao?”

“Bịnh gì?”

“Chứ sao không có gì xảy ra!”

“Thôi, nói xàm đi. Tui đâu có chịu chứ đâu phải ảnh đâu.”

“Mà sao bà không chịu?”

“Ủa! Vậy gặp bà là xong ngay rồi, phải hong? Bà ngu lắm, thân con gái không biết giử, có ngày sẽ khổ cho mà coi.”

“Nhưng mà làm sao bà giử được?”

“Thì trước khi đi ngủ tui trướng một lúc năm cái quần là anh ấy hiểu ý tui thôi.”

“Trời! Mặc một lúc năm cái quần ngủ! Hay, tui khen bà giỏi đó nghen. Vậy là chị hai tui con nguyên xi hén, chán thiệt. Nhưng thôi, đó là tư cách của bà, đời này hiếm có đá nghen! Chở tui ra kia uống ly nước chè đá đi.”

“Ý bà nói trà đá phải hong?”

“Gọi là chè mới đúng. Trà nghe như Tàu, tui ghét cái ngử đó lắm.”

“Thì gọi gì cũng được.”

“Không phải gọi gì cũng được. Phải gọi là chè mới được. Bà nghe đây nhé, phải là chè mới có chuyện người ta nói như này nè:

Hôm qua em đi hái chè
Gặp thằng phải gió nó đè em ra
Em lạy nhưng nó không tha
Nó còn đút cái đầu cha nó vào.

Đó, bà thấy chưa. Phải là chè mới đè em ra, chứ là trà mà đè em ra thì nghe chướng tai quá! Nhưng mà gặp bà thì có thằng phải gió nào dám đè được đâu, phải hong!”

“Tui đã nói thua bà rồi mà! Thôi, đi.”

Chiếc xe nổ máy, hai người bạn thân cười khúc khích chạy ra đầu hẻm.

Rồi từ đó mỗi tuần Búm nhận một lá thư của Kỷ. Cuốn Album Kỷ trao cho Búm ngày càng đầy thêm với những lời ân ái, nhớ mong. Có những buổi chiều lang thang trên phố, nhìn dòng sông Sài Gòn êm đềm trôi, Búm lại nhớ một buổi chiều xưa:

Thấp thoáng chiều về trên bến sông
Lưa thưa đậu bến mấy con đò
Sóng nước lênh đênh bầy cỏ lục
Con thuyền xui mái về đâu nhỉ!
Có đổ Ninh Kiều phố cũ Tây Đô?
Cho ta nhắn hỏi đôi lời:
Hỏi ai có nhớ Ninh Kiều?
Tây Đô chiều đó, con đò năm xưa!

Và khi những khoảng trống cuối cùng trong cuốn album của Búm được lồng với những cánh thư, là ngày Kỷ trở lại.

Thời gian qua Kỷ và Búm đã hoàng thành thủ tục kết hôn, nay Búm đã nắm trong tay hộ chiếu và visa xuất cảnh. Nên kỳ này Kỷ trở lại làm lễ cưới và “đưa nàng về dinh”. Những ngày tháng nhớ mong nay đã qua, Kỷ trở lại thành phố Sài Gòn với một niềm vui. Thiệp cưới đã đặt xong, bao nhiêu danh sách bạn bè, người thân, Kỷ đã trao cho Búm để gởi thiệp mời.

Chỉ còn một tuần lễ nữa là ngày vui sẽ đến. Những lo toan, bận rộn luôn quấn quít trên gót chân của Búm. Ngày hôm qua Búm vào cơ quan báo tin vui, trao thiệp mời và cũng báo cho cơ quan biết là ngày làm việc cuối cùng của Búm. Những lời chúc tụng, những nắm tay chân tình từ bạn bè chúc mừng cho cuộc đời của Búm rẽ sang trang mới. Những lời chúc mừng vô tình khui dậy ký ức của Búm. Rồi đây những bước chân, những góc đường, con phố, và căn phòng chật hẹp mà hằng ngày Búm đi đi về về, sè được xếp lại một ngăn nhỏ nào đó trong tâm tư của Búm. Hình như Búm bắt đầu thấy nhớ! Nhớ những cảnh vật rất bình thường như có lần Kỷ đã nói.

Và một lần nữa khách sạn Tiếng Ve lại mở rộng đón chào người khách cũ.

Kỷ đưa Búm xuống phố:

“Em vô đây với anh một tí nhe.”

“Anh vào khách sạn Tiếng Ve để làm gì nữa, sao mình không ở nhà anh Hai năm ba bữa nữa cho vui rồi đi?”

“Ừ, mình sẽ ở nhà anh Hai. Nhưng trong ngày cưới mình sẽ về đây, dù gì đi nữa thì nhà anh Hai cũng chỉ là nhà của anh Hai, anh muốn mình có một cõi riêng tư của mình. Em thấy sao?”

“Cũng được. Mà anh tính ở đây bao lâu?”

“Chỉ năm ba ngày sau đám cưới thôi.”

Kỷ đưa Búm vào phòng tiếp tân khách sạn Tiếng Ve. Người thiếu nữ năm nào nhìn Kỷ và Búm, mĩm cười chào người khách cũ.

Xong việc đặt phòng, Kỷ đưa Búm xuống phố mua sắm nữ trang.

“Em biết em thích những gì chưa?”

“Biết. Anh đưa em xuống mấy tiệm vàng phía sau chợ Cũ đi.”

Một hồi sau Kỷ và Búm bước vào những cửa hàng trang hoàng nữ trang sáng chói. Nhưng viên ngọc thạch, những sợi giây chuyền, tượng Phật, và biết bao nhiêu hàng trang sức. Kỷ đi theo sau Búm trong rừng người đông nghẹt.

“Em muốn cái này nề, anh thấy sao?”

“Em muốn cái nào cũng được, em cứ lựa đi.”

Một lát Búm nói người chủ tiệm lôi một đống nữ trang để trên bàn nào là giây chuyền, lắc, kiền, nhẫn, bông tai, những nữ trang bằng vàng 18 và vàng 24. Tính hết thành tiền, xong, Búm chỉ:

“Anh trả tiền đi.”

“Em mua chi ba cái thứ này, Sao không mua nữ trang bằng hột xoàng cho đẹp?”

“Hông. Em chỉ thích vàng thôi. Anh mua vàng cho em.”

“Ừ, mua thì mua. Nhưng anh thấy bì giờ bên đó người ta ưa hột kim cương nhiều hơn, mỗi lần đi đâu mà mang ba cái thứ này quê chết đi. Em không thấy sao!”

“Không có hột gì hết, em muốn vàng thôi. Em nghe người ta nói “cái ngàng vàng” mới quý, chớ có ai nói “Cái hột” quý đâu!”

“Ừ, không hột thì không hột. Nhưng anh vẫn thấy hột mới quý đa. Tiền đây nè, em lấy trả người ta đi. Xong mình còn đi chọn mấy bộ đồ và chụp ít tấm hình nữa.”

Chiều xuống, Kỷ đưa Búm về nhà người chị Búm ở cổng số 11, xong Kỷ    chạy xe về nhà người anh trên Hóc Môn. Trước khi ra về Kỷ hỏi:

“Em đã gởi thiệp mời đi hết rồi phải không? Mình chỉ còn có sáu ngày nữa thôi đó.”

“Em gởi đi hết rồi. Anh về kiểm điểm lại bên anh nếu còn thiếu ai thì gởi lẹ đi. Đây nề, một số thiệp trống đây nề, anh mang theo nha.”

“Ừ. Thôi anh đi về. Hôm nào anh và em còn trở lại Lâm Đồng gặp Ba Me nữa.”

“Anh lo chuyện nào cần làm trước thì lo đi. Chuyện đó đợi sau cũng được mà.”

Tối hôm đó Kỷ trở về Hóc Môn. Mang cuốn sổ tay có ghi tên những người bà con, bạn bè mà Kỷ định mời dự lễ cưới ra xem. Kỷ hỏi đứa em trai, Linh, kiểm điểm danh sách những người đã được gữi thiệp mời. Cuối cùng trong danh sách những người được mời, Kỷ thấy một số anh em bà con bên Nội đang sống ngoài Long Khánh chưa gởi thiệp. Kỷ bèn hỏi người anh làm sao mời những người này. Anh Kỷ bảo:

“Xa qua, anh nghĩ không cần thiết đâu, chắc bà con ngoài đó cũng thông cảm mà.”

Kỷ ngồi suy tư một hồi, rồi nói:

“Em thấy không mời kỳ quá, nhưng nếu mời thì làm sao mời đây, họ ở xa quá.”

Người em, Linh, nghe vậy liền nói:

“Anh để em chạy ra đó mời dùm cho anh.”

“Nhưng mà em đang đi học, có trắc trở gì không?”

“Sắp cuối tuần rồi, em đi được mà. Hơn nữa từ đây ra Long Khánh chỉ mất nữa ngày là về được rồi.”

“Ừ, nếu được thì em đi dùm anh nhe. Anh chỉ còn có năm ngày nữa thôi.”

Hôm sau Kỷ trở lại Sài Gòn cùng Búm đi lo công chuyện. Và cũng trong ngày này Linh lấy chiếc xe Honda chạy ra Long Khánh đưa thiệp mời cho năm ba gia đình. Đi công chuyện với Búm xong, Kỷ đưa Búm trở lại cổng số 11 rồi trở về nhà người anh trên Hóc Môn. Người anh hỏi:

“Em và Búm lo công chuyện xong hết chưa? Em cũng phải về Lâm Đồng thăm chú thím bên đó nữa.”

“Anh đừng lo, tụi em đã lo gần xong mọi việc rồi, chỉ còn vài ba chuyện nhỏ với nhà hàng thôi. À! Sao tối rồi mà không thấy thằng Linh nó trở về anh?”

“Anh nghĩ chắc nó ghé bạn học đâu đó thăm chơi, lát nữa nó về thôi.”

Kỷ ngồi ngoài hành lang nhìn ra vườn. Buổi chiều trời Hóc Môn nóng nực, Kỷ rút điếu thuốc ra đốt, chờ mãi vẫn không thấy Linh trở về. Đêm đã xuống, Kỷ vào phòng ngủ. Sáng hôm sau, Kỷ hỏi người trong nhà nhưng không ai thấy Linh về. Kỷ đinh ninh chắc Linh đã trao thiệp mời cho những người bà con trên vùng Long Khánh rồi, và chắc Linh đang chơi với bạn bè đâu đó, nên yên tâm rời Hóc Môn xuống Sài Gòn gặp Búm để lo tiếp công chuyện còn lại.

Chiều về, Kỷ trở lại Hóc Môn cùng Búm. Nhưng vẫn không thấy Linh về. Kỷ hỏi, nhưng không ai nghe, biết gì về Linh cả. Kỷ đâm ra lo, và người anh của Kỷ cũng lo.

“Sao lạ. Thằng này ít khi nào đi đâu, ngủ ở đâu mà không báo cho nhà biết.” Anh Kỷ nói thế.

Kỷ bèn lấy điện thoại ra gọi những người bà con ngoài Long Khánh hỏi thì biết Linh trao thiệp mời cho họ trưa hôm qua, và sau đó thấy Linh trở về Sài Gòn liền. Nhưng sao lạ, từ trưa hôm qua đến giờ là hơn một ngày rồi, sao không nghe tin gì về Linh! Những nỗi lo âu bắt đầu hiện lên trên gương mặt của anh em Kỷ. Những nỗi lo âu càng làm cho Kỷ thêm bối rối. Rồi Kỷ gọi điện thoại nhiều nơi, nhiều người hỏi thăm. Trong những cú điện thoại hỏi thăm, có cú lại nói: “Hay là nó dừng xe uống nước trên đường bị người ta cướp xe, đập chết rồi!”

Những lời nói đó như kim đâm vào tim Kỷ!

Không lẽ, không lẽ số phận con người, có cả Kỷ, em Kỷ và Búm trong đó, lại hẩm hiu đến thế sao! Kỷ cố không tin là chuyện đó xảy ra, nhưng sao trong đầu óc Kỷ không xua đuổi nổi những ám ảnh đen tối. Kỷ nói lảm nhảm trong miệng: “Không thể vì một chiếc xe trành mà giết người được, vô nhân, vô nhân tâm vừa thôi. Không thể được!” Rồi từ hoang mang này đến hoang mang nọ, Kỷ nghĩ chỉ còn bốn ngày nữa là ngày họ hàng hai bên chung vui ngày cưới, trong những người ấy có cả những người bà con trên Long Khánh Kỷ nhờ Linh đi mời. Kỷ lại gọi điện thoại hết người này đến người khác để tìm hiểu những gì có thể xảy ra cho Linh.

Trước khi trời tối, Kỷ đưa Búm trở về nhà người chị. Trong bóng tối, Búm nhìn Kỷ mà lòng héo hon. Sắp tới ngày vui sao lại là những ngày buồn, không biết rồi đây sẽ ra sao! Búm chỉ biết chào Kỷ ra về như một bóng đen đè nặng trên hai gương mặt.

Suốt đêm Kỷ không ngủ, đốt hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác. Những lời nghi vấn từ những người từng sống nơi này đã làm tâm trí Kỷ quay cuồng! Kỷ lật trang báo ra đọc, những mẫu tin con người ngụy trang những quán nước bên đường để giết người cướp xe được đăng ngay trang đầu. Những cảnh người giết người trong hang cùng ngỏ hẻm, hay trên những ngọn đồi hẻo lánh, chỉ vì một sợi giây chuyền lóng lánh đeo trên cổ, càng làm Kỷ thêm rùng mình khi nghĩ đến nơi Linh giao thiệp lại là một eo núi cheo leo!

Sáng hôm sau Kỷ cùng Búm đến nhà hàng để thỏa thuận những món ăn và số bàn đặt lần chót. Như vậy là xong. Tất cả cho ngày cưới đã được sắp xếp đầy đủ, chỉ còn chờ vài ngày nữa là xong. Kỷ đưa Búm trở về nhà người chị, bảo Búm ở nhà nghỉ, Kỷ sẽ đi cùng đứa cháu để tìm Linh. Nhưng Búm không chịu và đòi đi tìm Linh với Kỷ. Vậy là Kỷ lấy bản đồ ra xem tất cả những lộ trình nào có thể dẫn đến Long Khánh từ nhà người anh Kỷ. Rồi từ đó Kỷ đèo Búm trên chiếc xe Honda chạy về xa lộ Biên Hòa, ghé qua những quán nước bên đường, và những khu giải khác nằm rãi rác bên rừng cao su. Đến đâu Kỷ cũng mang tấm hình của Linh ra hỏi, nhưng biệt tâm. Kỷ không tìm được câu trả lời nào về bóng dáng một chàng trai trẻ cở 25 tuổi, đi chiếc xe City đỏ, mặt quần bò màu xanh, áo thun, đầu đội nón vải và có gương mặt như trong tấm hình kia! Buổi chiều đó Kỷ và Búm đã đi hết những đoạn đường có thể trở về thành phố Sài Gòn từ khu Bầu Cá, Long Khánh. Nhưng không có ai nhận diện được hình dáng của Linh. Vậy là mệt mỏi, cả Búm và Kỷ đều rã rời trên những con đường đất gập ghềnh. Và cuối ngày đành trở lại bằng con số không.

Đến ngày hôm sau, Kỷ chỉ còn có hai ngày nữa để tìm đứa em trước ngày vui. Nhưng mãi đến giây phút này Kỷ vẫn không có một tin nhỏ nào về đứa em. Khi mặt trời lên Kỷ lại rời căn nhà người anh đi tìm Linh. Kỷ đến văn phòng nhà báo đăng tin tìm Linh và hứa sẽ hậu tạ cho những ai chỉ dẫn tin tức của Linh. Kỷ báo cáo sở công an Long Khánh, và những nơi trên đoạn đường Linh có thể đi qua, nhờ tìm dấu vết của Linh.

Đọc báo, Kỷ nghe tin một người thanh niên bị chết đuối trong mấy ngày qua, xác chết được đem về khám nghiệm ở nhà xác Hạnh Thông Tây. Thế là Kỷ lại lên xe chạy đến xem xác. Lòng hồi hộp và sợ hãi. Sợ nhở xác kia là Linh thì Kỷ phải làm sao đây, và trên đường đi Kỷ vái trời sao cho xác chết kia không là của Linh. Kỷ đến nhà xác Hạnh Thông Tây thấy vị y sĩ đang lật xác kẻ xấu số lên để khám nghiệm và Kỷ biết đó không là của em mình. Kỷ hú vía, vội mừng thầm ra về. Nhưng lần đầu tiên trong đời Kỷ đối diện một kinh nghiệm hãi hùng, khó quên!

Đã đi hết mọi nơi mà Kỷ có thể đi, nhưng vẫn bặt tin tức. Kỷ mệt mỏi đưa Búm trở về nhà người anh. Đêm hôm đó Kỷ đưa Búm trở về cổng số 11 để lo sửa soạn cho ngày mai rướt dâu. Trở lại Hoc Môn Kỷ thức khuya thật khuya. Niềm hạnh phúc, tình yêu, và điều bất hạnh của đứa em cứ dày vò tâm tư của Kỷ. Kỷ mãi suy nghĩ và tự hỏi: “Sao lại là giờ phút này? Sao lại là Linh? Và sao con người lại có thể làm những chuyện nhẫn tâm này? Giữa chữ tình và chữ nghĩa, Kỷ phải làm sao? Vì ngày mai, ngày mai chỉ còn có mấy giờ đồng hồ nữa sẽ đến.

Đêm đã khuya, Kỷ trở vào phòng ngủ, nhớ đến gương mặt bơ phờ và tiều tụy đến dễ thương của Búm, Kỷ tắt đèn mà lòng cay đắn. Màng đêm phủ trùm, vạn vật đang say trong giấc ngủ, nhưng đôi mắt của Kỷ vẫn mở to. Kỷ không biết mình phải vui, hay buồn!

Sáng hôm sau Kỷ thức dậy sớm, lo mâm ngũ quả và lễ vật về nhà gái rướt dâu. Chiếc xe hoa chạy qua thành phố, Kỷ cố nén cho niềm vui hiện lên. Và buổi lễ rướt dâu cũng hoàng thành. Trở về nhà người anh làm lễ và đợi chiều về sẽ lên nhà hàng. Lễ gia tiên đã chấm dứt, mọi người vui vẽ ăn uống, rồi ra về. Kỷ và Búm mệt rã rời, ngồi trên chiếc ghế thì có cú điện thoại gọi lại. Phía bên kia đầu giây là một người xa lạ, nói rằng họ có thông tin về Linh và có thấy mặt Linh nơi đó. Người lạ mặt muốn gặp người thân của Linh và có nhắc đến số tiền hậu tạ đăng trên báo. Kỷ nghe mừng quá. Những nỗi ưu phiền đã nhẹ đi, Kỷ kêu Búm và nói:

“Em ở nhà nghỉ cho khỏe, anh sẽ cùng đứa cháu đến chỗ hẹn để gặp người thấy Linh rồi anh trở về. Nếu anh có về trể chút thì em và gia đình đến nhà hàng trước đi rồi anh đến ngay, còn hơn năm tiếng đồng hồ lận, anh phải đi bây giờ nhe.”

Nói xong Kỷ và đứa cháu mang theo một số tiền, lên xe vụt chạy.

Rồi thời gian trôi qua, ba tiếng, bốn tiếng, rồi năm tiếng đồng hồ Búm vẫn chưa thấy Kỷ trở lại. Búm nghĩ, có lẽ đường kẹt xe. Rồi Búm theo đoàn người đến nhà hàng nơi tiếp tân và đãi tiệc cưới. Trời càng về xế chiều, những người khách càng lúc đến càng đông. Họ bắt tay nhà trai nhà gái chúc tụng cho đôi uyên ương “Bách niên giai ngẫu”, nhưng chú rễ vẫn vắng mặt. Thời gian càng trôi qua nhanh, Búm càng thêm bối rối. Đôi mắt và tâm trí Búm cứ nhìn ngoài đường, trông đợi, trông đợi đến mỏi mệt, nhưng vẫn không thấy Kỷ và đứa cháu trở lại. Giờ khai mạc buổi tiệc đã đến, Búm nhờ người anh lên nói đôi lời cùng quan khách. Rồi buổi tiệc cũng tàn, mọi người ra về, và Kỷ vẫn còn nơi đâu.

Búm rời nhà hàng, chân mỏi mệt, muốn đi về, nhưng biết về đâu. Nhà chồng hay nhà của mình! Dù sao Búm cũng đã làm lễ và đeo nhẫn cưới trên tay rồi. Tức là Búm đã có chồng. Búm nằm dài trên xe, mệt lã và thiếp đi trong giấc ngủ.

Sáng hôm sau tỉnh dậy, Búm thấy mình đang ở nhà người anh của Kỷ ở Hóc Môn. Búm bồn chồn nói với gia đình người anh đôi lời, rồi lấy xe chạy lên khu quán nước bên đường cạnh rừng cao su tìm Kỷ, nơi mà trước khi đi Kỷ có nói cho Búm biết. Đến nơi, những quán nước vẫn còn nằm trơ đó, nhưng không một bóng người.

Nhìn chung quanh, dường như nơi đây vừa xảy ra một cuộc xô xác. Búm lặng lẽ ra về. Đi ngang qua khách sạn Tiếng Ve, Búm dừng xe lại. Từ trong cành me, những âm thanh vang lên buồn bả của, Tiếng - Ve - Sầu.

Đồng Sa Băng. 3 tháng 3, 2009.

<< Lùi - Tiếp theo

HOMECHAT
1 | 1 | 97
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com