Chỉ mục bài viết |
---|
Thư Nhà |
Trang 2 |
Tất cả các trang |
Lúc bấy giờ tôi bình tĩnh lắm. Nhưng sự thực, tôi cũng ân hận: mình chết cũng không sao nhưng còn công tác? Tôi càng thấy người nóng như điên. Nhất định không cho giặc hạ nổi, tôi nghĩ thế.
Súng dần dần ngớt. Nghe súng, tôi đoán được tình thế. Súng du kích bình tĩnh, chắc; súng giặc cuống quýt, lồng lộn.
Sẩm tối, tiếng súng im hẳn. Thế là tụi giặc không vào sâu trong làng được. Tôi khoái quá, thấy tự kiêu hãnh, vì cái làng "xôi thịt" của tôi bây giờ đã đường hoàng chơi nhau được với giặc.
Trời tối hẳn, tôi mới mò ra, ngồi lâu chân tê, đi dạch dẹo, óc mệt mỏi. Hình ảnh Thu, Viên chập chờn trong đầu.
Đằng cuối làng có tiếng reo à à. ánh lửa hồng hồng, ngọn tre lá lăn tăn. Lại giặc chắc? Tôi nép vào một bức tường. Không! Tiếng cười tiếng hát. Có lẽ của dân làng. ờ mà biết đâu không có thày, mẹ, Chi, chú Lân ở đấy.
Tôi rảo cẳng, tay nghênh ngang khẩu sten. Bỗng một tiếng thét ở lỗ con góc tường bật ra.
- Ai! Đứng lại! Giơ tay lên!
Một mồi lửa bừng lên. Anh du kích chạy ra. Tôi nhận rõ là con cụ Điều Năm. Nhưng hắn chưa nhận ra tôi. Hắn ghé sát vào mặt tôi mà nhìn mãi rồi reo:
- Ơi trời ôi! Anh Lượng! Anh về bao giờ thế? Sao anh lại về vào lúc này! Tôi nghe nói anh bị... bị đạn ở Lũng Vài rồi cơ mà!
Hắn nắm tay tôi nói liến thoắng. Hắn trẻ quá, vẫn tươi vui như cũ. Mấy anh du kích khác ùa ra. Toàn anh em thanh niên làng quen thuộc cả. Họ xoắn lấy hỏi chuyện. Tôi cảm động quá không nói được nên lời. Ngày tôi đi, làng mới có sáu tay súng mà bây giờ, theo lời họ, đã có hai trung đội thoát ly.
- ồ anh về đúng lúc thắng trận! Chúng nó chỉ giết được hai con trâu, đốt cháy trụi một chòi canh. Dân làng đang mổ trâu "ăn khao" ngay cuối làng vui lắm, anh đi đến cả thể đi. Anh mới về không rõ chứ, ba xóm phía cuối làng, độ ba trăm thước, địch đặt vị trí, chỉ rình bắn vào làng. Chúng nó đốt làng ta bốn lần. Bốn lần bị đốt, bốn lần làng làm lại, chúng lại đốt. Cứ thế giằng co mãi. Nhưng cóc cần, ngày lên núi ở, tối lại về khai hội, mít-tinh, kiểm thảo, có lo gì. Truyền kiếp cho nó cũng chẳng lập được hội tề.
Anh du kích nói một thôi say sưa, nóng bỏng.
Chúng tôi kéo đến bãi cỏ trước nhà ông Xôi. Ba bốn đống lửa sáng lòa. Trai làng đang mổ hai con trâu bị Pháp bắn. Người đen nghịt. Anh em giới thiệu tôi. Cả làng hoan hô. Thế là mấy tràng 12,7 ùng ục reo lên. Đạn đi đâu cả. Vẫn vui, tôi kể mấy trận chiến thắng ở Đông Bắc làm quà. Dân làng lại hoan hô ầm ầm. Thoáng có tiếng xì xào:
- Lượng con ông Độ đấy mà. Đi vệ quốc Việt Bắc có khác. Rắn rỏi đáo để. Rõ tội nghiệp về nhà bố mẹ chẳng còn.
Tôi lạnh người. Run cả bàn tay. Bây giờ tôi mới nghĩ đến nhà. Một anh du kích khoác tay tôi ra chỗ vắng thì thầm:
- Mấy lần Pháp về bắt lập hội tề đều bị đánh lui. Chuyến tháng trước nó về bắt được ông bà nhà đem về dụ không được, bắn rồi. Chú Lân bây giờ yếu lắm. ốm quặt quẹo luôn. Nó làm thư ký cho huyện đội bộ cách đây chừng sáu cây. Nó bảo hồi ông bà còn sống, nó gửi cho anh ba bốn lá thư mà không thấy trả lời.
Đầu tôi nóng cháy. Tôi muốn khóc mà không ra nước mắt.
- Anh có muốn gặp chú Lân thì mai. Còn chị Chi...
Tôi ngắt lời:
- Tôi biết rồi anh ạ. Việc ấy cũng không hề gì. Miễn là Chi vẫn trung thành với dân với nước.
Có tiếng còi rúc, anh du kích xin lỗi về tập hợp. Tôi lặng lẽ vào một ngõ tối. Tôi tìm đường về nhà.
Quanh co mấy lối rào mục đổ xiêu vẹo. Tôi tới chiếc cổng tre của nhà. Tim tôi như ngừng đập. Một cái gì mừng mừng tủi tủi làm tôi muốn rơi nước mắt. Cánh cổng vẫn như xưa, mốc rêu, vết giấy dán nham nhở. Chắc là dấu vết những bức tranh ông tướng của chú Lân hồi còn bé.
Tôi đẩy cánh cửa, tiếng kẹt lạnh người. Tôi đã chắc chắn là không còn ai ra đón tôi nữa nên hững hờ bước vào mảnh sân đã lên rêu trơn trơn. Cỏ um tùm mấy nhóm. Cuối sân, chiếc nhà tranh năm gian vẫn còn, nhưng một đầu đổ sụp. Hai chiếc cột cháy thui đứng sừng sững.
Tôi rón rén bước vào hiên, mấy cửa phên cót ghép tre kín mít. Tôi đẩy ra. Lòng nhà tối om, lạnh buốt, tiếng muỗi vo ve buồn xé ruột. Tôi bước hẳn vào, mái tranh thủng toang toang. ánh sao nhợt nhạt lọt vào từng mảng mờ mờ dưới nền đất ẩm.
Tôi đứng lặng người, nghe rõ tiếng tim đập. Tôi lòe bật lửa. Trên giường, một mảnh giấy úa vàng nằm trơ, tôi nhặt lên trang một quyển vở nào. Tôia phủi bụi bỏ vào túi trên.
Một lúc lâu tôi quay ra.
Có bóng người thoáng qua giậu. Bóng một người đàn bà.
Tôi chạy ra. Người ấy đứng lại:
- Chị Vựng đấy à?
- Không, Lượng đây!
Người ấy lùi lại:
- Trời ! Anh Lượng về ư?
Tôi tiến lại. Tôi nắm lấy tay Chi. Hai đứa đứng lặng hồi lâu, rồi Chi nức nở. Tôi lắc mạnh tay Chi:
- Các chuyện anh rõ cả rồi. Anh không giận Chi. Anh vẫn... vẫn yêu Chi. Tại thằng Pháp cả! Thầy mẹ em cũng như thầy mẹ anh đã...
Không hiểu sao đến đây tôi nghẹn lời không nói được nữa.
Chúng tôi ra đường cái rồi đi về cuối làng, ngồi trên một bãi cỏ. Hai đứa lại im lặng không nói được gì. Chi tỏ ý tiếc tôi về muộn không gặp thầy mẹ tôi. Tôi ngậm ngùi bảo Chi: "Các cụ chết cho chúng ta được sống, cũng như bao người khác hy sinh để cho có Đông Triều."
Hai đứa lại im lặng rồi tôi bảo mai phải đi ngay. Chi không giữ tôi, nhưng bảo nên sang thăm chú Lân, tôi bằng lòng.
Chúng tôi lặng lẽ vượt cánh đồng, qua ba mũi 12,7 rồi tới bờ một con sông rộng.
Chi để tay lên mồm khẽ hú. Không có tiếng trả lời. Chi lắc đầu rồi ngập ngừng:
- Hay là ta bơi sang hở anh?
Tôi lưỡng lự. Bên kia sông chợt lóe mấy ánh lửa như đèn pin rồi vài tiếng súng nổ vu vơ.
Chi nói khe khẽ:
- Tụi nó ở vị trí bên kia đi tuần!
Tôi kéo tay Chi:
- Trở lại thôi Chi ạ! Mạo hiểm vô ích!
Chi ngước mắt nhìn tôi, giọng đau khổ:
- Anh! Thế còn chú Lân...
Tôi lấy giọng thản nhiên:
- Khi nào Chi sang thăm em, bảo anh hỏi thăm.
Rồi chúng tôi lủi thủi quay về. Hai đứa lại im lặng. Tới gần làng tôi dựng lại từ giã Chi.
Chi nhìn tôi. Trong bóng tối, tôi cũng nhận thấy mặt Chi tái đi. Tôi dằn từng tiếng:
- Chúng ta phải can đảm nghe không Chi? Can đảm nhé! Công tác đoàn thể cho trọn vẹn.
Chi cúi đầu nức nở rồi ngẩng lên cương quyết:
- Vâng anh đi! Em đợi...
Tôi không thể nói gì thêm nữa, quay đi, bước thật mau. Vừa đi, tôi vừa có cảm giác Chi thẫn thờ nhìn theo và đang vẫy.
Khi đi khuất ngọn tre làng cũ tôi mới đi chậm lại. Trời tờ mờ sáng. Ngôi sao mai vàng óng đã hiện trên nền trời sáng như bạc phía đông.
Lượng ngừng lại chống hai tay ra sau nhìn lơ đãng xa xa.
Tôi vỗ vai Lượng:
- Té ra bức thư này đến rất lạc hậu, càng làm cho Lượng...
Lượng xua tay cười:
- Không đáng kể Phượng ạ! ồ, một thằng lính...
Chúng tôi chuyển sang chuyện Bắc Cạn giải phóng lúc nào không biết.
1949