watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
18:51:2026/04/2025
Kho tàng truyện
Chỉ mục bài viết
Tiếng Đất
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Tất cả các trang
Trang 7 trong tổng số 20

Chương 4 Gió từ miền cát

I
Buổi trưa Đông Hà vào mùa gió Lào thật khủng khiếp. Những luồng gió nóng thoát khỏi eo núi Lao Bảo trên miền Tây, càng về xuôi càng mạnh thêm, nóng thêm và khi tràn qua thị xã Đông Hà trở nên như bầy ngựa bất kham. Cây cối, đườn sá, nhà cửa, cả gác chuông nhà thờ và tháp canh của giặc để lại đều mờ đi qua màn bụi đỏ. Trong tiến gió rít hàng dương, cánh cửa gỗ nhà cơ quan thị ủy hất tung những hòn đá chèn cửa to bằng mũ cối, ấp đánh sầm. ở những ngôi nhà lợp tôn không trần, chiếu rải giường khô rang, mớ rau muống để dành ăn bữa chiều héo rũ, đi chân trần trên nền lát xi măng vẫn thấy dưới gan bàn chân hâm hấp.
Vào một buổi trưa gió Lào thông thống như thế, ở khu gia đình tập thể của cơ quan thị xã, người ta thấy xuất hiện một thiếu phụ lạ mặt cùng đi với hai đứa trẻ, một chú bé quãng 11, 12 tuổi và một bé gái cỡ tuổi học mẫu giáo. Cả ba mẹ con, mặt mũi đều chín ửng lên vì cái nóng khắc nghiệt này và quần áo còn lấm bụi. Rõ ràng họ từ xa tới. Trong lúc hai đứa bé ngồi bệt xuống một gốc dương ngoài sân vắng vẻ, thiếu phụ đến gian nhà số 4 và rụt rè gõ cửa. Có tiếng dặng hắng và tiếng giũ chiếu, chắc chủ nhà giải chiếu xuống nền xi măng nghỉ trưa. Sau tiếng rút chốt, cánh cửa vừa mở hé liền bị bật toang ra kéo theo cả chị chủ nhà vẫn bận nguyên bộ đồ ngủ vằng vải hoa mầu tím: Xin lỗi, đến khiếp với gió". Chị chủ nhà nói, chưa kịp nhìn khách, nhanh nhẩu lấy chân gạt viên "táp lô" chèn cửa, hai tay quặt về phía sau bới tóc. Và chị nhận ra một khuôn mặt quen, rất quen với đôi mắt ướt ẩn dưới hàng lông mày cong, với chấm nốt ruồi trên gò má, với dáng đứng... ôi, lẽ nào mười mấy năm trôi qua mà dì ấy vẫn giữ được dáng đứng dễ thương đến dườn ấy? Chị chủ nhà ngừng tay trên mớ tóc, còn người thiếu phụ lạ mặt chợt trở nên lúng túng như người mắc lỗi, mắt nhìn vào bàn chân trần của chị chủ nhà với ngón chân cái thô, to bè:
- Chị Nụ! Chị còn nhớ ra em nữa không?
- Thắm1 Dì Thắm - Chị chủ nhà khẽ thốt lên, gần như nói thầm.
Trong không khí ngỡ ngàng, cả hai người đàn bà chợt nhớ về cái làng cát Gio Hải, nơi họ đã từng sống thân thiết với nhau một thời với niềm vui và nỗi buồn đều chia sẻ. Thoáng trong nỗi nhớ có tiếng sóng biển ì ầm xen với tiếng nổ của bom đạn khiến cả hai cảm thấy hồi hộp về cuộc gặp gỡ có vẻ bất thường này, một cuộc gặp gỡ sau mười mấy năm xa cách.
- Dì vô nhà đi! - Chị Nụ vội giục, như sực tỉnh.
Thắm đặt cái túi du lịch và chiếc làn vào góc nhà, liếc nhìn lên chiếc trạn thờ gứn vào vách tường. Đằng sau bát hương là tấm ảnh người đàn ông mang quân hàm thượng úy. Ngực đeo đầy huân chương với đôi mắt to, kiên nghị đang nhìn chị. Ôi anh Dương, chị ghìm tiếng kêu ấy lại và chợt nhớ ra, vội vàng gọi các con vào:
- Các con chào bác Nụ đi! Quý, Hương!
Cậu con trai tên là Quý vơ cái mũ lưỡi trai dài trong tay đứng nép bên cửa nhìn gian nhà với đồ đạc giản dị, chỉ độc một chiếc giường đôi và tự hỏi, nếu ở lại đây mình sẽ ngủ vào đâu. Cậu buông một lời chào lí nhí, không nhìn người đàn bà lạ hoắc mà mẹ gọi là bác Nụ ấy. Còn cô bé mặt tròn như quả táo lại nhanh nhẩu vòng tay lại chào rõ to: "Cháu chào bác Lụ".
Con bé nói ngọng, khiến chị Nụ bật cười. Chị xoa đầu nó và hỏi Thắm:
- Đi từ Hải Phòng về à? Đã về dưới quê chưa hay là mới...
- Dạ, em vừa tụt ô-tô xuống đây.
- Đông Hà vào dịp này, gió Lào nóng quá.
- Dạ nóng. Cũng như dưới Gio hải mình.
- Dưới Gio Hải mình còn có gió biển...
Trong những câu xã giao thông thường ấy chợt vang lên ba tiếng "Gio Hải mình". Cái tiếng thân thương ấy dường như có sức mạnh xua đi bóng mây ảm đạm đang lởn vởn trong không khí gặp gỡ này, khiến cả hai người đàn bà cảm thấy dễ chịu hơn. Chị Nụ rót nước lọc ra những cốc thủy tinh.
- Nhà chị không có tủ lạnh. Thắm và các cháu uống tạm.
Nghe chị Nụ xưng hô thân mật như cách đây mười mấy năm, Thắm vội cầm cốc nước uống một hơi, chỉ sợ mình ứa nước mắt. Chị Nụ đưa nước cho hai đứa bé. Chị gọi thằng Quý:
- Nào lại đây con trai! Con trai phải bạo dạn lên chứ sao lại bẽn lẽn như con gái.
Chị Nụ chăm chú nhìn thằng Quý uống nước, và ở tư thế nhìn nghiêng, thằng bé chợt gợi lên hình dáng một người khác, khiến chị Nụ suýt kêu lên. Chị quay ra hỏi Thắm
- Nghe nói chú ấy công tác trên tàu thủy. Sao dì không đi nhờ tàu thủy từ Hải Phòng về Cửa Việt. Đi đường bộ làm chi loanh quanh cho vất vả.
- Dạ, nhà em là thủy thủ trên tàu viễn dương...
- Từ ngày Gio Hải mình giải phóng đến chừ... ờ thế mà mười năm rồi đó, dì về thăm quê được mấy lần?
- Xa xôi quá chị ạ! Cũng về được ba bốn lần. Mà bên em có còn ai nữa đâu.
Chị Nụ thừa biết hoàn cảnh Thắm. Hai chị em cùng trong thôn cả mà. Cha Thắm là ông Thước bí thư chi bộ Gio Hải hồi trước. Do một tên phản bội chỉ điểm, ông bị lật hầm ở thôn 7. Mấy thằng nghĩa quân bắn chết ông đã đi cải tạo về, nay vẫn sống nhăn tận trong Bình Tuy. Người anh cả đi bộ đội chủ lực hy sinh trong đợt tấn công Mậu thân ở Huế. Người anh thứ hai là cán bộ huyện đoàn thanh niên Gio Linh hy sinh trên đường đi công tác, vì một chùm pháo hạm. Mẹ Thắm chết đuối trong vụ chiếc thuyền chợ bị tàu thủy Mỹ chà nghiến trên sông Cửa Việt. Cả nhà ngoài Thắm ra, còn cậu út đi lính ngụy làm hạ sĩ truyền tin là sống sót, nay đang làm trong ban chủ nhiệm hợp tác xã đánh cá Tân Lợi. Thực ra, chị Nụ hỏi để cho có chuyện, chứ Thắm về quê lần nào chị cũng biết. Chị vẫn về Gio Hải đều đều để thăm bố chồng là ông Thống. Tội nghiệp ông già đã ngoài bảy mươi, có bốn con cả trai lẫn gái đều là liệt sĩ, mà nhất định không chịu về thị xã Đông Hà ở với mẹ con chị Nụ.
Ông già không thể rời biển ra được, ngần ấy tuổi, vẫn ra khơi. Hôm nào biển động, ông già vắt áo lên vai đi chơi hết nhà này sang nhà khác trong thôn, trong xã. Ông già là cả một pho truyện. Ông khoe với chị Nụ: "Con Thắm thiệt quý hóa, lần mô về, hắn cũng tìm tới thăm tau và biếu quà".
Chị Nụ trách Thắm:
- Sao dì biết tôi ở đây, mà mấy lần về quê, dì không ghé chơi.
Thắm chỉ "dạ". Ngập ngừng một lát, cô định nói điều gì rồi lại thôi. Thắm đặt lên bàn một chùm vải thiều, hai hộp sữa nhãn hiệu nước ngoài làm quà. Chị Nụ giãy nảy lên, nhét hai hộp sữa vào túi du lịch của Thắm. Hai người gần như giằng nhau, cuối cùng Thắm đành nhân nhượng. Tính nết chị Nụ vẫn như xưa, đã quyết điều gì khó mà thay đổi.
- Dì cứ bày vẽ... Dì còn phải về dưới quê. Chị chỉ nhận chùm vải thiều để các cháu cùng ăn cho vui. Con bé Hải nhà chị là chúa mê ăn trái cây.
Nhắc đến Hải, Thắm mới sực nhớ:
- Chết chửa, cháu Hải đi đâu hở chỉ? Chắc cháu lớn lắm rồi.
- Cháu đang đi Huế, chiều tối mới về. Mười tám tuổi đầu chứ còn ít ỏi gì nữa. To cao hơn mẹ rồi mà còn ngờ nghệch lắm. Tốt nghiệp lớp mười hai vừa thi đại học sư phạm không biết có cơm cháo chi không? Hình nó đây. Dì coi
Thắm đón tấm ảnh chị Nụ gỡ trên tường xuống. Hai đứa bé cùng xúm lại xem với mẹ. Thằng Quý không nói gì, nhưng con bé Hương lém lỉnh nhận xét:
- Chị này xinh ghê! Cơ mà con mắt to ơi là to.
- Mắt to mới đẹp chứ con. Chị ấy giống bố. Con so xem.
Thắm chỉ lên tấm ảnh anh Dương đặt trên bàn thờ. Đôi mắt to kiên nghị của anh đang chăm chú nhìn Thắm, cái nhìn cháy bỏng năm nào khi anh đang chăm chú nhìn Thắm, cái nhìn chá bỏng năm nào khi anh đang ngồi với Thắm trên bãi cát Cửa Tùng "Anh ơi, bây giờ, em mới nói, anh hiểu cho lòng em..." Trong lúc Thắm vờ nói chuyện với con bé để ngắm ảnh Dương, thì chị Nụ lại chăm chú nhìn thằng Quý. Thoáng chợt, ánh mắt hai người đàn bà gặp nhau, họ đều bối rối vội nhìn lảng sang chỗ khác và đều nén một tiếng thơ dài.
II
Chị Nụ nhất định giữ mẹ con Thắm ở lại chơi, lâu ngày chị em còn tâm sự với nhau, ngày mai hẵng về. Từ Đông Hà về Gio Hải chỉ một tiếng đồng hồ thuyền máy chứ mấy. Thắm không từ chối vì đã có ý định như thế. Tất nhiên, Thắm sẽ xử sự khác nếu chị Nụ lạnh nhạt, hoặc hơn thế nữa, có những lời lẽ vội vã xúc phạm tới chị. Trong lúc Thắm dẫn các con đi tắm giặt, chị Nụ vội vàng tạt lên cơ quan thị ủy xin nghỉ phép buổi chiều.
Anh Tân trưởng ban tổ chức thị ủy, một cán bộ quân đội chuyển ngành, có nét mặt dịu dàng và cởi mở, hỏi chị:
- Khách ở mô đó, o Nụ?
Chị Nụ cười:
- à khách đàn bà chứ không phải đàn ông. Tình địch cũ của em đó anh Tân!

Anh Tân vẫn thật thà:
- Trời, tình địch mà cũng tiếp ư o Nụ? Tình địch thì cho mấy gậy.
Chị Nụ cảm thấy câu bông đùa nửa nạc nửa mỡ của mình có vẻ quá lời:
- Em nói đùa đó. Bạn em công tác ngoài Hải Phòng về chơi. Nó cũng là dân Gio Hải.
Chị Nụ nói được câu đó trong lòng trở nên thanh thản nhẹ nhõm hơn. Thế mà khi trở về ngồi thừ ra trong gian nhà trống vắng, bắt gặp đôi mắt to kiên nghị của chồng trong tấm ảnh đang nhìn mình, chị lại thấy bối rối thật vô lý. Tại sao mình lại phải bối rối nhỉ?
Đã mười năm nay, chị và Thắm xa nhau. Dường như Thắmm cố tình xa lánh chị. Còn chị, vừa muốn tìm gặp Thắm vừa e ngại. Khi anh Dương còn sống đã đành, cả khi anh đã hy sinh, chị Nụ vẫn cảm thấy chống chếnh thế nào trong cuộc giáp mặt. Có những điều quá tế nhị mà người muốn hỏi không tiện hỏi, người muốn giãi bày không tiện giãi bày. Thế mà hôm nay Thắm chủ động tìm chị. Phải chăng sự bối rối của chị là sự bối rối của kẻ bị tấn công bất ngờ? Ôi cái con bé Thắm này, con bé Thắm đến là thùy mị, duyên dáng của mười mấy năm về trước đã làm chị ngạc nhiên về bản lĩnh của nó: vừa ngoan ngoãn chịu sự dìu dắt chỉ bảo của chị, lại vừa bất ngờ tấn công chị như một người chỉ huy kiêu hãnh khiến chị bối rối, lúng túng. Có khi phải phục tùng nó, có lúc chị lại nổi xung lên.
Thực ra thuở bé Nụ và Thắm không chơi với nhau. Với trẻ con hơn nhau tám tuổi là một khoảng cáh xa. Khi Nụ đã cùng đám con gái chèo mủng như những con điên, để trong chốt lát bay vèo lên chiếc thuyền đánh cá về chưa kịp tắt máy thì Thắm còn coi chuyện đánh truồng đi bắt còn là huyện bình thường. Đến lúc Nụ đã cùng anh Dương, chồng chị đào hầm bí mật nuôi ông Thước bí thư chi bộ, thì Thắm đang học trên thị xã Quảng Trị, Thắm đến với Nụ, bắt thân với Nụ là sau cái chết của người cha. Hôm cúng mở cửa mả cho cha vừa xong, Thắm đội nguyên cả khăn tang đến nhà Nụ. Hôm ấy, biển động. Dưới bầu trời mầu chì, mây sà xuống tận chân sóng. Anh Dương ngồi vá lưới. Chị Nụ vừa thổi cơm vừa gãi lưng cho con bé Hải lên hai tuổi. Thắm nói:
- Chị Nụ ơi, chị cho em làm Việt cộng với!
Trước câu nói như một lời tuyên bố, chị Nụ cười tái mặt đi, đưa mắt nhìn chồng. Anh Dương ngừng tay vá lưới hỏi Thắm:
- Em đang học lớp mấy?
- Thưa lớp mười một.
- Em định bỏ học?
- Dạ, bỏ - ngừng một lát, Thắm ngẩng khuôn mặt xinh đẹp đượm buồn lên, nhìn Dương như tìm sự thông cảm:
- Hồi trước, anh sắp thi tú tài mà cũng thế, chứ bộ...
- à vì anh phải trốn quân dịch. Nhưng thôi được, Thắm quyết định như vậy là tốt. Coi như từ nay chị Nụ sẽ giao công việc cho em.
Chị Nụ, sau phút bàng hoàng vì bị tấn công đột ngột, chị thấy cảm phục: "Con chào dì Thắm đi". Chị bắt bé Hải khoanh tay lại chào Thắm để thay mình thốt lên lời nguyện ước coi như kết nghĩa chị em. Từ đây, Thắm nhanh chóng trở thành cô gái buôn cá từ Cửa Biệt lên Đông Hà. Cũng đua nhau chèo mủng ngoay ngoays, cũng loáng cái... bay lẹ lên thuyền cá, cũng biết đếm cá nướng theo giọng điệu dân miền biển: "Một đôi, hai đắn, ba thìn, chín căn chẵn chục". Để kiếm sống đã đành. Thắm còn kiếm cớ gần gũi chị Nụ. Để cùng chị vận động quần chúng đấu tranh với địch, cùng chị đi rải truyền đơn treo cờ, cùng chị xách súng đi bám địch canh gác ban đêm cho cán bộ thoát ly về gặp dân... Một thời gian sau, Thắm được kết nạp vào Đảng. Hai người giới thiệu cho Thắm là chị Nụ, anh Dương. Người đảng viên trẻ, với tấm lòng háo hức sẵn sàng hy sinh cho Đảng, đã xin anh Dương bí thư chi bộ hợp pháo được thoát ly chiến đấu cùng đội võ trang xã bấy giờ đặt căn cứ ngoài Cửa Tùng. Nhưng anh Dương đã yêu cầu Thắm làm một việc khác. Một tuần lễ sau, cái quán bán "La de" của Thắm được dựng lên ngay bến cá. Bấy giờ bọn Mỹ đã mở cảng Cửa Việt. Cần phải nắm quy luật hoạt động của tụi Mỹ ở cảng để cung cấp cho AD - mật hiệu của một đơn vị đặc công hải quân ta. Hơn nữa, quán "La de" vẫn là nơi gặp gỡ nhau tốt nhất của các đảng viên hoạt động hợp pháp. Sáng nào, chiều nào chị Nụ chẳng ghé qua, quang gánh rổ rá của chị vẫn thường xuyên gửi đấy. Anh Dương trước khi đi biển, hoặc đi biển về, đều ghé vào quán làm một chai "33". Lúc nào anh cầm chai đứng tu luôn nơi quầy, nghĩa là tình hình bình thường. Khi anh xin một ly đá, ngồi uống lai rai một tí, tức là anh cần Thắm có việc. Ngược lại, lúc Thắm bảo "anh Dương còn nợ tiền em hôm trước" là Dương hiểu Thẳm cần báo cáo điều gì. Sau này, khi nghe đồn đại về mối quan hệ lòng thòng giữa chồng chị và Thắm, chị Nụ đâm oán lối mật hiệu này. Phải chăng chính nó đã tạo điều kiện cho người ta "tư tình với nhau". Thực ra thì không phải thế. Dạo đó, Thắm còn rất trong trắng. Hồi học lớp 11 cũng có một anh chàng học sinh lớp 12 gửi cho Thắm vài bài thơ tình, nhưng Thắm chưa nhận lời đi coi xi nê với anh chàng lần nào cả. Thắm bỏ học, anh chàng có mò về Gio Hải nhưng chắc không ưa nổi bàn tay em đầy vẩy cá cùng với những lời diễu cợt của em, nên chuồn thẳng.
Có một thiếu úy hải thuyền, một anh con trai xứ Quảng mê Thắm thật sự. Ngày nào y cũng mò lên bờ vào ngồi quán la de của Thắm hàng tiếng đồng hồ. Tội nghiệp, y lại là thằng nhát gái muốn tỏ tình mà cứ nói quanh quẩn chuyện đâu đâu. Chỉ ngồi lâu và ngắm trộm Thắm. Và khi giả tiền bao giờ cũng tỏ ra hào phóng đưa tiền lớn và không nhận tiền thối lại.
Vào thời kỳ này, cảng Cửa Việt bị tấn công liên tục. Xã Gio Hải có chín thôn, thì cơ sở thôn nào cũng phát triển, có thôn tổ chức họp nhân dân đàng hoàng. đội du kích xã thay nhau về "lún" ngay trong dân. Ban đêm, bọn ngụy co lại, bọn xã trưởng, thôn trưởng trốn như thằn lằn mồng năm. Để cảng Cửa Việt khỏi bị thắt chặt, bọn Mỹ đã chốt thêm hai đồn trên đất Gio Hải, một ở thôn tám, đồn kia ở thôn ba. Chốt chặt như thế, nhưng dường như không thể nào giữ cho cảng Cửa Việt khỏi bị đặc công nước của ta lui tới đánh phá.
Một buổi chiều, tay thiếu úy hải thuyền ngồi rất lâu uống đến chai la de thứ ba và với khuôn mặt tai tái của người say, vẫy Thắm lại, kéo ghế bảo Thắm ngồi đối diện:
- Tôi rất mến em, dù tôi biết em là con nhà Việt Cộng nòi. Muốn cứu em, nên tôi báo cho em biết là người ta đang tình nghi em... có liên quan tới những vụ bên kia - y chỉ tay về phía cảng Cửa Việt - Em nên tránh đi, nếu em vào Đà Nẵng hoặc vào Huế, tôi cho em địa chỉ gia đình...
Với nét mặt điềm tĩnh, Thắm chỉ "cám ơn thiếu úy nhiều" Thắm chẳng có tội tình gì mà phải trốn tránh. Nếu đất Cửa Việt không sinh sống nổi mà phải vô Huế hoặc Đà Nẵng kiếm ăn thì Thắm cũng có họ hàng khỏi phiền thiếu úy... Tuy nói vậy nhưng Thắm vội tìm đến chị Nụ, anh Dương để báo cáo tình hình. Cùng lúc ấy, Đảng ủy xã Gio Hải cũng nhận được chỉ thị mới của huyện Gio Linh yêu cầu Dương và Thắm phải lập tức chuyển sang hoạt động bí mật. Có nhiều triệu chứng bị lộ, do một cơ sở của ta bị bắt không chịu nổi tra tấn đã phun ra. Chuyển sang hoạt động bí mật thì thật giản đơn. Ngay đêm ấy, Dương gói ít quần áo cho vào túi, mở miếng ván ở hốc cột nhà lấy khẩu súng lục dắt vào lưng quần, thơm cái Hải và dặn dò chị Nụ vài câu, rồi theo đội du kích luồn qua Cửa Tùng. Còn Thắm lại sang với chị Nụ, nói cho đúng hơn là sang nằm cái hầm mà ngày xưa cha Thắm đã sống hàng năm dưới đó.
Một màn kịch được dựng lên. Sáng hôm sau, ở nơi bến cá, trong lúc bà Thước mẹ Thắm hớt hải hỏi hết người này sang người khác có biết con Thắm ở đâu không, phần cơm tối hôm qua úp trong bát đã đóng sành mà vẫn không thấy về nhà, thì chị Nụ làm như bộ chợt hiểu ra sự tình đầu đuôi. Chị kêu lên với mẹ Thắm bằng cái giọng chua chát rằng thím không biết dạy con để nó quyến rũ chồng chị. Nhất định thằng chồng phụ tình của chị đã bám theo "con đĩ" trốn đi Đà Nẵng, Sài gòn rồi. Hèn chi mà "anh ả" cứ xoắn lấy nhau ngoài quán la de. Kêu là kêu vậy để giữ thế, chứ bà con ai cũng đoán biết sự thật. Thế mà màn kịch có tác dụng: bọn ngụy quyền cay cú trước sự mất tích rất lẹ của hai tên tình nghi, bèn gọi chị Nụ và bà Thước lên xã dọa nạt vặn hỏi. Cả hai đều tỏ ra là diễn viên xuất sắc cả. Chẳng những đối đáp khớp như kịch bản, mà họ còn làm mặt nặng mặt nhẹ với nhau, nói kháy nhau trước mặt tụi ngụy quyền, khiến tụi này dẫu còn nửa tin nửa ngờ cũng chẳng thể hoạnh họe họ được nữa. Khi đêm xuống, mở cửa hầm cho Thắm lên, chị Nụ bèn kể chuyện màn kịch cho "con đĩ" nghe, hai chị em cứ cười rúc rích hoài. Trời đất, "con đĩ" này sướng ghê, được chị Nụ thổi cơm cho ăn với cá thu này! Được chị Nụ gánh nước cho tắm này.
- Bây giờ em đã mang tiếng với thiên hạ rồi là tại chị đó chị Nụ nghe!
Thắm nói lúc chị Nụ dội nước cho cô gội đầu. Trong mùi lá sả tỏa ra thơm nức, chị Nụ hỏi:
- Sao út lại cứ buộc tội cho chị!
Thắm vẫn cứ vùi đầu xuống chiếc chậu nhựa, hai tay vò vò mớ tóc đen nhánh, để lộ một mảng cổ và hai bờ vai đầy đặn, nõn nà:
- Thôi thôi, chị dừng tay đi, làm em chết sặc mất. ấy, em có buộc có thắt gì đâu. Là em nói vậy, kẻo ngộ nhỡ ra em làm thiệt thì chị đừng trách.
Chị Nụ cười:
- Tưởng chuyện chi chứ cái ông Dương thì ai rước hộ, tao càng rảnh. Tao cho út tha hồ...
Một câu nói đùa khiến chị Nụ thoáng hối hận. Cái mảng cổ và hai bờ vai đầy đặn nõn nà thế kia, mà nó còn trẻ, mới mười chín tuổi. Còn chị một lần sanh, hai lần sẩy, mới hăm bảy mà vai đã nhô ra, nhiều lúc tuềnh toàng đến nỗi không mang yếm nữa để cái Hải sờ tí cho thoải mái. Dưới ánh đèn dầu hỏa, cái mảng cổ và hai bờ vai cứ hiện lên như màu ngà voi, đến chị cũng phải mê huống chi cánh đàn ông. Lúc nào mèo chê cá thì cánh đàn ông mới không thích gái đẹp... Mà cái ông Dương nhà này đâu phải vừa, ừ ở nhà thì đứng đắn đấy, còn đi ra thì ai đi theo mà nắm tay nắm chân được? Chị Nụ thoáng hối hận, một thoáng thôi nhưng nó cứ ám ảnh mãi về sau này, nhất là khi Thắm ra hắn ngoài căn cứ Cửa Tùng, để chỉnh huấn chính trị và học quân sự.
Thoáng hối hận trở thành thoáng hoài nghi. Mỗi lần ở Cửa Tùng về vào ban đêm, Dương thường đi với Thắm. Và khi ra đi lại vẫn hai cái bóng đen ấy lẩn vào đêm tối. Có đêm, Dương ở lại nhà, anh nắn nắn cổ tay vợ và xuýt xoa:
- Dạo ni em gầy quá!
- Nếu thích thì anh cứ chọn một cô cho mập hơn!
- Chỉ nói vậy!
Rồi anh Dương về thưa hơn, mặc dù anh là xã đội trưởng. Thời kỳ này bọn Mỹ cày ủi hầu hết các thôn phía bắc, dồn dân lại quanh bờ sông Cửa Việt. Day kẽm gai rào quanh một cùng độc cát trắng, người dân Gio Hải chui vào chui ra dưới những túp lều lợp tôn nóng bỏng. Nhưngn ở đâu ó dân là có Đảng, có cơ sở cách mạng ở đấy. Chị Nụ, từ ngày thay anh Dương làm bí thư chi bộ hợp pháp thành một "câu đấu tranh", chỗ dựa tinh thần vững chắc cho bà con cô bác. Bọn ngụy phải kiềng mặt chị gọi chị là "con mụ già mồm". Chúng dọa sẽ có phen gang mõm nó ra coi thử nó có luận điệu cộng sản nữa không. Bọn địch đã đánh hơi được anh Dương vẫn đi đi về về chỉ đạo hoạt động cách mạng mà không làm gì được. Dọa chị Nụ thì chị cười: "Các ông có tài có giỏi thì bắt hộ thằng chồng phụ tình của tôi về, tôi cho nó một trận...". Thế rồi chị Nụ có bầu. Nhất định chị không chịu phá thai. Chị phải sanh cho anh Dương một thằng con trai, anh ấy vẫn mong thế. Mặc dầu chị khéo che đậy, nhưng khi cái thai đến tháng thứ sáu, thì bọn ngụy mừng rơn. Chúng xích tay chị đưa lên quận và cứ theo thường lệ là phải tẩn cho đặng khai hầm thằng Dương ra thì thôi. Thằng chồng không thậm thụt đi về thì làm sao mà mang bầu? Chị Nụ chỉ còn oằn lưng lại chịu những làn roi đuôi cá sấu đến rách áo rách thịt ra, chứ nhất định một mực là đã từ chồng lâu rồi, mang bầu chẳng qua là trót dại với người khác. Đương nhiên bọn ngụy chẳng dễ dàng buông tha, phải truy đến cùng. Với người khác là thằng nào? Theo kế hoạch đã chuẩn bị sẵn khi ở nhà, chị khai cho ông Trí, một đảng viên hợp pháp ngòi bốn mươi tuổi. Khốn nỗi, ông Trí vầp phải bà vợ hay ghen, nghe nói thế, nổi máu tam bành lên, hành hạ ông Trí đến khổ sở. Ông đã rỉ tai với bà vợ là đâu phải thế, chẳng qua vì bảo vệ cách mạng mà nhận lấy cái nỗi tủi nhục về mình. Bà vợ vẫn khăng khăng không chịu nghe, đòi ông phải lên quận phản cung lại, bằng không thì bà sẽ treo cổ lên xà nhà cho ông tha hồ mà hú hí với con đĩ. Thế là ông Trí hốt hoảng, ông sợ bà vợ làm thiệt, nên khi quận gọi lên đối chất với chị Nụ thì ông xoay ra chối bai bải: "Nó ngủ với ai tôi đâu biết, chừ thì nó lỡ làng ra, nó khai bậy khai bạ...". Ông Trí bị chị Nụ chửi cho một mẻ, nào là thằng hèn, nào là đồ đểu... Chửi, thì ông chịu cúi mặt xuống, còn nhận mình là nguyên nhân chính của cái bụng chửa, thì nhất định ông lắc đầu. Cuối cùng, cả chị Nụ lẫn ông Trí đều bị coi là phần tử tình nghi, bị tra tấn hết sức dã man và bị tống vào nhà lao Thừa Phủ trong Huế. Đối với chị Nụ thằng giặc tra tấn chết đi sống lại mấy lần cũng không sao bằng sểnh mất đứa con. Chúng đánh chị trụy thai, băng huyết phải nằm nhà thương mất ba tuần lễ. Và chị biết rằng mình không còn khả năng sinh nở. Chị khóc tấm tức về nỗi niềm này. Đầu năm 1972 chúng phải thả chị về. Lại đi chân trần trên làng cát, lại được ôm chầm lấy bé Hải mà hôn đôi má khét nắng. Một năm nằm nhà lao mà trong nhà thêm ba cái tang: hai chú em trai anh Dương hy sinh trong cùng tháng bảy. Mẹ chồng chị buồn phiền quá lâm bệnh qua đời sau lúc cúng trăm ngày cho các con. Trên giường thờ thêm ba cái bài vị. Trong bếp bắc cái niêu nhỏ vừa để thổi một lon gạo cho hai ông cháu. Nhà cửa bốn bề gió biển thông thống. Còn lại cho chị một niềm vui lớn lao là phong trào cách mạng ở Gio Hải dù bị nhiều tổn thất vẫn ddứng rất vững, là anh Dương của chị vẫn mạnh khỏe và được cấp trên điều vào bộ đội tỉnh. Nhưng rồi có tiếng thì thào rằng dường như anh Dương có dính líu gì tới vụ cái Thắm bị kỷ luật. Chị không biết ư? Cái Thắm xưa nay ngoan nết thế, ai dè "khôn ba năm dại một giờ". Cán bộ và du kích Gio Hải có người nói gần nói xa là anh Dương và cái Thắm quả thật có thân nhau. Nhưng cái Thắm cứ một mực bảo nó yêu một anh trinh sát hải quân, mà xin đừng hỏi tên anh, vì anh đã hy sinh rồi. Bây giờ cái Thắm sắp đến ngày ở cữ, và cấp trên đã điều nó ra công tác tại ban B. Quảng Bình.
Chị Nụ lặng người đi trước lời xì xầm này. Chị mơ hồ lo ngại những điều mình dự đoán đã xảy ra. Không ai hiểu anh Dương bằng chị. Trong chiến đấu và công tác, anh là người dũng cảm, kiên nghị, nhưng về mặt tình cảm anh rất dễ xúc động, thậm chí lại còn mau nước mắt. Trong tình yêu anh yêu say đắm và dữ dội. Chị nhớ lại hồi mới yêu nhau, hầu như đêm nào anh chị cũng hẹn nhau ra bãi biển. Chị nhất định muốn ngồi trên những cánh mang còn anh lại muốn kéo chị vào rừng dương. Chị tìm cách từ chối. Rừng dương vắng vẻ, yên tĩnh quá. Mà anh thì thường làm chị suýt ngạt thở trong vòng tay quá xiết chặt. Chị đã linh cảm thấy một điều gì đó sẽ xảy ra. Vậy mà cuối cùng bé Hải cũng ra đời hơi sớm, bảy tháng sau ngày cưới nhau.
Lời xì xầm này đối với chị là một nỗi đau, khiến chị muốn ttìm gặp anh Dương ngay lập tức. Chị lên xã xin giấy vô Huế chữa bệnh. Nhưng chị không bận chiếc áo dài màu nõn chuối và đi xuồng máy vào thị xã Quảng Trị, mà đánh chiếc áo đen cộc tay, theo đám du kích Gio Hải vượt qua nhiều bãi pháo tọa độ dọc trảng cát, đi ra Cửa Tùng. ở căn cứ của xã, các đồng chí của chị cho biết anh Dương không còn ở hậu cứ nữa đâu, anh đã vào tận trong Cùa, trong Trấm Lậng! Lạ thay, ai cũng khoe anh Dương với chị. Nào là đánh thằng Mỹ mấy quắn, hay hết chỗ nói, nào là thêm bốn huy hiệu dũng sĩ, hai huân chương chiến công nữa, nào đáng ra là phải trúng anh hùng lực lượng vũ trang. Ai cũng coi như việc anh Dương được điều vào bộ đội tỉnh là vì không có đất dụng võ. Năng lực chỉ huy của anh như thế mà phải nắm một dúm du kích quả không bõ bèn. Đấy, vào tỉnh đội người ta phong anh là trung úy chỉ huy một đại đội hẳn hoi. Không ai nói là dính vào vụ kỷ luật cái Thắm mà phải đẩy đi, mặc dù chị Nụ cũng tìm cách dò dẫm. Hỏi thẳng chuyện ra thì ai cũng chỉ tặc lưỡi: "Chậc, chuyện vặt. Mà cái Thắm đã khai với tổ chức rồi còn gì!" Những ngày ở căn cứ xã, sống trong những địa đạo Cửa Tùng, chị Nụ vừa vui vừa buồn. Vui vì mọi người đều nói những lời tốt đẹp về chồng mình, mà buồn lại cũng vì vậy. Thà người ta gọi anh là thằng đểu thì chị đã yên tâm, chị đã thỏa mãn được mối hoài nghi của mình. Đằn này người ta lại coi anh Dương như một người anh hùng, là niềm tự hào của dân Gio Hải. Với lại, người ta cũng không dè bỉu Thắm, người ta coi chuyện lỡ làng của Thắm là chuyện vặ, không đáng để tâm. Chị Nụ vẫn hoài nghi; thế này thì quá lắm "Chúng nó" che giấu tội lỗi giỏi thật! Và chị quyết định đi Quảng Bình tìm gặp Thắm, chị phải cho "con đĩ" mấy cái tát mới được. Thời kỳ đó, Vĩnh Linh là mảnh đất bắn phá tự do. B.52 rải thảm, pháo hạm ngoài biển câu vào, pháo mặt đất từ Cồn Tiên, Dốc Miếu bắn ra, không gian không lúc nào yên tĩnh. Sống trong lòng địch quen rồi, chị Nụ chưa hề phải giáp mặt với bom pháo. Mặc, chị vẫn quyết tâm đi. Có lúc phải nằm bẹp dí hàng mấy tiếng đồng hồ dưới những tiếng rít ghê rợn của đạn pháo 175 ly, chị Nụ nghe rõ tiếng tim mình đập thình thịch và chợt tự hỏi: mình đi gặp cái Thắm để làm gì? Để cho nó cái tát ư? Không thể được! Nghe ra đã xấu hổ rồi. à, có sao đâu. Mình đi thăm nó. Chỗ chị em thân thiết với nhau cơ mà. Chị tự hỏi, tự trả lời, tự thanh minh và tự tìm ra lý lẽ để chuyến đi không bị trơ trẽn.
Thế rồi chị tìm ra ban B Quảng Bình, một cơ sở an dưỡng cho cán bộ Trị Thiên, bấy giờ đóng ở ngoài Hoàn Lão. Thắm đã sinh con trai, vừa chẵn tháng. Chị Nụ ở vào tình thế thật khó xử. Nói là đến thăm chị em thì nhất thiết phải bày tỏ được sự niềm nở, hân hoan. Mà niềm nở hân hoan với người chị đang muốn cho cái tát thì chị không nặn ra được khuôn mặt giả dối ấy. Thành thử chị gặp Thắm trong không khí sượng sùng. Còn Thắm cũng vậy, thoạt đầu cô tỏ ra bối rối, kém tự nhiên. Sự có mặt bất ngờ của chị Nụ báo hiệu những điều không hay chăng? Nhưng khi nghe những lời thăm hỏi xã giao vừa lạnh nhạt vừa lúng túng của chị Nụ, Thắm trở nên tự tin hơn. Cô bế thằng bé đưa tận tay cho Nụ và vui vẻ hỏi:
- Chị nghe tin em sanh cháu, chị ra thăm hay chị đến đây mới biết?
- Tôi ở tù ra, đâu biết Thắm đã xây dựng gia đình?
- Thôi đi chị! Chị đừng giả bộ nữa. Chị về xã là nghe người ta đồn ầm con Thắm chửa hoang chứ không à? Quả có thế thật. Nói là chửa hoang thì em không chối cãi được. Thằng bé không có bố. Bố nó hy sinh rồi. Làm giấy khai sinh cho cháu, em lấy họ Lê của em. Em vừa chịu kỷ luật cảnh cáo trước chi bộ Gio Hải.
- Tôi như dì tôi không chịu kỷ luật. Mình có người yêu hẳn hoi. Chẳng qua... thế chú ấy quê quán ở đâu?
- Về chuyện này thì chị thứ lỗi. Em không định nói với một ai cả.
Qua những câu chuyện loanh quanh, điều chị Nụ muốn sáng tỏ vẫn kín như bưng. Có vài lần chị nhắc tới anh Dương, mà sắc mặt Thắm không thay đổi và cô cũng không vồ vập hỏi han gì thêm. Vốn chậm nghĩ, ngồi một lúc lâu, chị mới nghĩ ra một câu ngụ ý răn đe:
- Dì cứ đinh ninh bố thằng bé hy sinh rồi, có thật thế không? Giá như người ta còn sống thì sao?
- Em cũng hy vọng như thế.
- Nếu người ta còn sống mà mình nói vậy là rủa người ta. Phải tội chết.
Thắm chỉ mỉm cười. Cuộc viếng thăm kết thúc lạnh nhạt. Chị Nụ trở về Gio Hải cùng với nỗi băn khoăn của mình chưa giải đáp được. Nhưng rồi chị chẳng có thì giờ và lòng dạ nào mà ôm lấy nỗi băn khoăn có vẻ như vô cớ ấy. Rõ là ách giữa đàng mang lấy cổ. Chị còn phải làm ăn nuôi con, chăm sóc người bố chồng. Còn phải gánh vác phong trào cách mạng Gio hải lúc bấy giờ đang cực kỳ sôi động. Chiến dịch mùa xuân 1972 mở. Cùng với chiến thắng dồn dập của quân ta ở cao điểm 241, Tân Lâm, Dốc Miếu, Quán Ngang, thị xã Đông Hà, xã Gio hải đã nhanh chóng nổi dậy giải phóng. Bọn địch tháo chạy về bên kia sông, qua ia Đẳng, Mỹ Thủy, và lập tuyến phòng ngự bờ nam sông Mỹ Chánh, xã Gio Hải được giải phóng. Cả huyện Gio Linh, cả tỉnh Quảng Trị được giải phóng! Hoan hô! Cách mạng muôn năm! Người dân Gio hải treo cờ đỏ sao vàng lên, mừn vui trào nước mắt. Ông già Thống, bố chồng chị Nụ, vắt áo lên vai, đi rảo một vòng quanh xã cho sướng đôi chân. Về nhà, ông thắp nhang lên bàn thờ vợ và các con khấn rằng trời có mắt, von linh cụ Hồ phù trợ cho cách mạng thành công ở đất quê nhà. Ông già chỉ mong tin bố con Hải.
Ông già mong một thì Nụ mong mười. Chị nghe người ta đồn anh Dương lên ấp chỉ huy một đơn vị đặc công đánh địch ở chợ Cầu ngay gần đây thôi. Một buổi nhập nhoạng tối, chị vừa đi mít tinh phụ nữ về, đang cho heo ăn, bỗng có đôi bàn tay to lớn bịt chặt mắt mình lại, làm chị kêu ầm. Đôi bàn tay buông ra là một chuỗi cười ròn tan. Trời ơi! Anh Dương!
Để nguyên bộ quần áo bộ đội không lấy gì làm sạch sẽ, anh Dương xộc vào nhà như một cơn lốc, bế thốc cái Hải lên, cọ bộ râu lởm chởm vào má nó, làm con bé hoảng quá cấu vào mặt anh. "Phải, phải cứ cấu nữa đi con. Cấu ba cho thiệt đau"! Anh Dương chỉ được tạt về nhà có một đêm, sáng mai phải cùng bộ đội hành quân sớm. Một đêm của người lính về thăm vợ trên mảnh đất vừa giải phóng quý báu xiết bao. Thời gian để tiếp họ hàng gia đình đến chúc mừng. Thời gian để tiếp bạn bè đồng chí trong xã. Thời gian để chị Nụ sốt ruột vì những ông bạn cứ uống nước chè đều đều, vấn thuốc rê đều đều và hỏi hết chuyện chiến dịch từ Đông Hà về đến tận Lộc Ninh. Còn bao nhiêu thời gian cho vợ chồng tâm sự nữa đâu. Mà biết bao điều cần nói. Trời ơi, thời gian trong chiến tranh! Dù sao chị Nụ cũng muốn nâng niu chút thời gian nắn ngủi đầy hạnh phú này. Còn một chút băn khoăn cộm lên đấy, nhưng chị nỡ lòng nào ray rứt anh.
Trong đêm yên tĩnh, bằng một lời khoe, chị chỉ ướm thử anh:
- Cái Thắm nó đẻ con trai. Em có ra Quảng bình thăm nó.
- Thế thì tốt. Thắm đẻ con trai, anh có biết.
- Nó gửi thư cho anh à?
- Không, gặp mấy thằng bạn nói lại.
- Tội nghiệp! Tự dưng phải một mình nuôi con!
Chị buông một tiếng thở dài, rồi úp mặt mình vào tấm ngực rộng lớn của chồng, nửi mùi mồ hôi quen thuộc và nghe rõ nhịp đập trái tim anh. Chị nằm như thế, yên ắng, mặc cho anh vuốt nhẹ lên mái tóc mình, tận hưởng cái êm ái trong bàn tay chồn, không nỡ nói gì thêm... Sáng mai, chị tiễn anh ra tận bờ sông Cửa Việt. Anh bảo, đơn vị anh còn phải hành quân vào sâu trong kia. Anh lên đò lúc chưa rõ mặt người. Con đò đưa anh xa dần và chao ôi, không ngờ đấy là lần cuối cùng vĩnh biệt anh. Anh ngã xuống trong một lần quân ta luồn sâu vào tuyến phòng ngự của địch, bên kia bờ sông Mỹ Chánh. Mặt trận thắng lợi mà chị mất anh. Đồng đội đưa anh về mai táng trên một vùng cát Hải Lăng. Chị đã vào đấy. Trong tiếng gió hú trên hàng dương và tiếng sóng biển đổ ầm ầm, chị đã khóc anh, kể lể với anh, trò chuyện với anh. Chị nói một mình. Vĩnh viễn anh không bao giờ đáp lại. Vĩnh viễn anh mang đi theo tâm sự của mình.
Ông già Thống, tay run run đặt cái bài vị đứa con hy sinh cuối cùng của mình lên bàn thờ. Thế là bên cạnh vong linh mẹ nó đông đủ bốn anh em: ba trai, một gái. Thế là hết, là trắng tay. Ông già không khóc nhưng cứ nhìn ra biển, nói thì thầm như nói với ngọn sóng nào đấy. Đôi lúc ông già nhìn chằm chằm vào khuôn mặt chị Nụ, xem có dấu hiệu gì chứng tỏ đêm vợ chồng gặp nhau có để lại chút hy vọng gì không, để cánh họ Trần của ông còn có người nối dõi. Tội nghiệp ông già! Ông quên rằng chị Nụ đã bảo với ông rằng chị không còn khả năng sinh nở nữa, sau khi bị chúng đánh trụy thai băng huyết.
Nỗi buồn của cha con chị Nụ quả là lớn lao. Chị Nụ chỉ biết động viên an ủi ông già bắng sự chăm nom của mình, bằng việc nuôi dạy bé Hải cho tử tế, làm sao cho ngôi nhà nhỏ bé luôn luôn đầm ấm.
Miền Nam hoàn toàn giải phóng. Chị Nụ được thị ủy điều lên làm công tác trên thị xã. Thoạt đầu chị để hai ông cháu ở quê. Về sau, chị sắp xếp đưa hai ông cháu lên. Nhưng ông già nhất định không đi:
- Thôi, mẹ con bay cứ lên mà lo việc nước. Tau ở lại với biển.
Chị Nụ van nài ông mãi, ông không nghe.
Chị phiền muộn về việc này, nhưng biết làm sao được? Trong đầu chị, chứa chất đầy lo toan. Lo cho công tác của Đảng, lo cho bé Hải cái ăn cái mặc và việc học hành, lo cho ông già sống một mình dưới quê. Đấy là chưa kể những bực dọc vụn vặt xảy ra trong cơ quan, những va chạm thường ngày trong khu tập thể. Cuộc sống của chị trở nên bươn bã hơn những ngày trong chiến tranh. Nó làm chị quên đi tuổi trẻ của mình. Và tất cả những băn khoăn day dứt trước kia vốn có vẻ là vô cớ nay càng mờ nhạt dần trong trí nhớ của chị. Đôi khi chị có nhớ lại câu chuyện nghi hoặc giữa chồng mình và bạn mình, thì chị cố xua đuổi đi như xua đuổi một ảo ảnh mơ hồ. Cái ảo ảnh mơ hồ đó thường xuất hiện vào lúc chị về quê thăm bố chồng. Lạ thật, ông già Thống thường nhắc tới Thắm như nhắc tới người thân thiết.
- Con Thắm quý hóa thiệt! Có dễ hơn một năm nay chưa thấy hắn về thăm.
 

HOMECHAT
1 | 1 | 90
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com