III Khi nắng nhạt, thì Đông Hà mát mẻ hơn. Vẫn gió Lào. Nhưng xen vào những đợt gió Lào đã có gió biển thổi ngược lên. Khu gia đình tập thể đang chuẩn bị bữa ăn chiều. Sau khi tắm giặt xong, mẹ con Thắm đều thay quần áo mới sạch sẽ. Xem cung cách ăn mặc toàn bằng hàng nước ngoài khá đắt tiền, người ta cũng biết đời sống của mẹ con Thắm là dễ chịu. Thắm cũng không giấu giếm ai niềm vui này. Chồng Thắm là thuyền phó một chiếc tầu viễn dương, dẫu không buôn bán bất chính chỉ vài lần đặt chân lên cảng nước ngoài, với cách sống căn cơ của người Việt ta, cũng đủ cải thiện đời sống cho vợ con. Hôm nay, Thắm cho con ăn bận đẹp đẽ, không phải để khoe của, mà hầu như vì một thứ tự ái vặt của đàn bà: tôi cũng làm đủ miếng ăn, sống tử tế, tôi đến thăm chứ không hề cầu cạnh... Đặc biệt Thắm chú ý diện cho thằng Quý: chiếc áo kẻ cộc tay có cầu vai, chiếc quần bò mang nhãn hiệu nước ngoài, đôi dép tông. Chị muốn nó xuất hiện trước mặt chị Nụ như một ấn tượng đẹp, không có điều gì phải xấu hổ. Hải, cô con gái chị Nụ đi Huế đã về. Đấy là một cô gái khá xinh, khỏe mạnh có vẻ cứng rắn và ương bướng. Vất nón ra là cô giúp mẹ thổi cơm chiều. Bây giờ, bữa cơm đã dọn xong, bữa cơm mang phong vị đặc biệt của biển Quảng Trị: tôm rim, cá thu kho khô rắc tiêu, mực tươi xào dứa, cá đé nấu chua nổi váng đỏ màu ớt bột. Chiếu trải giữa nhà, mọi người ngồi xếp bằng. Chị Nụ gắp thức ăn lên bát cho hai đứa bé vf cả cho Thắm, xăng xái chào mời. Chị hài lòng về bữa cơm ngon lành chu tất. Thắm nếm miếng cá hu, vội kêu lên: - Trời, chị kho cá thu tuyệt vời! Hồi trước... Thắm bỏ lưng câu nói, vội vã nhìn đi nơi khác. Chính là nhìn vào kỷ niệm của mình, của chung hai chị em. Những đêm, hai chị em quạt nướng cá thu để ngày mai mang lên chợ Đông Hà, mùi cá nướng thơm lừng... Những ngày chị Nụ nuôi mình dưới hầm bí mật, bao giờ cũng một âu cơm, một khúc cá thu kho khô rắc tiêu, một ống bầu nước... Chị ấy chu đáo quá! Vậy mà mình đã phụ lòng chị ấy, mình đã yêu anh Dương của chị ấy, một mối tình điên dại, không cưỡng lại được. Chao ôi, mày sống bản năng quá Thắm ạ! Thoạt đầu mày cảm phục anh Dương, vì anh là một chỉ huy dũng cảm, một cán bộ lãnh đạo sáng suốt, một người anh hào hiệp độ lượng. Mày cứ nghĩ một người đàn ông tuyệt vời như thế là của tự thân anh ấy không thể là của riêng ai, kể cả chị Nụ, người đàn bà ít học, mặt mũi thô, ngón chân cái to bè. Mày không có ý chiếm anh Dương của ai cả, mà mày cứ yêu, từ yêu thầm đến cháy bỏng. - Ăn đi dì! - Chị Nụ gắp lên bát cho Thắm thêm miếng cá thu nữa - Dì cứ khen. Kho cá thu chứ có phải gà tần chim quay gì đâu mà đòi hỏi kỹ thuật. Cá thu thì ai mà chẳng kho được. - ấy vậy mà em học mãi vẫn không sao kho được miếng cá thu thơm và ngon thế này. Anh Hùng nhà em vẫn cười em là dân Gio Hải mà không biết kho cá. Chị Nụ như chợt nhớ ra: - Thế mà chị quên chưa hỏi thăm dì, chú ấy quê ở đâu? Dì và chú xây dựng hồi nào? - Nhà em quê Hải Hưng chị ạ! Anh ấy trước kia là trinh sát đặc công hải quân vẫn hoạt động nhiều ở Cửa Việt ta đấy. Hồi đó, cánh trinh sát hải quân hy sinh nhiều quá. Anh Hùng nhà em có lẽ là một trong dăm ba người còn lại. Cũn là người quen biết anh Dương và hình như có gặp chị vài ba lần. Chị có nhớ cái đêm, bọn em phải bơi vòng ngoài biển, ướt như chuột lột... - A, chị nhớ rồi... có phải chú bộ đội nom cứ bẽn lẽn, bảo thay quần áo ướt, nhất định không chịu. - Vâng, đúng đấy! Thắm gật đầu xác nhận. Quả là anh Hùng hồi đó tính nết như con gái. Vẫn nhớ đời lần ấy, lần chạm trán với tụi biệt kích Mỹ ở thôn 8. Đoàn công tác gồm cán bộ Gio Hải và trinh sát hải quân, tất cả mười hai người, thì một hy sinh, hai bị thương. Phải thu xếp người đưa thương binh tử sĩ về căn cứ, đoàn còn lại sáu người do anh Dương chỉ huy. Anh vẫn kiên quyết tìm đường bơi vòng ngoài biển để đột nhập lên thôn 5. Đường bơi dài bốn cây số dưới làn đạn đại liên bắn hú họa của tụi Mỹ. Hùng là tay bơi khá. Anh Dương phân công cho Hùng bơi dìu Thắm mà Hùng ngượng, lắc đầu, chỉ nhận mang thêm vũ khí. Thắm cũng tự ái, bảo không cần ai dìu, mình bơi được. Nhưng vừa bơi được non nửa đường. Thắm đã hụt hơi. Rồi chính anh Dương bắt Thắm phải ôm lấy cổ anh để anh bơi dìu đi. Mệt lắm mà Thắm vẫn ngượng ngùng. Lần đầu tiên cô đụng vào da thịt một người đàn ông, người mà Thắm vô cùng yêu mến. Tuy thế, anh Dương vẫn ý tứ. Không một cử chỉ, một động tác nào chứng tỏ anh có ý lợi dụng... - Thế chú ấy bây giờ vẫn ở Hải Dương? - Chị Nụ hỏi, cắt đứt ý nghĩ của Thắm. - Dạ, sau chiến thắng 1975, anh ấy chuyển qua ngành hàng hải và đi học chỉ huy tàu. Chúng em gặp lại nhau năm 1977 rồi cưới nhau. Tình thật với chị, anh ấy hiểu hoàn cảnh của em, thương em nhiều, chứ anh ấy còn là trai tân. Hai người đàn bà vừa ăn vừa nói chuyện không chú ý đến mấy đứa trẻ. Chúng nó đang mải ăn. Riêng Hải vẫn để tai nghe chuyện. Cô gái bỗng nhận biết, thì ra dì Thắm có hai đời chồng. Cô đưa mắt nhìn kỹ hai đứa trẻ. Tuy vậy, Hải vẫn không hỏi leo vào chuyện người lớn. Cô quay sang trêu bé Hương: - Chị đố Hương nói câu này: Nồi niêu nấu lòng lợn. Con bé nuốt vội miếng cơm, thận trọng nói to: - Lồi liêu lấu... Hải và cả nhà đều cười lăn. Con bé cãi: - Thì em đã lói rồi. Lồi liêu lấu lòng nợn chứ sao nữa. Người ta càng cười to hơn. Thằng Quý có vẻ tức: - Ê! Đồ nói ngọng! Hải beo vào cái má phinh phính của bé Hương: - Dân Hải Phòng xinh gái như thế này mà nói ngọng thì mất cả duyên. Thằng Quý vội cãi: - Dân Hải Phòng không nói ngọng. Chỉ có dân Hải Hưng mới... - Thôi, ăn đi các con! - Thắm ngắt lời thằng Quý, sợ chuyện trẻ con vô ý lại thành chuyện cạnh khóe làm mếch lòng người lớn, mếch lòng chính bản thân chị - Dân ở đâu cũng thế cả, cũng không nói ngọng. Em nó còn bé, nói chưa sõi. Con lớn hơn con phải dạy em nói cho đúng. Chị Nụ góp chuyện bằng cách mắng yêu con gái: - Cũng tại cái con chị của nợ này nữa. Cứ bày chuyện ra trêu em. Ăn cơm xong, lại đến tiết mục dưa hấu, vải thiều. Hải vừa bóc vải vừa nghiêng đầu vào mẹ thì thầm điều gì. Chị Nụ ấy đầu con gái ra: - Mày chỉ khéo vẽ chuyện. Tối nay không đi đâu cả. Có dì và các em về chơi. ở nhà mẹ có việc. Chị Nụ phân bua với Thắm, cũng là để xem ý tứ Thắm thế nào. - Thế này dì ạ. Cháu Hải xin phép tối nay đi dự sinh nhật đứa bạn gái dưới phố. Chúng nó bây giờ vẽ chuyện nhiễu nhương lắm, vào tuổi nó, ngày xưa chúng mình đã là đảng viên, là du kích mật, chứ đâu có lông bông... Hải cười vang, rúc đầu vào cánh tay chị Nụ: - Mẹ lại hồi ký rồi. Những người già bao giờ cũng ngày xưa ngày xưa... Thắm bảo:
- Chị cứ để cho cháu đi với bạn. Tuổi trẻ bây giờ nó khác chứ chị! Thôi cảnh già mình ở lại nói chuyện với nhau càng dễ... Hải kêu lên: - Là cháu bảo mẹ cháu già, chứ dì thì còn xuân lắm. Đi ra đường còn ối anh chàng... - Chỉ được cái huyên thuyên! Chị Nụ mắng con gái và bỗng dưng nhăn mặt một cách khó chịu. Còn Thắm lại đỏ mặt, lời khen vô tình ấy hóa ra lời diễu cợt. Hải ăn bận khá diện: áo phông, quần nhung kẻ mầu đen, đi xăng đan cao gót. Cô cũng thoa tí phấn, bôi tí son cho khuôn mặt rạng rỡ thêm. Cô chào mẹ, chào dì Thắm cùng các em và bảo chị Nụ là sẽ ngủ lại nhà con bạn, nhường giường cho dì và các em, sáng mai về sớm. Khi Hải đi rồi, trong nhà chỉ còn hai người đàn bà ngồi đối diện với nhau trên chiếc chiếu. Hầu như ai cũng cảm thấy sẽ có những giây phút nghiêm trọng trong câu chuyện sắp tới: May sao còn cả hai đứa trẻ. Để câu chuyện của họ cứ rề rà từ giá cả thực phẩm ngoài Hải Phòng về trong Đông Hà này, đến những câu chuyện tiêu cực trong xã hội mà họ nghe được. Câu chuyện chuyển dần đến những người bạn cũ với số phận riêng của họ hiện nay. Chuyện về những người bạn cũ ở đất Gio Hải là do chị Nụ kể. Thằng Quý và con Hương không còn trò gì chơi cũng sấn lại bên mẹ, hếch mặt lên nghe.
Thắm ngồi thế, hai tay xoa đầu hai đứa con, mắt nhìn vào người kể chuyện, nhưng dường như chính những câu chuyện Thắm nghe tai họ ra tai cày ấy lại dẫn Thắm về những thôn làng đang bị Mỹ cày ủi. Những thôn làng không một bóng người, chỉ còn tre pheo xơ xác, những chân ruộng hoang đầy cỏ chỉ, những ao đầm chỉ mọc độc cây môn nước, ở một vạt ruộng hoang như thế Thắm đã đào một chiếc hầm bí mật. Chiếc hầm khá rộng, có thể chứa được ba người, thành hầm có lát tôn tấm cho đỡ ẩm. Thế mà những tấm tôn tai ác kia đã có lần làm Thắm thất kinh: thằng Mỹ đi càn, bắc đại liên ngay gần trốc hầm mà bắn. Ngồi trong hầm lát tôn tiếng nó nghe như rụng cả rái tai ra, chỉ mốn vỡ màng nhĩ. Đấy là cái lần... cái lần không thể nào quên, cái lần Thắm cảm thấy sợ, trong đầu chỉ nghĩ đến những chiếc thuốn sắt ấn xuống lớp đất mềm. Trong hầm chỉ có hai người, Thắm và anh Dương. Thắm đã xích lại gần anh, nép vào người anh, lần mò nắm lấy tay anh. Và bàn tay to lớn ấm áp của anh đã bóp chạt tay Thắm, làm Thắm yên tâm hơn. Chợt một tiếng nổ lớn, tiếng nổ của lựu đạn. Rồi tiếng súng nổ loạn xạ, tiếng chân chạy uỳnh uỵch và tiếng tụi Mỹ la hét, tiếng tụi ngụy: "Bắt lấy nó. Nó chạy kia kìa!". Thắm hốt hoảng, gục đầu vào vai anh, ôm ghì lấy anh, cắn môi lại xuýt khóc. Thắm biết là chiếc hầm ở đám vườn bên kia đã bị lộ, hai anh bộ đội đã tung hầm lên chiến đấu. Một anh bộ đội bị thương và bị bắt, còn anh kia dường như... đã chạy thoát. Dương vẫn ngồi yên, nhẹ hôn lên mái tóc Thắm, vỗ vỗ lên lưng cô như dỗ trẻ con: "Bình tĩnh, bình tĩnh"... Rồi bất thần, anh gỡ tay Thắm, khẽ ra lệnh "sẵn sàng chiến đấu". - Dì Thắm có còn nhớ con Xuyến nữa không? Câu hỏi của chị Nụ làm Thắm sực tỉnh, bé Hương bỗng nhom dậy: - A cô Xuyến! Cô Xuyến dạy mẫu giáo của cháu! Thằng Quý cốc vào đầu em: - Mày chỉ được cái nói leo! Cô Xuyến của mày còn lâu! Bác ấy nói người trong này cơ! Bé Hương xuýt khóc, nếu không có mẹ xoa đầu và khẽ mắng thằng anh. Thắm hỏi lại: - Có phải Xuyến Gio Mai không chị? - Không, con Xuyến thôn sáu, con ông Bút thọt chân ý mà! Con mà hồi... phải rồi, bữa đó hình như có dì... Bữa mà đoàn công tác bị bọn biệt kích Mỹ phục ngoài mí biển thôn sáu. Sáng mai nó đi cào lá phi lao thấy một anh bộ đội bị thương gãy chân. Nó đánh liều, bảo anh ngồi vào thúng, lấy lá phi lao túm lại và gánh thẳng sang nhà tu kín, yêu cầu bà xơ băng bó chạy chữa và che giấu. - A em nhớ ra rồi. Phải, bữa đó có em. Anh bộ đội ấy cũng là đặc công nước. Chị Nụ chép miệng: - Chậc! Bây giờ nó khổ lắm, cái con Xuyến ấy!... Chị Nụ tiếp tục kể, còn Thắm lại quay về với chiếc hầm kỷ niệm của mình. Không, không bao giờ anh Dương bố trí một chiếc hầm có hai người, một nam một nữ. Hôm đó, là tình thế bắt buộc. Đoàn công tác bị phục kích, lạc nhau lung tung. Gần sáng vẫn không liên lạc được với cơ sở, đành phải "lún" lại. Không thể nhét bốn người vào một hầm. Nhưng nói làm gì những tình thế trong chiến tranh. Chỉ biết rằng, từ đáy lòng, Thắm cũng rất thích được ngồi với anh trong một khoảng bóng tối. Chính hôm ấy, cái hôm đầy căng thẳng ấy, anh Dương và Thắm đều mở chốt an toàn khẩu AK, ngồi ỏ thế sẵn sàng nhảy lên đánh trả địch, chứ không chịu để cho thằng địch tóm mình như tóm một chú chuột sa bẫy. Thế rồi trên mặt đất yên ắng, mà đầu óc chưa được thảnh thơi. Biết đâu thằng địch yên lặng nằm phục ngay trên đầu? Biết đâu anh bộ đội bị bắt kia không giữ được khí tiết khai báo ra.... Cả một ngày chờ đợi giây phút sẵn sàng hy sinh. May sao, có anh Dương bên cạnh. Nếu số phận bắt buộc, được hy sinh bên cạnh anh, Thắm cũng thỏa lòng. Bỗng nhiên một chút yếu đuối len đến, Thắm nghĩ đến thân phận con gái của mình. Trong cuộc chiến tranh ác liệt này, chẳng biết vào lúc nào, chỉ một viên đạn bay vào tim là chết nhẹ nhàng. Ôi cái chết chóng vánh và cay nghiệt thế ư? Vậy thì còn đâu là ái cảm giác mềm mại dịu dàng của nhung tơ? Còn đâu là niềm thích thú khi gió biển vuốt ve lên cánh tay trần? Còn đâu mùi thơm nồng nàn của hoa quỳ về mùa thu và mầu xanh đến nhức mắt của bầu trời mùa hạ trôi dưới dòng sông Cửa Việt? Còn đâu và còn đâu?... Cứ thế phút yếu đuối xâm chiếm trong lòng, và Thắm đã để nước mắt trào ra trên má mình lúc nào không biết. Thế mà anh lại biết. Anh đưa tay lên sờ giọt nước mắt suýt rơi từ trên môi Thắm và hỏi vì sao em khóc? Không sao cả. Thắm nói dối khi anh vuốt ve bàn tay mình. Thắm bỗng dưng thấy mình thiệt nhỏ bé yếu đuối, mà anh là nơi chở che, mà anh là ngọn lửa cho mình sưởi ấm. Thắm nghe rõ tiếng thở khác thường của anh, biết anh cũng rất yêu Thắm mà anh tự kiềm chế. Ôi cái sống cái chết trong cuộc hiến tranh này cách nhau có một sợi tóc, tại sao lại phải tự kiềmm chế trong tình yêu? ý nghĩ điên loạn ấy lóe lên như một tia chớp. Cũng nhanh như một tia chớp và không biết bằng cách nào, Thắm đã nằm gọn trong vòng tay anh. Trong bóng tối căn hầm, đôi môi Thắm như bốc rượu... - Dì Thắm! Các cháu nó ngủ cả rồi đấy! Bế chúng nó lên giường... Thắm lại sực tỉnh, không nhớ rõ chị Nụ đã kể về nỗi khổi của chị Xuyến ra sao nữa. Giấu một nụ cười mỉm, Thắm cúi xuống bế cái Hương, chị Nụ cũng bế thằng Quý lên "ồ, thằng chó con của bác. Ngủ rõ say!. Hai đứa bé đã ngủ, màn đã buông xuống chỉ còn lại hai người đàn bà ngồi đối diện nhau trên chiếc chiếu trải giữa nhà. Một ngọn điện không lấy gì làm sáng lắm vẫn soi rõ tấm ảnh anh Dương đặt trên trạn thờ. Thắm liếc nhìn lên tấm ảnh rồi với dáng vẻ tự tin, bắt đầu thổ lộ những lời quan trọng. - Chị Nụ! Hôm nay em đến thăm chị, cũng là muốn nói với chị câu chuyện. - Hay là chị em mình ra ngoài sân nói chuyện cho mát. Bây giờ đã có gió biển. Chị Nụ đoán biết câu chuyện của Thắm, vẫn e ngại thay cho Thắm sẽ rất khó nói, sẽ ngượng ngùng. Ngoài sân tối trời. Trong bóng tối dễ nói chuyện hơn. Nhưng Thắm không nghe, nắm tay chị Nụ giữ lại: - Em muốn nói với chị về chuyện thằng bé, thằng cháu Quý. Nói thật với chị, nó là con anh Dương. Giọng nói của Thắm thật tự nhiên, không rút rè e ấp khiến chị Nụ phát sợ. Chính chị lại không dám nhìn thẳng vào Thắm, người mà cách đây mười mấy năm, chị định bụng cho cái tát. Chị hơi cúi đầu xuống nhìn vào nét hoa in trên chiếu. - Chị cũng biết. - Hồi xưa, anh Dương có nói với chị sao? - Không, anh ấy không nói. Mà chị cũng không nỡ hỏi. Chị đoán ra. - Em biết, hồi trước chị rất băn khoăn. Nhưng hồi đó em không nói được. Chị hiểu cho. Bây giờ em mới nói. Bây giờ... anh Dương hy sinh lâu rồi. Chắc chị không nỡ giận em. Trong giây lát, chị Nụ sực nhớ tới thói quen của cán bộ tổ chức thị ủy. Chị hỏi Thắm: - Thế bây giờ dì vẫn sinh hoạt Đảng đều đều...? Thắm cười: - Vẫn. Hiện nay em vẫn tham gia cấp ủy ở xí nghiệp đông lạnh Duyên Hải. - Hỏi thật dì, sao hồi làm bản tự kiểm điểm trước chi bộ Gio Hải, dì nhất định giấu chuyện anh Dương? - Em có lỗi với chị điều này: em quý, em yêu anh Dương, nên mới bảo vệ anh đến cùng. Thà em chịu tai tiếng, chịu kỷ luật. Còn anh ấy... nếu hồi đó mà dính tý kỷ luật trai gái có khi hỏng cả cuộc đời cũng nên. Hồi đó, tổ chức còn nặng thành kiến lắm... Xin chị đừng nghĩ rằng, anh ấy hèn, không dám nhận khuyết điểm trước tổ chức đâu. Sau khi lỡ làng, chính anh ấy bảo em trình bày thật với tổ chức, xin phá thai, và anh sẵn sàng nhận kỷ luật trước chi bộ. Nhưng với em thì không, trăm lần không. Em không phá thai, em muốn giữ một giọt máu của anh ấy, dù số phận sau này có bắt em ở vậy nuôi con cũng được. Mà anh cũng chẳng được gì mà đi tự thú. Cứ mặc em. Em đã có cách nói. Người đàn bà đã quyết không nói, thì sống để bụng chết mang đi. - Vậy dì đã nói dối? - Vâng, gọi là nói dối cũng được. Nhưng nói cho đúng hơn là không nói sự thật. Cũng như chị, chị có thai với chồng hẳn hoi mà vẫn phải nói dối thằng địch. Tra tấn mấy chị cũng không nói sự thật. Chị Nụ chợt mỉm cười: - Nhưng dì ơi! Chị nói dối là đối với thằng địch còn dì nói dối, vâng không nói sự thật là với tổ chức Đảng. Không chút ngần ngừ, Thắm đáp: - Điều đó thì em nhận là sai rồi. Nhưng chị ơi! Tổ chức của Đảng ở nơi này nơi kia, lúc này lúc khác cũng có cái sai chứ chị? Chính vì em thấy tổ chức ở nơi em, lúc bấy giờ có cái sai là nhìn cán bộ thiếu độ lượng, nên em không nói sự thật để tổ chức khỏi xử sự sai đối với một cán bộ có năng lực. Lý lẽ của Thắm làm cho chị Nụ bất ngờ. Thì ra con nhỏ này bao giờ cũng cứng cỏi ra trò, cũng biết lập luận đâu vào đấy. Chị Nụ lại hỏi thêm: - Thế còn chú Hùng! Chú ấy có biết chuyện này không? - Biết chứ ạ! Vợ chồng em yêu quý nhau lắm, tin nhau lắm. Chính chồng em khuyên em nói thật với chị để xin chị rộng lòng bỏ qua những giờ phút nông nổi cuả em ngày xưa, để xin chị nhận làm mẹ già cho cháu, cho phép cháu được lấy lại họ Trần. Cho em nói thật lòng thêm điều này: đối với chị và cháu Hải đã đành, còn đối với ông già nữa, em không thể không nói được. Mỗi lần về quê, đếnn thăm ông già, em không cầm được nước mắt. Một ông già sinh ra ba con trai đẹp đẽ, khỏe mạnh như thế... mà chiến tranh đã cướp đi mất, mà cuối cùng mang một nỗi đau là không còn người nối dõi... Đối với người già, nỗi đau đó là vô cùng to lớn. ông đã ngoài bảy mươi, chẳng còn sống được bao năm... Nói đến đây, Thắm xúc động ngồi lặng đi và nước mắt lặng lẽ chảy trên má. Và chị Nụ cũng thế, chị cắn môi lại, cầm lấy tay Thắm mà nói vội: - Chị hiểu. Chị hiểu. Dì đừng nói nữa. Rồi chị Nụ đứng dậy, đi lại gần bànn thờ, ngước nhìn lên tấm ảnh chồng, tay run run thắp mấy nén nhang, không hiểu chị có khấn khứa điều gì không, chỉ thấy chị đứng lặng im, hai tay chắp trước ngực, đầu hơi cúi xuống. Thắm ngồi một mình trên chiếc chiếu trải giữa nhà, đắm chìm trong nỗi xúc động mênh mông, buồn vui lẫn lộn. Không hiểu sao, trong giờ phút mang màu sắc thiêng liêng này, Thắm rất sợ chị Nụ bật lên tiếng khóc. Cô lặng lẽ đứng dậy đi ra ngoài sân. Trời đầy sao. Vẫn gió Lào thổi thông thống qua bóng tối. Nhưng vào tầm này, những đợt gió lào đã thưa hơn và dịu hơn. Xen giữa những đợt gió Lào đã có những ngọn gió mát thổi từ biển lên. Ngọn gió mang về cả mùi mặn và mùi tanh quen thuộc cua cá. Sáng hôm sau, ba mẹ con Thắm và hai mẹ con chị Nụ đều xăng xái rủ nhau về quê Gio Hải. Và khi trở lại Đông Hà thì có thêm ông già Thống cùng lên. Từ đấy, người ta thấy ông già ở lại thị xã luôn với mẹ con chị Nụ.