watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
18:51:2226/04/2025
Kho tàng truyện
Chỉ mục bài viết
Tiếng Đất
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Tất cả các trang
Trang 6 trong tổng số 20
III
Quả là tìm nhà Thể không khó. Đến chợ Cầu, theo tay chỉ của một em bé, tôi đến đúng ngõ. Một cô gái đang tưới rau, thấy tôi dắt xe đạp vào, reo lên như quen biết đã lâu:
- Ôi chú, mời chú vào nhà. Ba cháu đạp xe lên hội ý với bí thư Đảng ủy một chút, rồi về ngay.
Nhìn cô gái tôi biết ngay con đẻ của Thể. Đôi mắt nhỏ mà sắc y như đôi mắt anh chàng trung đội trưởng Thể năm xưa. Cô buông thùng tưới, tự giới thiệu là Linh và gọi người nhà rối rít. Chồng cô tên là Toàn, một thượng úy đang công tác ở thị đội Đông Hà bế cả đứa bé ban sáng tôi gặp, ra hào. Bà chị Thể, người mà Linh giới thiệu là o Năm, cũng chạy lật đật từ ngôi nhà bên cạnh qua. Bà Năm sai Linh múc nước rửa mặt, bảo Toàn cất xe đạp vào nhà và đưa tận tay tôi chiếc quạt giấy. Rõ ràng là cả nhà Thể đã sẵn sàng đón tôi. Bà Năm rất vồn vã, ngay từ đầu đã gọi tôi bằng cậu, như gọi Thể vậy. Bà rót nước chè xanh hãm sẵn trong giành tích mời tôi uống và xuýt xoa trách cậu Thể đến là khó bảo. Đã bảo mình đi thheo cách mạng hơn ba chục năm rồi, bị thương những hai lần xuýt chết chứ ít à, bây giờ Đảng và quân đội cho về hưu thì chỉ nghỉ ngơi, lại còn cứ tham gia chân Đảng ủy xã. Họp hành luôn chứ có mấy lúc được rỗi rãi.
- Đó, cậu coi: Trung tá về hưu mà nhà cửa cứ tuyềnh toàng.
Bà Năm nói thế là trách yêu cậu em, chứ nhà cửa Thể nom cũng khá khang trang, nhà lớp ngói, thưng vách. đặc biệt có cái vườn hết chê. Một lô đất phía sau trồng tiêu. Những cây tiêu đã bén choải nom mỡ màng. Quanh vườn là hàng mít, loại mít ở đất Bến Hải này, cây cứ choai choai đã sai quả. Rồi đu đủ, rau muống, ớt, bí đao. Rõ ràng chủ nhân đã dầy công chăm sóc, vun xới. Đồ gỗ trong nhà tuy không phải là loại gỗ quý sang trọng nhưng khá đầy đủ. Cũng tủ chè, tủ đứng, bàn ghế, giường mô đéc. Nhà sạch sẽ và ngăn nắp. Tôi xuýt phì cười khi nhìn vào chiếc giừn một kê sát cửa sổ, chắc là giường của Thể. Anh bạn già về hưu rồi vẫn không quên gập chăn màn cho sắc thành vuông cạnh, cứ y như lính trong doanh trại. Kê sát tường là bàn thờ có treo ảnh người vợ đã hy sinh. Đúng là người chết còn trẻ mãi. Chị Chín vợ Thể trong ảnh, trẻ như cô Linh con gái chị bây giờ. Thì ra Thể cũng thờ cúng cẩn thận. Một bát hương to, chân hương cắm đầy như bát hương trên chùa. Lại còn mấy cọc nến bằng đồng. Một bát nước lã tàn nhang rơi vào lấm tấm, đặt bên cạnh đĩa hoa phần lớn là vạn thọ, cánh đã héo. Bỗng nhớ ngày xưa, Thể là anh chàng báng bổ nhất về việc thờ cúng. Hôm trong xóm chỗ chúng tôi đóng quân, có một ông già mất, chúng tôi kéo nhau tới viếng. Tôi thay mặt anh em vào thắp mấy nén nhang và vái mấy vái. ấy thế mà khi ra về, Thể phê bình tôi vậy là gây ảnh hưởng xấu với quần chúng, làm cho quần chúng càng thêm mê tín dị đoan. Chẳng hiểu bây giờ Thể thế nào mà thờ vợ chu đáo thế. Theo bà Năm kể thì hầu như đêm nào Thể cũng thắp hương...
- Chị Chín hy sinh vào thời kỳ nào hở bác? - Tôi hỏi bà Năm.
- Ôi chao! Lâu rồi cậu ạ! Sau Mậu Thân, bọn biệt kích Mỹ ở Quán Ngang đi xăm hầm, dạo đó đangn mùa mưa lũ cậu ạ! hầm dưới làng bị ngập nước hết, mợ Chín cùng ba cán bộ du kích xã phải núp hầm trên đồi tràm. Bọn Mỹ dàn hàng ngang ra, mỗi thằng một cái thuốn sắt. Khi hầm bị lộ, mợ Chín và anh chị em du kích đội hầm lên đánh. Thằng Mỹ phải đổi mạng hàng chục tên nhưng cuối cùng bên ta hy sinh hết. Thương quá cậu ạ! Mợ ấy là người nết na, đức hạnh lắm. Cậu Thể đi tập kết, tôi và mợ ấy ở với nhau còn hơn chị em ruột thịt.
- Thế, chị ấy mất đi chỉ để lại mỗi cháu Linh thôi ạ!
Bác Năm lại thở dài, giọng phiền não:
- Cái số cậu mợ nó cũng vất vả lận đận. Cưới nhau trước lúc tập kết, thôi thì đỏ mắt chờ Bắc Nam thống nhất mãi không đặng. Chị em tôi đi biểu tình đấu tranh mãi, mợ Chín nó bị bắt lên bắt xuống mấy lần. Cái năm 1959, bởi mợ nó là đảng viên nên cấp trên điều vô Sài Gòn, nói là mần ăn nhưng cốt làm cơ sở ở một vùng trắng. Khi vượt tuyến ra Bắc để nhận nhiệm vụ, vợ chồng gặp nhau mấy ngày mới mang thai. Vô Sài Gòn chưa được sáu tháng thì cơ sở bị lộ. Địch bắt vô khám Chí Hòa, sau mới trở về giam nhà lao Quảng Trị. Con cháu Linh sanh ở trong lao đó cậu. Tôi là người đi vô đi ra nhà giam tiếp tế cho cháu. Năm cháu Linh được ba tuổi, nghĩ tội nghiệp con bé, tôi bàn với mợ nó cho cháu về ở với tôi. Đó là hòn máu của thằng em tôi để lại, mà chỉ mình tôi biết sự thật. Chứ với tụi địch thì mợ nó chỉ nói quấy nói quá là con rai cho xong chuyện. Năm 1967 nhờ bộ đội ta tập kích vào thị xã Quản Trị, giải phóng nhà lao, mợ Chín nó mới thoát ra. Hồi đó cháu Linh đã lên bảy. Nhưng rồi mẹ con chẳng được ở với nhau, mợ nó lại đi hoạt động bí mật cho đến lúc hy sinh.
Bà Năm nói chuyện với tôi bằng cái giọng bùi ngùi, thỉnh thoảng lại chấm nước mắt. Trong lúc đó vợ chồng Linh đang lúi húi dưới bếp giết gà làm cơm. Có tiếng cười ri rích và tiếng bi bô của trẻ con. Âm thanh của một cặp vợ chồng trẻ hạnh phúc làm tôi chạnh nghĩ đến sự cô đơn của Thể. Tôi hỏi bà Năm:
- Sao chị Chín hy sinh lâu rồi mà Thể vẫn kiên tâm ở vậy, không đi bước nữa?
Bà Năm lại xuýt xoa phân trần rằng, chính bà cũng coi đó là sự lạ. Cậu có biết không, năm 1972 Quảng Trị giải phóng, cậu ấy trở về thăm nhà là tôi đã tính đến chuyện đó. Buổi đầu, thì cậu ấy bảo từ từ, nhưng nghe ngóng mãi, chẳng thấy nhắc gì đến nữa. Có phải riêng tôi đâu, cả bà con chú bác cả cháu Linh ai cũng khuyên, cũng bàn. Tôi đã tìm được vài nơi, cũng là chỗ vợ liệt sĩ, hãy còn trẻ tuổi, nết ăn ở cũng hay, vậy mà cậu ấy cứ thờ ơ như không. Tôi là chị cả, cha mẹ mất rồi, lo cho em út là phần việc của tôi. Thôi thì hết ngọt ngào khuyên lơn đến làm mặt giận mắng mỏ, cậu ấy vẫn không nhúc nhích. Cuối cùng thì cậu ấy cáu, gắt ầm lên rằng đừng có ai động đến chuyện đó. Để cho cậu ấy yên. Thế là thôi, mặc xác. Đấy là nói lúc cậu ấy còn ở đơn vị, nhưng khi được về hưu, tôi chắc bụng là cậu ấy sẽ nghĩ lại. ở bộ đội, có anh em vui vẻ, công việc lại bận, nên quên chuyện riêng đi, chứ về hưu mà vò võ một mình cũng buồn cũng chán. Lựa dịp tôi lại lôi chuyện cũ ra, nhưng cậu ấy đánh trống lảng, nói sang chuyện khác. Mãi lúc sau, còn hai chị em cậu ấy mới nói:
- Em luôn luôn nghĩ là mình có lỗi với cô Chín, nên em chẳng lấy vợ nữa đâu. Chị thương em thì chị lo dùm việc chồng con cho cháu Linh.
Từ đấy là thôi, tôi cũng hết cách. Cậu ấy sinh ra gàn gàn dở dở thế nào ấy. Có lúc ngồi hàng tiếng đồng hồ trước bàn thờ mợ Chín, y như người bị ma lấy hồn.
Ngồi nói chuyện với bà Năm một lúc thì Thể đạp xe về. Vẫn bộ quân phục cũ mèm và bộ râu lởm chởm. Nhìn kỹ mới thấy anh già hơn tuổi năm nhăm, những dẻ quạt ở cuối đuôi mắt đã lộ sâu, răng rụng dăm ba cái không buồn trồng lại nên nom móm mém hẳn đi.
Anh phân trần:
- Lên hội ý một chút, mà cứ lằng nhằng mãi. Mình là anh quân sự làm việc đúng giờ giấc quen rồi, về làm việc với anh xã cứ phải chờ đợi nhau, tức như bò đá. Anh chờ tôi đã lâu chưa?
Thấy tôi đến đúng hèn, Thể rất vui. Lúc này, bà Năm đã lui xuống bếp nhường cho Thể tiếp chuyện. Bạn cũ lâu ngày gặp nhau, thôi thì đủ thứ chuyện. Chúng tôi nhắc đến bạn bè cùng đơn vị, nhắc đến những kỷ niệm trong hòa bình, trong chiến tranh. Chuyện gì chúng tôi cũng nói với nhau say sưa được. Không hiểu sao khi nhắc lại những kỷ niệm xưa cũ, Thể thường có cái nhìn khá trước, cái nhìn độ lượng và ưu ái hơn. Dường như anh có đôi chút hối hận là cả một quãng đời dài anh đã tạo cho mình một thứ sắt đá huyẽen hoặc, một sự cứng nhắc khuôn sáo. Nói chuyện với anh lúc này dễ chịu hơn ngày xưa nhiều lắm. Cũng có thể là do chúng tôi đã luống tuổi, đã từng trải khá nhiều, chúng tôi có khuynh hướng nhìn lại quá khứ. Quá khứ có cái tốt đẹp, có cái chưa vừa lòng. Nhưng hầu như chúng tôi không bàn chuyện tương lai, tương lai mênh mông quá. Và bàn đến tương lai, biết đâu chúng tôi lại bất đồng với nhau.
Chuyện đang vui. Ngoài sân đã lãng đãng hoàng hôn. Có tiếng gà nhảy lên chuồng. Bà Năm với đầy đủ dáng dấp của một bà mẹ Quảng Trị, đôn hậu và xăng xái, ra dọn ấm chén uống nước trên bàn. Để chả mấy khi bạn cũ gặp nhau, mời cậu (tức thừa vì cẩn thận chu đáo quá tôi) xơi bữa cơm dưa muối nhà quê.
Bà Năm chưa dứt lời, Linh đã bưng mâm lên. Toàn đặt xuống cạnh mâm một chai rượu cam. Nhìn bữa cơm thịnh soạn tôi biết cả nhà coi tôi là khách quý. Bỗng nhiên tôi nẩy ra một ý định, tôi nói với Thể:
- Anh Thể ạ1 Cách đây hơn hai mươi năm, anh có đưa tôi tới thăm chị Chín. Ban sáng gặp lại anh, tôi cứ ngỡ rằng, bây giờ đất nước thống nhất, anh chị được sum vầy. Không ngờ... Thôi, chiến tranh là thế! Chúng ta là những người còn lại, xin có tấm lòng nhớ tới người hy sinh. Trước lúc ăn cơm, anh cho phép tôi thắp cho chị ấy vài nén hương...
Thể bồi hồi và cảm động thực sự trước lời đề nghị của tôi. Anh lập cập thắp ngọn đèn trên bàn thờ, thay lại bat nước lã, và bằng một tín hiệu kín đáo nào đó, cô Linh đã chạy vào nhà, bưng lên đĩa xôi, đĩa thịt gà đặt lên bàn thờ. Tôi kính cẩn thắp ba nén hương trong lúc đó Thể cứ cuống lên không biết làm gì. Tôi có cảm giác như anh đang lắp bắp trong miệng, có lẽ là khấn khứa hay cám ơn tôi câu gì đó. Quả thật, tôi không tin vào mấy nén nhang thấu đến vong linh người đã mất nhưng tôi tin vào tấm lòng người đang sống. Dường như Thể chỉ vì ngại tôi, nên không muốn bày ra chuyện thắp hương, nhưng khi tôi tỏ lời thỉnh cầu thì anh lại quá mừng rỡ đến ngỡ ngàng, quá ưu ái đến mức chỉ muốn ôm chầm lấy tôi mà kể lể...
Bữa cơm đủ mặt cả nhà quây quần vui vẻ... Thể rót rượu ra chén và nói với tôi:
- Tôi bị dạ dày anh ạ! Tôi kiêng rượu. Nhưng hôm nay có anh tới chơi, tôi xin uống với anh một chén. Xin anh cứ tự nhiên cho. Tôi biết tửu lượng của anh khá lắm. Đã có cháu Toàn đây, hâu sinh khả úy mà anh, cháu sẽ tiếp rượu anh...
Thực ra tôi không uống nhiều. Chỉ vừa đủ nóng mặt. Tôi muốn giữ cho mình tỉnh táo để nói chuyện với Thể. Trong bữa cơm, Thể lại nói nhiều hơn cả. Anh giới thiệu tôi với cả nhà, giới thiệu một cách tỉ mỉ và với thái độ kính trọng khiến tôi cũng phát hoảng lên, không hiểu sao Thể lại bốc lên thế. Anh kể cho các con nghe về những kỷ niệm của chúng tôi nhất là những ngày chúng tôi đi chống đói, chống bão, và chống di cư ở Nghệ An. Trong giọng nói của anh có đôi chút tự diễu mình.
Xong bữa cơm cả nhà lui xuống bếp dọn dẹp, còn lại hai chúng tôi. Thể mắc chiếc màn đôi lên chiếc giường rộng, vui vẻ nói:
- Hôm nay, anh em mình nằm chung ta nói chuyện.
- Này ông Thể ơi, ông phải nói cho tôi biết, ông đã đóng cái giường đôi này rồi mà lại chỉ nằm giường cá nhân như anh lính là tại làm sao?
- à, à, - Thể cười - Cũng là tại cái số cả, anh ạ.
- Tôi xem ra cái số của ông vẫn còn là ẩn số đấy.
Chúng tôi chui vào màn, hai anh bạn già nằm hai bên. Gói thuốc lá Sông Cầu, chiếc bật lửa và cái gạt tàn đặt chính giữa. Chúng tôi nằm hút thuốc, mắt nhìn lên đỉnh màn. Đột nhiên, Thể dụi điếu thuốc hút dở vào gạt tàn, nhổm dậy nói với tôi:
- Anh Thiều ạ! Anh là người bạn quen thân từ lâu, đã hiểu ít nhiều cuộc đời tôi. Hôm nay tôi kể thêm cho anh nghe vài đoạn đời nữa, may ra anh hiểu tôi kỹ hơn, chứ cũng chẳng có ẩn số gì đâu. Chắc bà chị tôi đã kể về cô Chín vợ tôi cho anh nghe. Anh có nhớ những ngày chúng ta ở Nghệ An nữa không? Hồi đó tôi hăm bảy, vợ tôi hăm hai. Chúng tôi cưới nhau trước lúc ập kết dăm tháng, nhưng ở với nhau cũng mới gọi là quen hơi bén tiếng. Lúc chị em vợ các chiến sĩ ở đơn vị vượt tuyến ra thăm chồng, tôi cũng nhớ vợ tôi da diết. Còn tuổi thanh niên mà anh! Thoạt đầu tôi cũng mong cô ấy ra. Mong thì mong nhưng tôi không nhắn. Một thứ sĩ diện vớ vẩn mà anh... Mãi không thấy ra thì bực. Và thế là chẳng biết ma quỷ nào xui, tôi nổi cáu lên cả với đám vợ lính ra thăm chồng. Hồi đó, chính anh cũng tỏ ý không bằng lòng tôi. Khi đã lớn tiếng tuyên bố cái quan điểm kỳ quặc của mình, tôi viết thư về cấm vợ tôi không được ra. Cấm mà vẫn có chút hy vọng vợ không tuân lời...
Thể cười, châm điếu thuốc khác. Tôi cũng ngồi dậy xếp bằng, sẵn sàng nghe nốt chuyện anh:
- Bây giờ thì tôi "xưng tội" với anh, còn lúc đó, dù anh là chính trị viên đại đội chứ là chính ủy cũng thế, cạy răng tôi ra tôi cũng chỉ nói những lời như không phải của mình. Chắc anh không thể quên, cái dịp vợ tôi đột nhiên đến thăm tôi ở vĩnh Linh. Anh và anh Thọ đã mắng mỏ tôi những câu như đi guốc từ trong bụng tôi đi ra. Quả thật là tôi vẫn nghi. Cớ sao khi cửa giới tuyến còn mở không ra thăm chồng, nay giữa lúc tình hình giới tuyến căng thẳng đến mức e phải nổ súng lại đùng đùng ra? Thoạt tiên nhìn thấy vợ tôi ăn bận diêm dúa, áo ni lông trắng thêu rua, quần sa tanh bóng nhoáng, xức nước hoa thơm phức tôi đã cảm thấy xa lạ. Vợ tôi mừng cuống quít, cười rồi khóc thút thít mà tôi, anh biết không, thật là tai quái... đã không một lời yêu thương lại còn giữ bộ mặt đâm lê. Ôi tàn nhẫn làm sao là lúc cô ấy gục đầu vào vai tôi vừa khóc vừa kể nỗi đau khổ của mình trong xã hội miền Nam, dưới thời thằng Diệm, tôi đã gần như hất mái đầu cô ta ra. Một cử chỉ ghê tởm. Tôi không quên được nét mặt vợ tôi chợt tái mét đi, cái miệng nửa như mếu nửa như cười mỉa mai, còn tôi buông một câu dối trá là tối nay anh bận họp mai mốt ta còn phải nói với nhau nhiều. Một câu nói lạnh lùng và dọa dẫm! Thế đấy, tôi đạp xe về, may sao được các anh chỉ bảo, tôi đã hối hận kịp, vậy mà thú thật với anh, ở với vợ ba hôm ở chiêu đãi sở, tôi không sao đền bù được những gì tôi đánh mất. Hình như tôi càn cố gắng yêu thương vợ bao nhiêu, tôi càng rơi vào mặc cảm là mình dối trá. Tôi như một thứ người bị phân tâm, một phần của đời thực mình, một phần của cái ma lực nào đó xúi bẩy, vừa xơ cứng vừa hoài nghi. Đáng lẽ tôi còn giữ vợ lại hàng tuần nữa, nhưng khốn nạn thân tôi, tôi đã khuyên cô ấy trở về, công tác Đảng giao là trọng đại, là vinh quang, về với cơ sở sớm này nào hay ngày ấy. Đại để là tôi đã quen mất thói "lên gân", muốn tỏ rõ với vợ tôi và cả các anh nữa, rằng tôi không phải thằng đàn ông bịn rịn, yếu đuối, thằng đàn ông quá coi trọng tình yêu. Vợ tôi về miền Nam vẫn để lại cho tôi một ám ảnh về sự nhẫn tâm của mình. Tôi đã hất mái đấu cô ấy ra khỏi vai mình... Và tôi đã không xin lỗi cô ấy, không tự thú với cô ấy. Bởi vợ tôi vẫn ân cần niềm nở, vẫn tỏ hết lòng yêu thương tôi, cô ấy không hề nhắc đến cái đêm cô khóc tấm tức một mình, cái đêm cô đơn ấy, giá như người đàn bà khác thì đã bỏ đi, không thèm chờ đợi tình yêu của tôi như một thứ cầu xin nữa. Bởi vợ tôi là người nhân hậu, cố quên đi cái sự hoài nghi vớ vẩn của chồng, nên tôi càng coi sự xin lỗi là hạ mình không cần thiết. Việc đang làm đã không làm được để lòng tôi ân hận suốt đời. Mà không riêng ân hận đâu anh ạ!... Tôi phải trả giá. ở đời có vay, có trả. Tôi đã phải trả cái giá cũng chẳng nhẹ nhàng chút nào. ấy là vào năm 1967 tôi đang ở Xuân mai chuẩn bị đi B. Một hôm tôi nhân được cái điện "Con bị thương nằm viện Tân Kỳ Nghệ An. Anh vào ngay. Hồ Thị Chín". Tôi bàng hoàng. Chưa bao giờ tôi được tin là tôi có con. Rõ ràng bức điện ký tên vợ tôi, nhưng khó tin quá. Giã từ tôi từ mùa thu năm 1959, cô ấy đi vào Sài Gòn và từ đấy không có tin tức gì. Bỗng nhiên cô ấy xuất hiện ở Nghệ An cùng với một đứa con bị thương? Con tôi ư? Lẽ nào mấy đêm ngắn ngủi ăn ở với nhau đã để lại cho tôi một đứa con? Và làm sao con lại bị thương, lại nằm viện miền Bắc? Lòng tôi rối bời, nửa tin nửa ngờ. Lòng tin chỉ bám vào sự may rủi, còn ngờ vực lại hằn sâu vào quá khứ. Phải chăng cái điều ngày xưa tôi hoài nghi đã thành sự thực? Nếu cô ấy có còn, biết đâu là con rô con trê mà nhìn nhận. Bấy giờ lại sắp đến ngày hành quân đi chiến trường rồi. Nếu vin vào bức điện kia mà đi Nghệ An, rất dễ có sự nghi ngờ là mình bố trí một bức điện giả để thoái thác nhiệm vụ chiến đấu. Và thế là tôi quyết định hành quân theo đơn vị. ở chiến trường, trong chiến đấu căng thẳng và gian khổ, thỉnh thoảng có nhớ tới bức điện lạ lùng kia, tôi cũng chỉ tặc lưỡi coi như một sự nhầm lẫn nào đó thôi. Giá như trận bom B52 ở giáp ranh giết chết tôi, thì tôi đã là người thanh thản. Đằng này tôi lại bị thương phải ra Bắc. Một hôm ở trại an dưỡng Hà Nam, nhân ngồi tán chuyện, tôi nghe một tay kể về kế hoạch K8, K10. Đấy là những kế hoạch sơ tán các em nhỏ ở hai bờ sông Bến Hải vào thời kỳ bọn Mỹ mở trận càn "Bạch Hóa" nhằm quét sạch dân sát giới tuyến. Người kể xuýt xoa về sự ác liệt của những chuyến xe chở trẻ con dưới tầm pháo hạm và đủ các loại máy bay. Có những chiếc xe thoát ra đến Đèo Ngang vẫn còn bị đánh cháy. Rất nhiều các em bị thương chở ra phía Tân Kỳ, Nghệ An. Nhìn cái cảnh ấy, đau lòng không chịu nổi. Người kể chuyện rơm rớm nước mắt, còn tôi chợt thấy đau nhói trong tim. Tôi linh cảm thấy mình là người cha nhẫn âm tội lỗi. Lập tức tôi xin trại an dưỡng đi Tân Kỳ. ở bệnh viện Tân Kỳ, người ta lục cho tôi hồ sơ bệnh án các em ở Vĩnh Linh ra năm 1967 và tôi đã nhận ra một cái tên: Em Trần Thị Mỹ Linh, sinh ngày 10-6-1960, cha Trần Ngọc Thể, Mẹ: Hồ Thị Chín, bị thương vì bom bi... Ôi con tôi, con tôi bây giờ ở đâu? Bênh viện trưởng Tân Kỳ mách tôi nên đến trại M.8 - trại nuôi dưỡng cá cháu ở giới tuyến ra phần lớn là các cháu mồ côi. Tôi lại bổ sấp bổ ngửa chạy đi tìm. Bác Tùng, trại trưởng M.8 nghe tôi trình bày xong, bình tĩnh thẩm vấn tôi một chốc, xem tôi có thực sự đúng là tôi không, rồi mới xác nhận rằng có cháu Linh ở đây. Tôi mừng cuống lên, muốn gặp cháu ngay, nhưng bác Tùng bảo cứ thư thả, lúc này đang giờ học của các cháu. Tan học, bác Tùng dẫn tôi xuống nhà ở của các cháu. Tôi hồi hộp đến run lên. Quãn hai chục cháu vây quanh lấy bác Tùng. Trong lúc bác hỏi han các cháu về việc học hành sinh hoạt, thì tôi quan sát từng khuôn mặt một em bé bé nom trắng trẻo, bẽn lẽn với đôi mắt nhỏ mà sắc thỉnh thoảng lại nhìn trộm tôi, rồi nghiêng đầu núp sau lưng bạn khác.
Tôi bước lại gần nắm lấy vai cháu:
- Cháu tên là Mỹ Linh phải không?
- Vâng ạ!
- Thế mẹ cháu bây giờ ở đâu?
- Mẹ cháu ở Gio Cam.
- Ba cháu ở đâu?
Con bé ngước cặp mắt ngờ vực nhìn tôi rồi lắc đầu:
- Cháu không biết!
Lòng tôi đau thắt lại. Bàn tay tôi run run nắm chặt lấy vai cháu kéo lại phía mình và với giọng lạc hẳn đi, khê khê như người vị cúm, tôi thốt lên:
- Mỹ Linh! Con! Ba là ba của con đây! Ba là Thể đây!
Tôi tưởng con bé sẽ sà vào lòn tôi, ai dè nó hốt hoảng nhìn tôi, một cái nhìn dữ dội. Bàn tay bé nhỏ của nó cứ bóc từng ngón tay tôi ra khỏi vai nó:
- Không, không, chú không phải ba tôi!
Và con bé tuột khỏi tay tôi, ù té chạy. Tôi châng hẩng. Và anh biết không tôi là một thằng lì lợm như thế, bỗng nhiên khóc thút thít trước đám trẻ con. Tôi khóc vì đáng đời cho tôi quá, con tôi không công nhận tôi, bởi vì chính tôi đã từng không công nhận nó. Đấy , món nợ đầu tiên tôi phải trả là như thế. Cố nhiên là sau đó thì sự thật vẫn là sự thật, ba con tôi đã nhận ra nhau. Lúc con bé đã gọi tôi bằn ba không còn ngượng ngập nữa và bắt đầu dám làm nũng với tôi thì cháu nó hỏi tôi nhiều câu về mẹ nó mà tôi không trả lời được. Vì quả thật tôi có hiểu gì về cuộc đời đầy gian truân của vợ tôi đâu. Bác Tùng trại trưởn là một cán bộ của Quản Trị lớn hơn tôi hàng chục tuổi, một người lịch lãm, tế nhị. Trong chuyện trò thăm hỏi về đời tư của tôi sau đó, bác Tùng thường gọi tôi bằng chú. Một lối gọi thân mật gần gũi và đồng cảm. Tôi không hề biết rằng, với lối gọi trìu mến ấy, bác Tùn đang tạo nên một không khí yêu thương đê cuối cùng bác báo cho tôi một tin sét đánh: vợ tôi đã hy sinh hai năm rồi, nhưng bác vẫn chưa cho cháu Linh hay, cháu còn dại quá? Nay đã có tôi tìm đến... bác tin rằng, nỗi đau đớn này tuy to lớn thật, nhưng đối với cháu Linh cũng giảm được đôi phần. Tôi chết lặng đi trước cái tổn thất mà tôi chưa hề lường trước được.
Tôi không khóc được. Nước mắt đặc sánh lại trong người tôi. Thế là hết, nỗi ân hận của tôi biết giãi bày cùng ai? Nỗi ân hận của tôi từ nay chỉ như là một cái u độc trong người. Tôi và cháu Linh để tang vợ tôi từ hôm ấy. Hoàn cảnh này đã buộc chặt hai cha con tôi lại, cháu Linh không muốn rời tôi ra nửa bước. Định mang cháu đi theo, nhưng hoàn cảnh bộ đội thật chưa tiện. Tôi trở về đơn vị và xin cấp trên chuyển về công tác ở quân khu 4 để được gần gũi săn sóc cháu. Gần gũi cháu, tôi có vui vẻ hơn đôi phần, nhưng vẫn không sao xua tan được nỗi ân hận lưu cữu trong người. Tôi có cảm giác vợ tôi hy sinh là một đòn trừng phạt đối với tôi. Thêm một lần nữa, tôi phải trả giá, mà cái giá này... quả là...
Thể kể chuyện cho tôi nghe đã khá dài. Tôi chăm chú vừa lắng nghe vừa hút thuốc, tịnh không hỏi xen anh câu nào. Hỏi xen anh, tôi sợ làm mất đi cái cảm giác là anh đang giãi bày với một người vô hình nào đó. Lúc này anh mới rút một điếu thuốc, châm lửa hút mấy hơi liền. Dường như khói thuốc làm anh sực tỉnh. Anh mỉm cười, vỗ vỗ vào vai tôi:
- Anh bảo cuộc đời tôi có ẩn số? Tất cả đã có đáp số minh bạch. Chiếc giường đôi này tôi sắm là để đón bạn bè tới chơi chứ không phải để lấy them một cô vợ khác. Tôi mà còn đi lấy vợ thì buồn cười quá. Có người bảo tôi lẩn thẩn, tôi gàn. Nhưng anh ơi! Đấy là ý nghĩ của người khác, còn tôi, tôi lại hoàn toàn thanh thản nhẹ nhõm. Đi gần hết cuộc đời rồi, tôi mới nhận ra rằng, được sống như chính mình cũng chẳng dễ dàng gì...

HOMECHAT
1 | 1 | 91
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com