Lời nói ngang bướng của tay nhậu nầy, nếu vài năm trước chú Năm nghe có lẽ chú khó chịu, giờ đây nhờ suy gẫm tinh thần Di Lặc, chú bình thản mỉm cười thông cảm. Chú nghĩ mỗi người hình dung Phật mỗi khác. Anh ta đồng hóa Phật như loại thần hạ cấp, sẵn sàng ăn hối lộ ban phước họa, và có lẽ, anh đã dụ dỗ "Phật !", hứa hối lộ nồng hậu để được báo mộng lô tô hoài mà chẳng thấy nên mới nổi nóng như vậy. Dĩ nhiên "Phật !" theo kiểu của anh ta, không dính líu gì với Đức Phật, vị đạo sư mà chú Năm nguyện nương tựa học tập hạnh nguyện của người để tìm đạo giải thoát. Chú Năm yên lặng, nhưng Thịnh lại lên tiếng gây : - Xì tốp dùm tao đi Quan ! Đừng phát ngôn bừa bải tại nhà tao ! Xui xẻo cả lũ thì sao ? Thịnh chỉ sợ xui thôi, chớ trong thâm tâm chắc hắn cũng tán đồng với tên Quan nầy. Hắn rất khoái châm ngôn mạnh được yếu thua và rất tự hào về tài ba xảo thuật giúp hắn thành công tại xứ người, hắn chỉ nghĩ đến Trời Phật chẳng qua là để lợi dụng : chỉ bỏ chút đỉnh công thờ cúng mà được lợi to, vậy thôi. Bất ngờ, sáu Ngầu, con người vốn lầm lì ít nói, bỗng tò mò hỏi : - Hồi nảy, anh nói thờ tượng Di Lặc để học buông bỏ, nhưng buông bỏ cái gì nỗi với đám con nít leo trèo phá phách vậy anh ? - Thưa, sáu đứa con nít là tượng trưng cho sáu căn : tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý. Khi tiếp xúc với đời, sáu căn lăn xăn quay cuồng, khiến cho thương yêu, ganh ghét, vui buồn, hờn giận phát sanh. Bồ Tát cũng tiếp xúc với đời, cũng thả lỏng sáu căn tức sáu đứa con nít ra, nhưng không bị sáu căn quay cuồng làm loạn động, vì biết buông bỏ không đắm nhiễm, do đó, nụ cười lúc nào những tỏa ra niềm an lạc, từ bi và hỷ xả… Thờ tượng Di Lặc nhằm học hạnh buông bỏ thù hận, thương yêu ganh ghét…, để biết sống an lạc trong hiện tại. - Nầy anh Thịnh ! anh không thờ tượng Di Lặc, thì cho tôi xin vậy ! Tên đồ tể khát máu mà đòi thờ Phật ! Chú Năm thoáng nghe hơi lùng bùng lỗ tai, vì không hiểu mình đang mơ hay tỉnh. Quan cười sặc sụa, hổn hào ré vang : - Ối trời đất ơi ! tận thế đến nơi rồi ! sáu Ngầu đòi tu bà con cô bác ơi ! Không đếm xỉa gì đến lời trêu ghẹo của Quan, sáu Ngầu nghiêm trang hướng về chú Năm cất tiếng : - Tôi có mối hận thù hơn hai mười lăm năm nay vẫn đeo đẳng tôi, khiến con người tôi luôn luôn bị ray rức dằn vật, khổ sở triền miên. Tôi hy vọng tượng Di Lặc sẽ nhắc nhở tôi buông bỏ để an vui với nếp sống bình thường… Trầm ngâm thả hồn quay về dĩ vãng, sáu Ngầu chậm rãi kể lể : - Đêm hôm đó, anh ruột tôi, một nhà giáo hiền lành tại Cầu Voi, Tân An bỗng bị bọn sát nhân tràn vào nhà, lên án tử hình, rồi cắt cổ anh tôi như cắt cổ con vật. Cảnh tượng rùng rợn đó xảy ra lâu lắm, mà tôi vẫn cảm tưởng như mới ngày hôm qua. Tôi đã thề nguyện sẽ trả thù, đích thân cắt cổ bọn chúng từng tên. Tôi rất quyết tâm, nhưng chuyện tầm thù lần lần trở thành vô vọng, nhứt là sau khi tôi đã lưu lạc đến xứ nầy. Tuy nhiên, niềm khao khát trả thù vẫn sôi sục, rồi có cái gì thúc đẩy tôi đổ dồn căm hờn lên đầu những con vật. Khi cắt tiết dê tôi thích thú như chính mình đang cắt cổ những tên khát máu ngày xưa, khi rút máu vịt tôi khoan khoái cảm tưởng như đang hành hạ bè đảng tham ô rút tỉa máu dân lành. Thế nhưng sau giây phút sung sướng ngắn ngủi đó, tôi luôn luôn trở về với sự thực, để rồi bao ăn năn, xao xuyến ray rức ngày đêm. Tôi phải học tập buông bỏ thì họa may mới thoát khỏi ám ảnh ma quái nầy… Chú Năm rất muốn nhắc lạc câu chuyện của Vô Não cùng với thiền ngữ "quăng dao đồ tể, ngay đó thành Phật" (2) để nung chí sáu Ngầu, nhưng ngần ngại rồi chỉ dè dặt an ủi : - Tôi thật không ngờ anh Sáu có tâm sự buồn thảm như vậy ! Đúng đó anh Sáu, chuyện hiện tại vui buồn mình đã nên buông bỏ rồi, huống chi chuyện xa xưa. Mình ôm ấp thì chỉ mình bị khổ sở thiệt thòi mà thôi. Dường như sáu Ngầu còn muốn bày tỏ thêm điều chi nữa, nhưng chủ nhà đã cười vui, tiệc rượu khởi sắc trở lại, tiếng hò hét cụng ly rộn ràng, khiến sáu Ngầu im bặt. Chú Năm từ giả ra đi vào nửa khuya, thoải mái như vừa thoát khỏi một con trốt mù mịt. Chú hứa cuội với Thịnh sẽ trở lại nhà bạn ngủ nghỉ, nhưng lặng lẽ đi thăm Hoàng rồi trốn tuốt về Arizona mất dạng. Sợ bị Thịnh chưởi, chú êm ru chẳng dám liên lạc thăm viếng gì cả. Chắc Thịnh cũng phiền chú, nên mãi đến hơn năm tháng sau mới điện thoại qua : - Ê ! Năm !, tiếng Thịnh reo dòn tan vui vẻ. - Tao nghe đây ! - Mầy qua Cali chơi mà được việc cho tao quá ! - Khỉ ! "phá mồi ăn hại thì có ! - Thiệt mà ! nhờ mầy chỉ vẽ cho tao thờ đúng tượng Thần Tài nên Thần Tài gõ cửa tao lu bù ! Ha ! ha ! tao thỉnh luôn ba ông, một ông ở văn phòng, hai ông ở nhà. Tại nhà, thì thắp nhang mỗi ngày, ở văn phòng thì xoa bụng van vái như bọn Mỹ, có lẽ, nhờ vậy nên hên không tưởng tượng nỗi ! áp phe vô ào ạt… - Tiền tài vô ngọt như vậy là quá đẹp rồi ! thôi thì mầy cũng nên bỏ bớt một mớ đem cầu phước, cầu đức đi mầy ! - Giỡn hoài mầy ! tao chỉ cần tiền ! cầu tiền vô thôi ! có tiền thì mua tiên cũng được ! còn phước đức thì mua được thứ gì vậy mậy ? - Ơ ! thì đề nghị chơi vậy mà !… - Ê Năm ! tao vừa tìm ra một nghề mới cho mầy nè ! khỏe mà tiền vô đều đều hà ! - Nghề gì vậy cha ? - Nghề "giặt tiền" (3) ! Mấy văn phòng dịch vụ của bọn tao cần phi tan những tấm chi phiếu của tụi bảo hiểm trả tiền để khỏi phải khai thuế. Tụi tao cần người tin cậy, giao chi phiếu đến ngân hàng lãnh tiền mặt ăn hoa hồng. Nghề nhàn nhã, mỗi ngày tà tà xách samsonite đi chừng hai tiếng, thế mà mỗi tháng thu vô năm sáu ngàn "đô" như chơi ! chịu không ? - Nguy hiểm thấy mồ ! - Hừ ! đàn bà người ta cũng làm ào ào mà có sao đâu ? thân mầy như trâu ai dám phục kích giựt tiền mà sợ ! - Hì ! hì ! sợ là sợ con mụ vợ của tao ! Nó thấy tao diện kẻng xách samsonite đi mỗi ngày, nỗi cơn ghen phục kích đánh ghen mới nguy hiểm khôn lường chớ ! thôi mầy biết tính tao mà ! tao cám ơn mầy thương tao, muốn giúp tao, nhưng tao an phận nghèo với nghề công nhân mạt hạng mà ! A ! còn sáu Ngầu độ rày ra sao ?, chú Năm hỏi lảng sang chuyện khác. - Thật là chuyện kỳ lạ bốn phương, khó tin mà có thật ! Lưu linh mà nó cai rượu, cai thuốc mầy ơi ! Thịnh kết thúc cuộc điện đàm bằng tràng cười sung mãn yêu đời. Cuộc điện đàm tưởng vẫn còn văng vẳng bên tai, thế mà, chỉ hai tuần sau, chú Năm lại nhận được tin buồn của bạn. Thịnh bị giết bí mật và thảm khốc. Kẻ gian đã đập đầu anh ta như một con vật, cột chung trong bao với viên đá to tướng, quăng xuống biển phi tang, nhưng bằng sức mạnh nào, xác chết của Thịnh vẫn vọt lên mặt nước, để phô bày ra ánh sáng vụ sát nhân. Chú Năm tức tốc về Cali để kịp thời dự tang ma bạn. Chú nghẹn ngào trước cổ áo quan, muốn cất tiếng vỗ về, an ủi mà ấp úng chẳng nên lời. Một vị đại đức đang đơn độc tụng kinh cầu siêu, trong khi vợ con khóc lóc kêu gào kể lể từng cơn, và đám bạn bè tụm năm tụm ba xầm xì bàn tán hàng trăm giả thuyết về nguyên nhân án mạng. Chú Năm nghĩ giờ nầy có lẽ hồn bạn lẩn khuất đâu đây, đang nghẹn ngào tức tưởi, căm căm thù hận, rối ren thương tiếc miên man…, mà thời tụng niệm lại đơn sơ, lạc lõng thì làm sao có đủ tha lực trợ giúp cho thần thức siêu thoát được. Chàng chỉ mong Thịnh nhớ lại hình ảnh tượng trưng của tượng Di Lặc, để buông bỏ tất cả và nhẹ nhàng ra đi, nhưng âm dương hai ngả làm sao giải bày. Chú thì thầm : "Buông bỏ ! Thịnh ơi ! tất cả đều giả tạm đừng luyến tiếc Thịnh ơi !… ". Thời tụng niệm vừa chấm dứt thì sáu Ngầu len lại đứng gần chàng nói nhỏ: - Cảm tạ anh tạo duyên cho tôi thờ tượng Di Lặc. Tôi đã buông bỏ được hận thù, bỏ được tật nhậu nhẹt và sống bình thường rồi anh. Niềm vui của tôi bây giờ, là làm việc có tiền gởi quà cho đám cháu ở nước nhà, ngoài ra, tôi cũng bắt đầu học hỏi Phật pháp, để tập giữ lòng bình an, thư thái nhẹ nhàng. Thật tội cho anh Thịnh không biết có phải vì việc cho tôi tượng Di Lặc mà ảnh gặp chuyện chẳng may không ? - Không đâu ! anh ấy điện thoại cho tôi khoe là nhờ thay đổi tượng Thần Tài mà anh ấy hên vô cùng, còn vụ nầy thì kể ra… - Thần Tài cũng lại gõ cửa nữa ! Cũng tên Quan lấc cấc quen tật phát ngôn bừa bãi, ồn ào chen vào. Hắn thô lỗ chẳng giữ gìn ý tứ, cứ ong óng như chỗ không người, mặc cho thiên hạ bực bội, phớt lơ tiếp tục câu phê phán "xanh dờn" : - Thần Tài linh ứng quá cỡ đa ! ảnh mới đóng bảo hiểm nhân mạng cách nay một tuần lễ, thì Thần Tài đã gõ cửa cái rụp…, tiền bạc lại vô cái ào ! Rồi nhỏ giọng như than thở một mình, hắn nói tiếp : - Có điều tiền vô bằng cách nầy thì cũng hơi trớ trêu một chút ! Tháng 8.1993 Ghi chú : 1. Bồ Tát Di Lặc, người Nam Ấn, thuộc gia đình Bà La Môn, sau theo Phật xuất gia tu hành, và từ trần trước khi Phật nhập Niết bàn. Phật cho biết Bồ Tát Di Lặc thọ sanh về cung trời Đâu Suất trụ bốn ngàn muôn năm, sau đó hạ sanh về thế giới ta bà, tu tại vườn Hoa Lâm, dưới cội cây Long Hoa, thành Phật hiệu là Di Lặc. Đức Phật Di Lặc sẽ thuyết pháp ba kỳ nơi cội cây Long Hoa, độ vô số chúng sanh. Tính theo quyển Phật tổ thống ký, thời gian từ lúc Đức Phật Thích Ca nhập diệt cho đến khi Đức Di Lặc hạ sanh tính ra là tám triệu mười vạn tám ngàn năm (8.108.000) năm. Chư Đại Bồ Tát thường phân thân khắp mười phương thế giới để thuyết pháp độ sanh, nhưng Bồ Tát hóa thân chân chính xuất hiện âm thầm hoằng dương chánh pháp, chỉ để lại bài kệ tiết lộ tông tích mình khi sắp tịch diệt. Đó là trường hợp của Bồ Tát Di Lặc, mà theo sử liệu Trung Hoa tin tưởng, thì Ngài đã hóa thân tại Song Lâm, với tên là Phó Đại Sĩ, và tại Nhạc Lâm, nước Lương, với pháp hiệu là Bố Đại hòa thượng. Tượng Di Lặc, có đám trẻ con quấy nhiễu đã tạc dựa trên sự tích của Bố Đại hòa thượng. Ngài ăn mặc xốc xếch, mang bị lớn, ai cho chi cũng dồn vào bị, rồi đem phân phát cho trẻ con. Ngài vui tươi chơi đùa với trẻ nên chúng rất thích, thường bu quanh Ngài phá khuấy. Hạnh nguyện hỷ xả của Ngài thể hiện qua những mẫu đối thoại sau đây : Một hôm hòa thượng Bạch Lộc hỏi : "Thế nào gọi là : cái túi vải ?". Ngài nghe hỏi liền bỏ túi xuống đứng khoanh tay. Bạch Lộc hỏi thêm : "Công việc của túi vải ra làm sao ?". Ngài liền mang túi vải mà đi, không nói một lời nào cả. Lại một lần khác, hòa thượng Bảo Phước thỉnh ý Ngài : "Đại ý Phật Pháp như thế nào ?". Ngài buông bị lớn rơi xuống đất, đứng thẳng khoanh tay. Bảo Phước hỏi tiếp : "Chỉ như vậy hay có gì hướng thiện không ?". Ngài mang bị vải lên vai mà đi… Một vị khác, Trần cư sĩ hỏi Ngài : - Bạch hòa thượng ! Ngài có pháp hiệu hay không ? Ngài đọc bài kệ trả lời : Ta có cái tủi vải, Rỗng rang không quái ngại, Mở ra khắp mười phương, Thâu vào Quán tự tại. Trần cư sĩ lại hỏi : - Hòa thượng vân du có mang theo hành lý chi không ? Hòa thượng lại đọc kệ : Bình bát cơm ngàn nhà Thân chơi muôn dậm xa, Mắt xanh xem người thế, Mây trắng hỏi đường qua. Trần cư sĩ thỉnh Ngài ở nhà một đêm để cúng dường. Sáng lại Ngài ra đi, lưu lại bài kệ dán nơi cánh cửa : Ta có một thân Phật, Có ai đặng tường tất, Chẳng vẽ cũng chẳng tô. Không chạm cũng không khắc, Chẳng có chút đất bùn. Không phải màu thể sắc; Thợ vẽ, vẽ không xong, Kẻ trộm, trộm chẳng mất, Thể tướng vốn tự nhiên, Thanh tịnh trong vằng vặc; Tuy là có một thân, Phân đến ngàn trăm ức. Khi sắp tịch Ngài để lại bài kệ : Di Lặc thật Di Lặc, Phân thân trăm ngàn ức; Luôn luôn chỉ người đời, Người đời tự chẳng biết. Kể từ đó, người Trung Hoa tạc tượng Bồ Tát Di Lặc dựa theo hình dáng Bố Đại hòa thượng, chung quanh có năm, sáu hoặc mười tám đứa trẻ bu quanh chọc phá. Sáu đứa nhỏ tức lục tặc (sáu tên giặc) tượng trưng cho sáu căn : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Vì sáu căn tiếp xúc với ngoại cảnh, đắm nhiễm vọng động mà muôn điều tội lỗi phát sanh, nên đối với kẻ tu hành sáu căn cũng là sáu giặc. Bố Tát cũng mở rộng sáu căn tiếp xúc ngoại cảnh, nhưng không đắm nhiễm nên được an nhiên tự tại. Còn 18 đứa con nít là tượng trưng cho 6 căn + 6 trần + 6 thức; tượng năm đứa con nít, có lẽ chủ trương chỉ tạo hình ảnh tượng trưng của năm căn thô, còn ý căn không lộ ra ngoài nên đứa nhỏ thứ sáu cũng ẩn dạng. (trích dẫn dựa theo Thâm ý qua hình tượng Phật, Bồ Tát của hòa thượng Thanh Từ và Sự tích Đức Di Lặc Bồ Tát trong Từ bi Âm). 2. Phóng hạ đồ đao lập địa thành Phật, sự tích của đồ tể Quảng Ngạch, quăng dao mổ heo, liền tại đó ngộ đạo. 3. Giặt tiền (money luandering) : Giặt tiền là loại dịch vụ nhằm xóa sạch dấu vết tiền bạc thu được. Có hai dịch vụ giặt tiền hoàn toàn khác nhau : - tiền mặt trong các vụ buôn bán bất hợp pháp như xì ke, ma túy… chuyển vào ngân hàng trực tiếp hay gián tiếp qua các loại tiệm thực dụng, cây xăng, food to go…, để biến thành tiền hợp pháp an toàn trong các chương mục ngân hàng. - tiền chi phiếu của các văn phòng dịch vụ nhận được (thường từ các hãng bảo hiểm), phối trí cho cá nhân lãnh thành tiền mặt, để mất dấu khỏi lập hồ sơ khai thuế. Loại nầy chính là loại được đề cập trong truyện ngắn này