Chỉ mục bài viết |
---|
Thần Tháp Rùa |
Trang 2 |
Tất cả các trang |
Người chủ trọ vì quen tính, cũng không lấy làm lạ, cho Đỗ bơ phờ bởi quá chăm học, chỉ biết ái ngại lắc đầu.
Cứ như thế, thoắt đã nở mùa hoa phượng. Cuộc tình duyên lặng lẽ giữa hai người kéo dài cả một vụ xuân. Một đêm, nàng đến mà ngồi yên, nét buồn in trên vẻ mặt. Đỗ có nắm tay, cũng gượng gạo mỉm cười nhưng không giấu nổi ưu tư. Định hỏi, nàng đã thỏ thẻ bên tai:
"Đã đến lúc xa nhau rồi đây!"
Đỗ không tin mà cãi:
"Xa làm sao được? Mà ai bắt xa nhau?"
Nàng ngồi yên một lát rồi mới nói, giọng như đượm lệ:
"Chàng với em vốn có tiền duyên. Chàng còn nhớ ngày hội nguyên tiêu?"
Đỗ gật. Nàng nói tiếp:
"Em vì mải vui hôm đó nên sa cơ mắc lưới. Chàng vì lòng hào hiệp mà cởi trói cho em. Thụ ơn nặng cùng chàng nên mới có ngày nay".
Đỗ thốt nhiên nhớ lại, giật mình:
"Vậy ra nàng là..."
"Em vốn là loài Rùa, tu đã trọn kiếp, nhất là có công với Đất Nước này nên được Thiên Đình giao cho cai quản ngôi tháp giữa hồ Hoàn Kiếm".
"Nàng nói sao? Nàng có công với Đất Nước này?"
"Chàng đọc sách nhiều, quên việc xây thành Cổ Loa rồi sao?"
"Trời ơi! Thần Kim Quy!"
"Là em đó..."
"Còn chuyện thanh gươm Lê Lợi?"
"Cũng lại là em!"
Đỗ cúi đầu suy nghĩ, giây lâu mới nói nên lời:
"Nhưng tại sao lại phải xa nhau?"
Nàng thổn thức trả lời:
"Em đi lại với chàng, không giấu nổi tai mắt Thiên Đình mà mang tội phải đày sang Động Đình Hồ. Em lén đi giây lát để chàng biết chuyện, mai sớm đã phải lên đường.
Đỗ ôm lấy vai nàng:
"Chậm lại ít bữa được chăng?"
"Lệnh Thiên Đình không thể trì hoãn. Vả công sai áp giải đã chực sẵn từ sáng... Mới lại... đằng nào chẳng phải xa nhau?"
Đỗ ngậm ngùi gặng hỏi:
"Xa nhau mãi ư?"
"Sớm lắm cũng khoảng hai năm. Còn chậm, thật chưa biết đến bao giờ".
Nói rồi, hai người nhìn nhau thổn thức. Ve kêu ran ngoài đường khắp các cành cây. Sao từng ngôi lấp lánh vòm trời. Nàng chợt đứng dậy, nhưng Đỗ bàng hoàng nắm áo, nhất định không chịu chia tay. Nàng đành nuốt lệ nói xẵng:
"Xa nhau ít lâu rồi lại gặp. Chàng sao nặng tình quá thế!"
Đỗ rằng:
"Bây giờ mới biết thế sao?"
Biết Đỗ giận, nàng vội nhích lại gần:
"Nói đùa chàng đấy... Thật tình biết chàng từ lâu, ngay từ khi chưa gặp..."
"Thật hay đùa nữa?"
"Thật đấy! Ngày ngày ven hồ mà đi nghe giảng văn, ai mà không thấy? Lại những trắng đêm đọc sách, vẻ ưu tư của chàng gợn cả sóng hồ. Em vốn cũng nặng tình với số phận Đất Nước, làm gì mà không để ý?"
Đỗ vội hỏi:
"Ở đây rồi sẽ ra sao, có thể biết trước được không?"
Nàng cười mà không trả lời.
Gặng hỏi, thì nàng đáp:
"Biết làm sao được?"
"Cạnh nàng chắc cũng có bàn luận nhiều đến thời cuộc, nỡ nào lại còn giấu nhau?"
"Thân còn không tiếc, giấu chàng làm gì việc ấy?"
Đỗ tần ngần mà rằng:
"Tôi tưởng đã có định trước..."
"Định hẳn làm sao được?"
"Thế sao lại có việc Lê Lợi đào kiếm thần?"
"Đào được kiếm thần thì ai đào mà chả được? Thiên Đình thật ra có biệt nhỡn riêng ai? Chỉ sợ không sử dụng nổi kiếm thần mà thôi!..."
Đỗ không tin:
"Nếu có kiếm thần trong tay thì còn sợ gì nữa?"
Nàng liền nói tiếp:
"Trước kia em cũng lầm tưởng như chàng cho nên mới hủy công tu luyện mà ra công giúp đỡ Thục Vương. Ấy thế rồi mà cũng hỏng cả... Nỏ thần dù mầu nhiệm, nếp xoáy Loa Thành có hiểm trở nhưng người đứng đầu không vững tay sử dụng thì đại sự vẫn không thành... Nhân sự thật là phức tạp. Tính trước làm sao được mối oan tình Trọng Thủy – Mỵ Châu? Cho nên Thiên Đình dù có biết trước thời cơ cũng không lý nổi nhân sự. Lê Lợi, Quang Trung chẳng qua chỉ là những người ý thành, tâm chính, hiểu thời, nổi dậy mà thiên hạ phải bình, có thế thôi!"
Nàng bặt lời, cúi đầu ngẫm nghĩ. Đỗ cũng cảm thấy xáo trộn trong tâm mà yên lặng không lời... Trên trời, sao từng ngôi tắt ngấm. Rì rào ngọn gió bắt đầu kể lể riêng tây đây đó, từng lá từng cành...
Giọng người thần nữ Kim Quy lại thổn thức cất lên:
"Trước kia vì đại sự mà giận Mỵ Châu, bây giờ thật mới hiểu nàng".
"Sao?"
"Lại còn phải hỏi ư?"
"Có bằng Mỵ Châu, Trọng Thủy không?"
"So sánh làm sao được?"
"Nếu muốn thử thách, liệu có dám làm như Mỵ Châu không?"
"Có lẽ cũng không giữ nổi lòng đâu!"
Đỗ rụt rè:
"Ngộ... muốn xin chiếc kiếm Lam Sơn thì sao?"
"Em được lệnh trên mà lấy lại kiếm thần nhưng không giữ..."
"Ai giữ?"
"Chính Lê Lợi!... Nhưng chàng muốn được kiếm để làm gì?"
Đỗ chợt gằn giọng:
"Nhận trách nhiệm. Mưu đại sự".
Dứt lời, gió đột nhiên tự bốn phương ào ào đưa lại. Vòm trời đen kịt nhằng nhịt ánh chớp. Căn gác rung lên cùng tiếng sấm vang dậy.
Thần Kim Quy tái mặt vùng dậy:
"Trời ơi!"
Đỗ cũng hoảng hốt xô lại định giơ tay đỡ nhưng nàng đã rú lên:
"Đừng, đừng chạm vào em! Em không còn là em nữa đâu!"
Trước mắt Đỗ, thần Kim Quy... lần lần lộ nguyên hình.
Đỗ thổn thức cố nói:
"Đừng quên nhau..."
Ánh chớp sáng loáng mai rùa, long lanh ngấn lệ. Thần Kim Quy gật đầu rồi từ từ bò khuất vào giữa cơn bão gió đen kịt đêm tàn xuân. Đỗ gục vào thành giường mà khóc cho đến sáng.
Gần sáng, bão gió chưa tắt, mưa đã dội xuống. Rồi vừa mưa vừa gió suốt ba ngày ba đêm, không lúc nào ngớt. Cây cổ thụ Kẻ Chợ bật gốc có đến mấy trăm thân, nhà Kẻ Chợ bay nóc có đến hàng nghìn chiếc.
Trời hửng nắng, thì cá hồ Hoàn Kiếm chết nổi lềnh bềnh như bèo Nhật Bản. Thiên hạ hiếu kỳ rủ nhau đi xem động nghịt ven hồ, ai cũng lấy làm lạ. Duy có Đỗ từ buổi đó thì thôi hẳn ra đường, suốt ngày thơ thẩn trong phòng, lắm lúc vật mình mà khóc, có đêm ôm gối tương tư, như điên như dại. Lúc đầu còn có bạn đến thăm, nhưng vì lãnh đạm không tiếp, lâu dần chẳng còn ai lui tới.
Năm Mão qua đi trọn bốn màu, Đỗ không thôi thương nhớ. Một ngày trọng Đông năm Thìn, Đỗ không đâu mà cảm thấy bồn chồn, tâm linh xao động, dường như có gì thúc bách. Bèn tung chăn đứng dậy, bách bộ quanh phòng. Một lát, dừng bước trước đống sách. Quen lệ cũ, đã định giơ tay với một cuốn: gió bấc chợt lọt kẽ song, phả và mặt Đỗ một mùi tử khí tự đống sách dâng lên. Nhìn kỹ, mốc xanh lốm đốm khâm liệm đống sách đã tự bao giờ. Nhằng nhịt, nhện đã giăng tơ, tơ nhện hứng bụi tường tỏa trắng một góc buồng. Tự đêm nguyên tiêu kỳ ngộ, có lần nào Đỗ nén lòng đọc được một trang? Vả lại, cũng tự đêm ấy, Đỗ bắt đầu thấy ngấy chữ nghĩa cổ nhân...
Đỗ nhìn xuống bàn tay. Bàn tay vốn xanh xao bỗng trở nên gân guốc. Như muốn đập phá. Như muốn cấu xé. Thế rồi, giữ lại cũng không kịp, hai bàn tay, mười ngón chồm lên. Khi định thần, đống sách đã nằm gọn trong lò sưởi góc phòng.
Cuộc phần thư bắt đầu.
Năm xưa, ngọn lửa phần thư nhóm lên do một bàn tay ưa chuyện "khanh nho". Kẻ sĩ đời Tần nghẹn ngào, hằn học, lời nguyền rủa vượt khỏi Trường Thành, sang sảng cập đến tai hậu thế.
Giờ đây, lửa phần thư do chính một kẻ sĩ tự ý gây lên. Lửa không lan rộng mà âm ỉ xoáy hẳn vào bề sâu một cơn khủng hoảng.
Đỗ nhập thiền, vừa chứng kiến, vừa chịu cực hình một lễ hỏa thiêu lạ lùng. Từng tờ một, quằn quại để rồi siêu thoát, từng nguồn tư tưởng. Christ từ từ ngược lại quãng đường dẫn tới đỉnh Golgotha. Thích Ca Mâu Ni lại gặp một gốc Bồ Đề. Mã Khắc Tư thủ thế trước Freud. Sartre giật mình, ngơ ngẩn trong một thế giới ngõ cụt. Rồi lần lượt Hégel, Lão Tử, Khổng Khưu... từng tờ một, thiêu dần từng nỗi băn khoăn. Đỗ qua từng cơn cảm giác tân kỳ. Có lúc xót xa như bị lột xác, có lúc rợn người như thoáng bóng ma, nhiều khi ê chề như bị lăng trì. Dần dà thì tâm trí lâng lâng, ngũ giác gấp phần minh mẫn. Tưởng như mang nổi nghìn cân, mọc cánh mà bay ngang con hồng, con hộc, vươn mình đuổi kịp ngựa Ký, ngựa Kỳ.
Ngọn lửa trong cung lò cũng qua cơn ngùn ngụt, tới độ điều hòa. Đỗ đắm mình trong hơi ấm của lửa. Giữa tiết trọng đông mà không khí gian phòng gợi đến nước sông Nghi và tấm áo mát của thầy Tăng Điểm. Không khí gợi đến hơi thở của...
"Em đã về đây... chàng!"
Lửa thư phần đã tắt. Trên đống tro tàn của đống sách hỏa thiêu, người thần nữ Kim Quy xuất hiện.
Đỗ bàng hoàng giơ tay chới với. Nàng từ lò sưởi bước ra, hương thơm ngây ngất quanh phòng.
"Trời! Ta mê hay thật là nàng?"
Đỗ nắm chặt tay người thần nữ. Yên lặng ngùi ngùi trong gian phòng ấm áp.
Một lát sau, nàng nhẹ nhàng rút tay ra rồi mỉm cười:
"Đã quyết định rồi sao?"
"Sao lại hỏi thế?"
"Thế sao lại đốt sách?"
"Đốt sách là quyết định ư?"
"Chàng chỉ còn một chút sản nghiệp tinh thần. Hỏa thiêu đi là đã có ý định rồi đó!"
"Không biết có ý định gì, nhưng vì đốt sách mà gặp lại nhau, không quý sao?"
"Tại sao chàng biết đốt sách thì gặp lại em?"
"Căn vặn nhau mãi!"
Nàng ngồi yên không nói. Đỗ gạn hỏi thì nhìn Đỗ mà tủm tỉm cười. Bèn nắm lấy tay, đùa mà dọa:
"Không nói thì lại bắt chước họ Thẩm, còn nhớ không?"
Nàng nghiêm nét mặt:
"Cái dây của một viên thị trưởng bằng sao được một mối tình? Không cần trói cũng khó mà rời nhau..."
Thấy Đỗ ngậm ngùi, nàng lại nói tiếp:
"Lần trước gặp chàng vì tiền duyên. Cũng vì tiền duyên mà mang lụy tại Động Đình Hồ. Nhưng vì mối tình của chàng có nặng, sóng tình cập tới Thiên Đình, nên em sớm được trở lại với chàng..."
Đỗ lộ vẻ mừng:
"Có thể ở luôn với nhau được không?"
Nàng rằng:
"Sao lại không? Nhưng còn phải đợi... Số là, lại với chàng, em còn một nhiệm vụ".
"Sao..."
"Chàng cứ yên, em xin nói. Trước khi gặp em, chàng thường băn khoăn về thế cuộc. Điều đó chân thành xuất tự tâm can, hiện lên vẻ mặt, tất không giấu nổi Thiên Đình. Nhưng muốn mưu đại sự, một nỗi băn khoăn tất nhiên chưa đủ. Cần phải có thời... Mà xét kỹ thì thời đến rồi đó..."
Đỗ bồn chồn, ngồi sát lại gần:
"Xin nói rõ cho nghe..."
"Chàng còn nhớ khi chia tay lần trước, chàng có gợi đến việc kiếm thần..."
"Quên làm sao được?"
"Chuyện có thể thành đấy... Nhưng... chàng có hiểu tại sao em lại về đây, giữa khi chàng đốt sách?"
"Hiểu làm sao được..."
"Thật tình nếu không có việc đốt sách thì chẳng bao giờ lại được gặp nhau".
"Ồ!..."
"Vì... Thiên Đình tuy để ý tới chàng nhưng còn đợi chàng tự quyết định".
"Vậy ra đốt sách là quyết định hay sao?"
"Chưa hẳn là thế, nhưng ít ra cũng lộ một phần ý chí..."
Đỗ vùng dậy, đi lại quanh phòng. Người thần nữ yên lặng nhìn theo, đầu mày cuối mắt lộ tình quyến luyến. Đêm lặng lẽ xuống dần. Lòng người trẻ tuổi tơ vò trăm mối.
Có cơn gió bấc lọt kẽ song. Đỗ rùng mình tiến lại phía người thần nữ, người nàng ấm như áo khinh cừu. Hai bàn tay run rẽ như hai con sẻ, Đỗ hơn nhích ra xa, giọng cất lên biểu lộ nỗi đắn đo đến cực độ.
"Giờ đây xin ngồi yên để nghe lời vàng ngọc. Nàng hãy giảng giải rõ ràng. Sau cùng sẽ xin quyết định".
"Xin hỏi lại chàng, tại sao lại đốt sách?"
"Cũng không hiểu tại sao. Lúc biết thì lửa đã bén vào sách".
"Thật ra thì cái việc phần thư của chàng âm ỉ đã từ lâu. Từ lâu, từ đêm đầu tiên gặp gỡ, chàng đã thấy bực dọc với chữ nghĩa của người xưa..."
"Xin nghe..."
"Chàng khổ tâm vì trong cái thế tranh hùng Hán Sở, không biết đâu là nơi dụng võ. Một đằng là búa đập xuống đe, một đằng là mặt đe nẩy lửa. Một đằng là kẻ có tiền, một đằng là hoàn toàn tay trắng. Nhập vào đâu cũng chỉ là kế nhất thời. Đứng ở đâu cũng là mượn tạm đất đứng..."
Người thần nữ im lặng giây lâu, rồi lại tiếp:
"Lý ưng ra, chàng phải nhập vào bọn người áo vải vì thật tình sản nghiệp của chàng không một tấc đất cắm dùi. Nhưng cái khổ của chàng lại là những uẩn khúc tâm tư, nhằng nhịt, dọc ngang như thế bàn cờ..."
"Vậy đốt sách đi..."
"Đốt được nhà... nhưng đốt sao được sách? Chàng còn nhớ cuộc phần thư thủa bắt đầu xây dãy Trường Thành? Càng đốt sách, nghĩa của chữ lại càng trong trẻo, dễ vút lên cao, dễ lan ra rộng... Họ Tần đốt sách Khổng Khưu vậy mà cái lý Tam Cương của người nước Lỗ đâu có bị hỏa thiêu cùng sách?"
"Thế ra đốt sách..."
"Là một chuyện cần. Vì đối với chàng, đó là một hành vi quyết định. Hành vi đó lại là một lời cầu nguyện động đến Thiên Đình. Và em đã được phép trở lại với chàng, khi lửa phần thư bắt đầu dịu ngọn. Chàng muốn thiêu hủy đến không còn một tấc đất tư duy. Nhưng kết cục, chàng lại thấy em, giữa đống tro tàn. Em là của chàng. Cũng như đã từ lâu chàng là của riêng em".
"Nói vậy, hóa ra lại thành Vương Khải, Thạch Sùng? Cái lẽ quyết định là ở chỗ đó sao?"
"Sao lại mơ hồ đến thế, hở chàng? Mặt trời sắp mọc và mặt trời đang lặn, ánh sáng tuy bàng bạc như nhau, nhưng sao lại ví cái thế bình minh khởi sắc với ánh tà thoi thóp của lửa hoàng hôn?"
Đỗ cúi đầu suy nghĩ. Trong tịch mịch của đêm đông, người con trai bắt đầu giác ngộ. Giữa bãi chiến trường nhọn hoắt đao gươm, Đỗ lần lần nhận rõ chỗ đứng của mình. Người thần nữ đọc được ý nghĩ của chàng. Nàng bèn lên tiếng:
"Trong binh pháp, thường nhắc đến thế bối thủy. Chàng nhận thấy chưa? Không tiến cũng chết. Mà đứng yên lại càng chóng chết".
Đỗ ngước mắt nhìn nàng:
"Không biết một mình có làm nổi..."
"Sao lại một mình? Thời đã đến, ắt là cái thế chung cho phần đông thiên hạ. Vả lại kiếm thần sẽ giao phó tận tay, chàng ngần ngại ư?"
Đỗ đứng phắt dậy:
"Thật ư? Kiếm thần..."
"Nhận kiếm thần chính là nhận nhiệm vụ".
Đỗ bồn chồn:
"Vậy bao giờ?"
"Hẹn chàng giữa đêm trừ tịch, năm nay".
"Ngay bây giờ không được sao?"
"Ngay bây giờ ư? Bây giờ... chàng ơi!..."
Giọng người thần nữ thiết tha. Mắt nàng ngời sáng. Đỗ lạc vào một rừng hoa lạ. Trong yên lặng của trời đất, niềm giao hòa vượt khỏi nhung của da và hoa hồng tím thẫm của môi, chơi vơi tới mãi nơi thượng từng tĩnh khí.
Gà gáy sáng tự bao giờ.
Năm Thìn, giữa đêm trừ tịch, cầu Thê Húc tự nhiên sụp đổ. Người Kẻ Chợ đi xin lộc đền Ngọc Sơn ngã xuống hồ không biết bao nhiêu mà kể. Thiên hạ xôn xao. Có người cho là Thần Rùa báo oán việc xưa. Có kẻ nghi là điềm gở, tính việc bán nhà mà bỏ vào Nam.
Lúc sửa lại cầu, viên đốc công thấy chân cầu tuy gãy mà gỗ vẫn tốt nguyên. Duy chỗ gãy như có vật sắc phạt ngang, ngày đêm rỉ nhựa đỏ lòm như máu. Nói lại, ai cũng cho là lạ. Kẻ bàn, người tán, không biết ra sao.
Có người biết Đỗ, tìm đến tận nơi định hỏi. Nhưng cũng giữa đêm trừ tịch, Đỗ đã bỏ kinh thành, biệt vô âm tín.
1954