Chừng như khi đã xài hết số tiền bán ruộng trong vụ thắng kiện thì hai kẻ ác lại quay về cái xóm nghèo ấy. Họ về lần này với thân xác cả hai đều tàn tạ. Cây đàn ghi ta thùng không còn kè kè bên mình, cái giọng huê tình cũng thôi văng vẳng thâu đêm trước mảnh sân của ông chú chức sắc của xã. Họ về lần này là để tổ chức bắt cóc thằng Cuội và họ đã thành công. Sau khi họ đi, mấy người biết việc nói lại với cha thằng Cuội rằng hai kẻ đó giờ đã trở nên nghiện ngập. Cha của thằng Cuội cũng đã linh cảm đến điều đó khi nhìn hai kẻ ấy run rẩy đi qua cây cầu khỉ ở đầu xóm lúc họ vừa xuất hiện.
Kẻ đã chiếm đoạt ruộng của anh đem bán thì lần này không loại trừ khả năng họ cũng sẽ đem bán thằng Cuội. Ruộng anh họ có thể bán, còn con anh thì đâu được.
Lần theo dấu vết của gã ẻo lả anh đi tìm con mình. Anh lội bộ gần giáp cái thành phố mới gặp được thằng Cuội. May mắn thứ nhất là mẹ nó chưa bán nó, chỉ mới cho người ta thuê; may mắn thứ hai là nó còn lành lặn chứ chưa bị chọc cho mù mắt hoặc bẻ cho lọi giò; nghĩa là người ta thuê thằng bé để đi ăn xin - đây là một nghề mới và hình như nghề này đang làm ăn khấm khá lắm. Anh không kịp tìm mẹ nó để hỏi giá cho thuê như vậy một ngày là bao nhiêu, bởi khi gặp được con là anh tức tốc cõng nó về. Chính cái điều dại dột này đã nhiều đêm làm anh mất ngủ; phải chi lúc đó anh khôn một chút thì anh có thể lôi cả đám ra trước vành móng ngựa. Bởi vậy, nhác trông thấy hai con người ghê tởm ấy xuất hiên ở cái xóm nghèo của anh lần thứ ba, anh quyết định hành động, nếu không lần này anh sẽ thua kiện nữa, mà thua kiện có nghĩa là mất con, là giết con... Không còn cách nào khác, anh âm thần đến nhà người bạn “mượn tạm” khẩu súng...
Hơn một tháng sau cái đêm bị mai phục, hai công dân Lê Văn Năm và Nguyễn Thị Lành cũng nhận được trát gọi ra hầu tòa. Sự thật thì họ được gọi đến chỉ để làm nhân chứng. Lão tài xế Năm cúi đầu bái phục bộ máy nhà nước khi giấy gọi ghi đúng tên họ ông và được gởi về đúng địa chỉ nhà ông.
Sở dĩ vụ án nhanh chóng kết thúc điều tra vì nó đơn giản: người phạm tội là một, ăn cắp súng của một người là hai, đi bắn một người khác là ba. Những người liên can hầu như không có hoặc có nhưng không đầy đủ chứng cớ để xác định tội danh, cho nên có thể nói không có gì để điều tra thêm.
Phiên tòa diễn ra buồn tẻ. Sau khi đọc bản cáo trạng, toà hỏi: Có phải ngày 1 tháng 8 năm 1992, lợi dụng sự quen biết, bị cáo đã lấy cắp vũ khí của một đồng chí công an để thực hiện âm mưu đen tối của mình? Trả lời phải. Tòa hỏi: Có đúng vào ngày 2 tháng 8 năm 1992 bị cáo đã dùng vũ khí lấy cắp bắn công dân Thúy Liễu lần thứ nhất? Trả lời đúng. Tòa hỏi: Chưa vừa lòng với tội ác của mình, vào ngày 15 tháng 8 năm 1992 bị cáo đã một lần nữa dùng khẩu súng lấy cắp bắn trọng thương công dân Thúy Liễu, bị cáo có thừa nhận hành động tội lỗi này của mình không. Trả lời có. Sau đó hai công dân Lê Văn Năm và Nguyễn Thị Lành cũng phải xác nhận đúng khi toà hỏi về cái đêm bị mai phục. Có lẽ vì cho rằng vụ án không có gì phức tạp nên tòa đã bỏ sót một tội danh của bị cáo, đó là việc nếu như vào cái đêm lẻn lên xe anh không sa lưới pháp luật thì anh sẽ còn đi tìm mẹ của thằng con anh, ít nhất là một lần nữa.
Tòa cũng nghị án. Thực ra ba-rem giá đã có sẵn rồi, chỉ cần áp dụng vào mỗi tội danh cụ thể. Vì mức độ phạm tội của anh tướng đối nghiêm trọng nên cái giá của nó cũng hơi cao: mười lăm năm tù.
Vẫn nhân cái lần cô Lành đi nhờ xe của tôi từ trại cải tạo về thành phố sáu năm sau, khi nghe tôi hỏi cô thật sự “nhập cuộc” với gia đình của phạm nhân từ lúc nào, nghĩa là từ lúc nào cô xác định mình là “người nhà” của phạm nhân rồi nhận lãnh gần như toàn bộ việc tới lui thăm viếng phạm nhân cũng như cưu mang hai ông cháu ở dưới quê, thì cô trả lời có lẽ từ cái lúc thấy hai ông cháu dắt tay nhau ngập ngừng không biết đi đâu trong cái sân rộng mênh mông của toà án sau khi phiên tòa kết thúc. Cô thì nói vậy, còn tôi nghĩ có lẽ cô thật sự nhập cuộc từ cái phút cô buột miệng nói với cha của phạm nhân “Cháu là bạn của anh Hoàng Lộc” trong lần cô ghé qua nhà
Cô Lành cười bẽn lẽn rồi chép miệng kể tiếp: - Lúc đó anh Hoàng Lộc đã được đưa đi rồi, những người dự khán cũng đã về gần hết, trên sân chỉ còn lại có hai ông cháu. Ông mặc bà ba đen, khăn rằn quấn cổ, một tay xách chiếc giỏ đệm, tay dắt thằng Cuội lúc đó mới vừa biết đi lẫm đẫm, cả hai đang còn lừng khừng, có lẽ chưa biết phải tính sao. Em bước đến hỏi: “Bác còn nhớ con không?” Ông già trả lời: “Nhớ chớ, nhưng hôm hổm lỡ nói dóc với cháu bây giờ mắc cỡ hổng dám nhìn”. Em chưa hiểu nên hỏi lại: “Bác nói dóc con chuyện gì?” “Thì bác nói mẹ của thằng nhỏ đã chết rồi!”. Em bồng thằng Cuội rồi hôn lên mái tóc khét nắng của nó, thấy thân thương như chính con mình sinh ra. Em nói: “Bác cứ kể như mẹ của nó đã chết rồi. Bây giờ con sẽ là mẹ của nó. - Em hỏi thằng Cuội - Cô làm mẹ của con, con chịu không?” Thằng Cuội gật đầu.
Từ đó đến nay đã gần sáu năm, mà cứ mỗi năm, vào dịp lễ, Tết hay Quốc khánh, cô Lành đều chở hai ông cháu thằng Cuội đi thăm cha nó. Dịp Quốc khánh hoặc Tết không khí ở đấy nhộn nhịp lắm, cảnh kẻ ở người đi diễn ra thật bịn rịn và quyến luyến, bởi đó là những dịp ân xá. Phần cô Lành, đôi ba tháng một lần, tóm lại những lúc rảnh rỗi cô chạy lên trại thăm và động viên anh. Cô khuyên anh gương mẫu chấp hành mọi qui định của trại, tích cực tham gia các phong trào do trại phát động... để có thể sớm trở về với cộng đồng xã hội. Cô biết, dù đang là một phạm nhân nhưng anh là người tốt. Ngược lại, có lẽ nhờ cái “lộc” nhà anh nên từ ngày nhập cuộc vào với gia đình anh, công việc làm ăn của cô cũng diễn ra suông sẻ hơn nếu không nói là phát đạt. Thật là ông trời có mắt.
Tôi không hỏi về số phận của mẹ thằng Cuội và cái gã ẻo lả có giọng hát huê tình. Con người ta đã bất nghĩa lại còn bất nhân cho dù ở đâu cũng là thứ bỏ đi.
Một ngày đầu năm nay, khoảng hơn bốn giờ khuya chuông điện thoại nhà tôi réo liên hồi làm ruột gan tôi thắt lại. Tôi có cha mẹ già ở xa nên rất sợ những cú điện thoại trái giờ, sợ đến mức có lần người ta gọi nhầm số vào quá nửa đêm làm cho tôi không sao ngủ trở lại được mà cứ ngồi nhìn cái điện thoại cho đến gần sáng. Nhưng hóa ra cô Lành: - A lô, anh Nghĩa đó phải không? Em là Lành, Nguyễn Thị Lành nè anh. Anh còn nhớ em không? - À nhớ chớ. Chào cô Lành, cô khỏe chứ? - Dạ khỏe. Anh Nghĩa ơi, anh Hoàng Lộc đã về rồi... - Ủa vậy hả? Về hồi nào vậy? - Mới về tới tức thì. Em nhận được điện của ảnh chiều hôm qua nên tức tốc thuê xe vọt lên trển liền. Tới nơi trời đã tối nên phải về luôn trong đêm. Bây giờ ảnh đang ngồi đây, ngồi sát bên em nè. Anh có muốn nói chuyện với ảnh hông?
Biết nói gì với con người chưa quen qua điện thoại? Tôi nhanh chóng từ chối khéo: - Không dám đâu! Xin nhường niềm vinh dự ấy cho em. Nhắn với chú ấy anh có lời chia vui khi chú ấy trở về với cuộc đời thường... À, bằng cách nào mà chú ấy... - Được ân xá đó anh. Tết này nhiều người được ân xá lắm. Trường hợp anh Lộc, biết rằng thế nào cũng được ân xá vì mình cải tạo tốt, nhưng không ngờ sớm như vậy, thậm chí ngày hôm qua nhận được điện em còn không muốn tin. - Ông cháu thằng Cuội đã biết chuyện này chưa? - Trời phật, anh nhắc mới nhớ. Họ chưa biết. Lẽ ra phải tìm cách báo tin cho họ biết trước chớ.
Quýnh quá em quên đầu quên đuôi không biết nên làm chuyện nào trước chuyện nào sau. Thôi nghen anh, em báo cho anh biết tin vậy thôi. Em cúp máy à. - Khoan, khoan! - Tôi la lên, định ghẹo cô một câu rằng, coi bộ cô còn mừng hơn chính mình vừa được ân xá, nhưng cô đã gác máy. Như vậy là cô quên không xin lỗi tôi về chuyện mới hơn bốn giờ khuya đã dựng tôi dậy. Có thể sau này cô sẽ nhớ và sẽ xin lỗi sau, còn bây giờ thì... Biết làm sao được, khi người ta quá hạnh phúc người ta có còn nhớ gì nữa đâu.